Báo cáo Ban bí thư về vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

NỘI DUNG I/ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM- TỪ NHẬN THỨC LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG 1/ Nhà nước pháp quyền - giá trị phổ biến của nhân loại 2. Vận dụng những giá trị phổ biến của Nhà nước pháp quyền vào thực tiễn Việt Nam theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam .

doc82 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2627 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Ban bí thư về vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủ nghĩa cá nhân, thực dụng, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, thiếu tự giác rèn luyện, phấn đấu, thiếu tinh thần đồng chí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ diễn ra nghiêm trọng, kéo dài nhưng chậm có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn và kịp thời xử lý, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ. (v) Chế độ tiền lương của công chức và viên chức Nhà nước chứa đựng quá nhiều bất cập xét cả ở mức độ đáp ứng yêu cầu tối thiểu của đời sống lẫn cả ở tính công bằng, ở động lực thúc đẩy công việc. 3.9. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong quá trình xây dựng Nhà nước PQXHCN 3.9.1.Những kết quả chính đạt được: (i) Trên cơ sở Cương lĩnh 1991, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, từng bước làm rõ yêu cầu đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2/, khóa VII (12-1991) khẳng định quan điểm: "Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là điều kiện quan trọng nhất để tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, làm cho sự lãnh đạo của Đảng có chất lượng và có hiệu quả hơn, đồng thời làm cho sự quản lý và điều hành của nhà nước có hiệu quả, pháp luật được tôn trọng, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy". Đảng lãnh đạo Nhà nước chứ không làm thay Nhà nước. Cần phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Nhà nước thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng. Thực hiện quan điểm chỉ đạo đó, ngày 15-4-1992, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp sửa đổi, quy định những vấn đề cơ bản nhất về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân đồng thời khẳng định tại điều 4 vị trí lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội; khẳng định mọi tổ chức Đảng và đảng viên đều phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền. Nghị quyết Trung ương 3/khóa VIII (6-1997) đã khẳng định ba nội dung trọng yếu về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là: (i) Lãnh đạo các cơ quan nhà nước kịp thời thể chế hóa đường lối của Đảng thành pháp luật; (ii) Tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, thực sự vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân; (iii) Tăng cường kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên trong việc thực hiện các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đại hội IX của Đảng đã tiếp tục khẳng định nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: "Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, các chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước...". Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nêu rõ: "Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước trong từng lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp và từng cấp, từng loại hình tổ chức nhà nước". Đó chính là sự đổi mới nhằm phát triển và tiếp tục hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Như vậy, có thể thấy, quan điểm về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền là khá nhất quán và từng bước được cụ thể hoá: - Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước gồm 3 điểm chủ yếu: (i) lãnh đạo nhà nước thể chế hoá đường lối của Đảng; (ii) lãnh đạo việc xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các cơ quan nhà nước; (iii) Kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước từ phía các tổ chức và đảng viên; - Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước:(i) lãnh đạo chủ yếu bằng cương lĩnh, đường lối, chủ trương lớn định hướng cho sự phát triển của nhà nước; (ii) lãnh đạo thông qua các đảng viên ở các cương vị lãnh đạo chủ chốt của nhà nước (iii) Lãnh đạo thông qua hoạt động giám sát, kiểm tra trực tiếp việc các cơ quan nhà nước thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật cuar Nhà nước. - Yêu cầu tuân thủ pháp luật đối với sự lãnh đạo của Đảng: Các nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước phải được luật hóa hoặc quy chế hoá , phải được cụ thể hoá phù hợp với đặc thù của từng nhánh quyền lực nhà nước (ii) Đã có sự chuyển biến về nhận thức và hành động thực tiễn của các cấp uỷ đảng trong việc lãnh đạo việc xây dựng nhà nước pháp quyền, hoàn thiện bộ máy nhà nước: Nhận thức rõ hơn quyền lực chính trị của Đảng khác với quyền lực nhà nước; mục tiêu, phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và tổ chức hệ thống bộ máy của Đảng khác với mục tiêu, phương pháp quản lý của nhà nước và hệ thống tổ chức bộ máy của nhà nước; thước đo hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng phải được thể hiện ở sức mạnh, hiệu lực thực tế của Nhà nước; Từng bước quy chế hoá các nguyên tắc, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước pháp quyền nói chung, lãnh đạo từng nhánh quyền lực nói riêng. BCH trung ương khoa IX đã xây dựng và thực hiện Quy chế hoạt động của BCHTW, Bộ Chính trị, Ban bí thư và các uỷ viên BCH TU. Đã bước đầu xác định được đặc thù của nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan thuộc mỗi nhánh quyền lực nhà nước: (iii) Các nghị quyết của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước, về từng cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp đã dược các cơ quan nhà nước và các cấp uỷ, chính quyền địa phương cụ thể hoá thành các chương trình hành động, các kế họach công tác có trọng tâm, trọng điểm với các giải pháp cụ thể. Một trong những kết quả rõ ràng và bước đầu thành công của sự đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước pháp quyền XHCN chính là việc Bộ Chính trị BCH TW Đảng khoá IX đã ban hành hai bản chiến lược trong lĩnh vực pháp luật và cải cách tư pháp định hướng cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và hoàn thiện tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp theo các nguyên tắc pháp quyền XHCN. Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị dưới sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp ở Trung ương và các Ban chỉ đạo CCTP ở các địa phương cũng là một mô hình mới về cách thức Đảng lãnh đạo các cơ quan Đảng và cơ quan nhà nước hiện thức hoá các định hướng chiến lược trong nghị quyết của Đảng thành các chương trình, đề án cải cách của các bộ, ngành, địa phương. 3.9.2 Những hạn chế chính và nguyên nhân: (i) Về công tác lý luận: Rất nhiều vấn đề lí luận đặt ra từ thực tiễn về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường và xã hội dân sự chưa được giải đáp, đặc biệt là vấn đề về nguyên nhân và giải pháp ngăn chặn sự tha hoá quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước ở trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp (ii) Về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước pháp quyền : - Chậm đổi mới tư duy thể hiện trong các quy định về quan hệ, lề lối làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các Ban tham mưu của Đảng với Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự Đảng Chính phủ và Ban Cán sự Đảng các bộ, ngành trên các mặt công tác, trong đó có vấn đề nhân sự của các cơ quan nhà nước trung ương, chưa thực sự thể hiện năng lực lãnh đạo của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế; - Công tác kiểm tra của Đảng đối với các tổ chức đảng và cá nhân đảng viên thuộc diện quản lý của từng cấp uỷ Đảng còn nhiều bất cập, thường là ở trong tình trạng “vuôt đuôi” khuyết điểm, có cả những khuyết điểm rất nghiêm trọng của các cá nhân và tổ chức Đảng chỉ bị lôi ra ánh sáng nhờ báo chí, quần chúng phát hiện, tố cáo chứ không phải do kiểm tra Đảng phát hiện. Phối hợp giữa hệ thống kiểm tra của Đảng với hệ thống giám sát, thanh tra, kiểm tra thực thi quyền lực của các cơ quan nhà nước và giám sát, phản biện xã hội chưa chặt chẽ, hiệu quả dẫn đến quốc nạn tham nhũng chưa được đẩy lùi, thậm chí còn có những biểu hiện phổ biến và trầm trọng hơn do có sự câu kết giữa quyền lực bị tha hoá với các lực lượng được gọi là tư bản thân hữu trong khi lòng tin của dân vào Đảng, vào Nhà nước bị xói mòn, suy giảm. II/ Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam 1. Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nước theo các nguyên tắc pháp quyền: 1.1. Nghiên cứu thấu đáo Hiến pháp 1946 chuẩn bị cho việc sửa đổi cơ bản Hiến pháp 1992 theo hướng nhất quán trở lại với các giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về một bản Hiến pháp theo các nguyên tắc pháp quyền Trải qua chặng đường lịch sử gần 65 năm xây dựng, bảo vệ và từng bước hoàn thiện nhà nước dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp 1946- bản Hiến pháp đầu tiên của nhà nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo việc soạn thảo, đã chứng tỏ được sức sống lâu bền của những giá trị tư tưởng, chính trị- pháp lý và văn hóa được thể hiện trong nội dung, lời văn và cả kỹ thuật lập hiến. Về nội dung: với tính chất là bản khế ước chung của toàn dân tộc, Hiến pháp 1946 chỉ tập trung vào 3 vấn đề chính và đã thực sự trở thành bản tuyên ngôn súc tích, minh bạch về quyền dân tộc, quyền con người và việc tổ chức, thực hiện quyền lực của nhân dân theo các nguyên tắc pháp quyền dân chủ. Về kỹ thuật lập hiến: lời văn, ngôn từ một nghĩa, dễ hiểu, bình dân nhưng vẫn rất chuẩn xác, vừa mang tính dân tộc vừa rất hiện đại. Ban soạn thảo gồm các đại trí thức yêu nước đại diện cho tinh hoa của dân tộc Việt. Dự thảo Hiến pháp được thảo luận rộng rãi trong công chúng mặc dù hoàn cảnh đất nước trong một năm đầu của chính quyền nhân dân luôn trong tình trạng “ngàn cân treo sợi tóc” do nạn đói, nạn dốt và nạn ngoại xâm. Hiến pháp do nhân dân phúc quyết, thể hiện đầy đủ nhất nguyên tắc “Tất cả quyền bính trong nước thuộc về nhân dân”, nhân dân là người duy nhất có quyền phúc quyết Hiến pháp và các vấn đề trọng đại của đất nước. Với đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được Đảng khẳng định như một quá trình không thể đảo ngược, đã đến lúc chúng ta cần tổ chức nghiên cứu thật nghiêm túc, thấu đáo tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện cô đọng trong Hiến pháp 1946 về các giá trị mang tính quy luật phổ biến của nhân loại cũng như các giá trị đặc thù của Việt Nam trong việc thiết kế và vận hành bộ máy nhà nước pháp quyền, để từ đó tiếp thu và thể hiện nhất quán các giá trị đó trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp thời kỳ công nghiệp hóa đất nước, hội nhập quốc tế. 1.2. Tiếp tục nâng cao nhận thức, hoàn thiện quan điểm của Đảng về các nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, thể chế hoá các quan điểm đó trong Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” và “Quyền lực Nhà nước là thống nhất” - Về nhận thức : cần thống nhất nhận thức để “giải mã” nguyên tắc Quyền lực nhà nước thống nhất và thuộc về nhân dân theo hướng: Quyền lực nhà nước thống nhất về nguồn gốc, bản chất (quyền lực của nhân dân) và thống nhất về mục tiêu chính trị của nhà nước- “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tập trung ở nhân dân, chỉ có nhân dân là người chủ toàn quyền của quyền lực nhà nước; quyền lực nhà nước không thể thống nhất hoặc tập trung ở bất cứ cơ quan nhà nước nào hoặc nhánh quyền lực nào, - Về quan điểm : cần khẳng định các phương thức sử dụng quyền lực của nhân dân: + Dân chủ gián tiếp = nhân dân phân công và uỷ quyền cho các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước + Dân chủ trực tiếp: nhân dân trực tiếp tham gia quản lý nhà nước và xã hội; giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của nhà nước; biểu quyết/ phúc quyết về các vấn đề trọng đại của Nhà nước (bằng hình thức trưng cầu ý dân) + Tự quản cộng đồng (hình thức tổ chức chính quyền cơ sở) và tự quản của các tổ chức tự nguyện trong xã hội dân sự trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước. - Về giải pháp: + Về phía Đảng: thể hiện nhận thức như trên về Quyền lực nhà nước thống nhất, tập trung ở nhân dân thành quan điểm chính thức của Đảng trong các văn kiện như Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) và Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020 phần về Dân chủ XHCN và Nhà nước pháp quyền XHCN; + Về phía Nhà nước: thể chế hoá quan điểm của Đảng về Quyền lực nhà nước thống nhất, tập trung ở nhân dân vào Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung hoặc Hiến pháp mới được soạn thảo sau Đại hội Đảng XI); đưa vào vị trí ưu tiên trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khoá XIII các dự án luật đảm bảo quyền dân chủ trực tiếp và quyền tự quản của nhân dân như: Luật Trưng cầu ý dân, Luật về Hội, Luật về dân chủ ở cơ sở, Luật về tổ chức chính quyền cơ sở, Luật về giám sát và phản biện xã hội. Nguyên tắc:”Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” - Về nhận thức: cần thống nhất nhận thức về 3 yếu tố không thể thiếu của nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, đó là : Phân công, Phối hợp và Kiểm soát trên nền tảng quyền lực thống nhất ở nhân dân, trong đó: + Phân công phải rành mạch theo hướng mỗi nhánh quyền lực chỉ do một cơ quan tối cao có quyền và trách nhiệm quyết định; các cơ quan này có vị trí độc lập tương đối, đều trực tiếp được nhân dân uỷ quyền thông qua Hiến pháp, không có cơ quan nhà nước nào toàn quyền đối với việc phân công và sử dụng quyền lực nhà nước. Sự phân công rành mạch là cần thiết để một mặt, loại trừ sự độc quyền, chuyên chế trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, mặt khác, đảm bảo cho các cơ quan có thực quyền và đủ quyền để thực thi quyền lực đã được phân công. + Phối hợp phải chặt chẽ theo hướng đảm bảo sự tham gia theo đúng chức trách, nhiệm vụ, quy trình, thủ tục của các cơ quan nhà nước khác nhau trong việc thực hiện mỗi nhánh quyền lực. Sự phối hợp là cần thiết để loại trừ sự cát cứ, biệt lập trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Điều quan trọng là trong cơ chế phối hợp thực hiện một nhánh quyền lực thì chỉ có một cơ quan có quyền quyết định cuối cùng – đó là cơ quan được Hiến pháp phân công thực hiện nhánh quyền lực đó. + Kiểm soát phải nghiêm và đủ hiệu lực để đảm bảo vận hành hiệu quả cơ chế phòng ngừa- kiểm tra- giám sát- xử lý bên trong, nội bộ của bộ máy nhà nước đối với các hành vi quyền lực của mỗi cơ quan. Sự kiểm soát là cần thiết để giữ cho các cơ quan, cá nhân được nhân dân uỷ quyền/ giao phó quyền lực không thể lạm quyền, không thể tha hoá quyền lực vì lợi ích cá nhân theo phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh” PGS.TS Nguyễn Đăng Dung- Chế ước quyền lực nhà nước- NXB Đà Nẵng, 2008. - Về quan điểm: + Phân công rành mạch: để khắc phục những hạn chế, bất cập trong việc phân công chưa thật sự rõ ràng như hiện nay, cần khẳng định quan điểm về phân công quyền lực theo Hiến pháp 1946: Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội - Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước thực thi quyền lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, trừ những việc phải được nhân dân trực tiếp phúc quyết. Quyền hành pháp thuộc về Chính phủ- Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất, tập trung thực hiện chức năng quản lý và điều hành vĩ mô theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm việc thi hành pháp luật trên phạm vi cả nước. Quyền tư pháp là quyền xét xử thuộc về Toà án nhân dân- Toà án nhân dân là cơ quan xét xử phải đáp ứng yêu cầu độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử, nghiêm minh, trong sạch, bảo vệ công lý và quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, nhà nước. Chức năng điều tra, công tố, quản lý bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp (bao gồm cả thi hành án) thuộc nhánh hành pháp nhằm hỗ trợ và bảo đảm điều kiện để toà án xét xử độc lập, khách quan, công bằng và phán quyết của toà án được thi hành nghiêm. + Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp phải được thiết kế trên cơ sở phân nhiệm rõ ràng, quy trình phối hợp dân chủ, khoa học, thủ tục phối hợp công khai, minh bạch được quy định trong các đạo luật. Cụ thể: Phối hợp trong việc thực hiện quyền lập pháp: Để đảm bảo quyền lập pháp chỉ thuộc về Quốc hội cần hạn chế tối đa việc uỷ quyền lập pháp của Quốc hội cho cơ quan thường trực của Quốc hội hoặc cho các cơ quan hành pháp, tư pháp ban hành văn bản pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ mới cho cá nhân, tổ chức hay điều chỉnh những quan hệ xã hội, các lĩnh vực kinh tế-xã hội chưa có luật điều chỉnh (cụ thể là hạn chế tiến tới xó bỏ quyền ban hành pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, ban hành nghị định độc lập của Chính phủ...); Quyền đề nghị xây dựng pháp luật và quyền trình dự án luật của các cơ quan hành pháp, tư pháp phải được bảo đảm thực hiện bằng một quy trình thật sự dân chủ, khoa học với những thủ tục công khai, minh bạch, có sự tham gia, phối hợp của cả cơ quan lập pháp và các cơ quan trình dự án luật, trong đó phân định rõ: cơ quan hành pháp, tư pháp trình dự án luật chịu trách nhiệm về chính sách và các giải pháp pháp lý để đảm bảo thực hiện chính sách được đề xuất trong dự án luật nhưng Quốc hội chịu trách nhiệm thẩm tra, điều chỉnh chính sách và ra quyết định cuối cùng để đảm bảo các chính sách cùng các giải pháp được thông qua trong dự án luật phù hợp với ý chí đích thực của đại đa số nhân dân mà Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất; Quyền hướng dẫn chi tiết thi hành luật được Quốc hội giao cho cơ quan hành pháp (Chính phủ) thực hiện bằng quy trình lập quy nhưng chỉ trong giới hạn các vấn đề được Quốc hội xác định trong từng đạo luật; Quyền giải thích pháp luật và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật được giao cho cơ quan tư pháp (Toà án nhân dân tối cao) thực hiện. Phối hợp trong việc thực hiện quyền tư pháp: Cơ quan lập pháp phối hợp thực hiện quyền tư pháp ở hai góc độ : Một là, Quốc hội tạo ra nền tảng, khuôn khổ pháp lý cho hoạt động tư pháp. Trong nhà nước pháp quyền, tổ chức, chức năng, thẩm quyền, các nguyên tắc hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống tư pháp phải được điều chỉnh bằng luật do chính Quốc hội ban hành, bao gồm luật về tổ chức, luật nội dung và luật tố tụng. Thiếu những đạo luật này, quyền tư pháp không thể thực hiện được chức năng của mình. Hai là, Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm chức danh cao nhất của cơ quan tư pháp- Chánh án Toà án nhân dân tối cao Cơ quan hành pháp phối hợp thực hiện quyền tư pháp cũng ở hai góc độ: Một là, Chính phủ giao cho các cơ quan thực hiện chức năng điều tra, công tố thông qua hoạt động tố tụng hỗ trợ Toà án thực hiện quyền xét xử. Khi phát hiện các vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình thực hiện chức năng quản lý thì cơ quan hành pháp phải có quyền và có trách nhiệm để điều tra, xác minh về vụ việc, có quyền đại diện Nhà nước, đại diện cho lợi ích công cộng yêu cầu toà án xét xử theo thủ tục tư pháp đối với người có hành vi xâm hại đến trật tự pháp luật, trật tự quản lý mà Nhà nước bảo hộ. Hai là, Chính phủ giao cho các cơ quan thực hiện chức năng quản lý hành chính tư pháp bảo đảm các điều kiện, nguồn lực để Toà án thực hiện tốt nhất và độc lập quyền xét xử. Cụ thể : Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm hoặc bổ nhiệm theo thẩm quyền hiến định thẩm phán cho các toà án; thống nhất quản lý việc đào tạo nguồn thẩm phán và các chức danh tư pháp; quản lý về mặt tổ chức- hành chính, bảo đảm kinh phí và cơ sở vật chất cho các toà án. Chỉ bằng cơ chế phối hợp như vậy mới có thể đảm bảo tách quan hệ hành chính- phục tùng ra khỏi quan hệ tố tụng độc lập giữa các cấp toà án. + Kiểm soát nghiêm, hiệu lực, hiệu quả giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Như đã phân tích ở trên, hiện nay đã có những cơ chế kiểm tra, giám sát trong nội bộ từng cơ quan lập pháp, hành pháp (thanh tra), tư pháp (chế độ hai cấp xét xử) và giữa các cơ quan thuộc các nhánh quyền lực khác nhau (giám sát tối cao của Quốc hội, kiểm toán nhà nước....). Việc kiểm soát quyền lực không chỉ có nghĩa là tăng cường tính hiệu lực của các cơ chế kiểm tra, giám sát đó mà còn là việc hạn chế quyền lực của một nhánh bằng chính chức năng của một nhánh khác có thẩm quyền về cùng một vấn đề nhằm bảo đảm mỗi nhánh đều phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền lực trong phạm vi chức năng của mình. Cụ thể: Kiểm soát trong việc thực hiện quyền lập pháp: + Khi nói đến kiểm soát quyền lập pháp nghĩa là phải lấy tiêu chí hợp hiến làm căn cứ, muốn vậy, trước tiên, cần phải xác định quyền lập hiến thuộc về một chủ thể khác với Quốc hội lập pháp. Chủ thể đó không thể là ai khác ngoài nhân dân- người chủ toàn quyền của quyền lực nhà nước. Vì vậy, về nguyên tắc, Hiến pháp phải do nhân dân trực tiếp phúc quyết như đã được quy định tại Hiến pháp 1946. + Hiện nay chưa có cơ chế kiểm soát tính hợp hiến của quyền lập pháp. Vì vậy, để đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền, cần phải thiết lập “cơ chế phán quyết các vi phạm hiến pháp” như Nghị quyết Đại hội Đảng X đã xác định, theo đó một thiết chế độc lập do Quốc hội thành lập bằng luật (Toà án hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến) sẽ có thẩm quyền xem xét và phán quyết về tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm cả các đạo luật do Quốc hội ban hành. Trong trường hợp xác định một đaọ luật vi hiến, thiết chế này sẽ có quyền đình chỉ việc thi hành và kiến nghị Quốc hội xem xét sửa đổi hoặc huỷ bỏ trong thời gian sớm nhất. + Bên cạnh việc thành lập Tòa án hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến, cần nghiên cứu kinh nghiệm của Hiến pháp 1946 trong việc quy định Chủ tịch nước, trước khi công bố và trong thời hạn hiến định, có quyền yêu cầu Quốc hội xem xét lại dự án Luật đã được thông qua; nếu Quốc hội sau khi đã thảo luận lại vẫn phê chuẩn thì Chủ tịch nước phải công bố đạo luật để thi hành (Theo Hiến pháp 1992, cơ chế này chỉ được áp dụng đối với pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội). Như vậy, ý nghĩa kiểm soát của quyền hành pháp đối với lập pháp sẽ thực sự có ý nghĩa “phòng bệnh”, góp phần nâng cao trách nhiệm của cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân trong khi thực hiện quyền lập pháp. + Chế định bồi thường nhà nước cũng cần được nghiên cứu mở rộng phạm vi áp dụng đối với cả những đạo luật vi hiến gây thiệt hại cho các đối tượng bị tác động Kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp: + Tòa án hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến phải có thẩm quyền phán quyết về các văn bản, quyết định và hành vi vi hiến của cơ quan hành pháp. + Bên cạnh việc hoàn thiện chế định giám sát tối cao của Quốc hội đối với nhánh hành pháp (xem phần dưới), cần nghiên cứu tham khảo các quy định của Hiến pháp 1946 về chế độ tín nhiệm của Quốc hội đối với cá nhân thành viên Nội các và tập thể Nội các . + Toà hành chính phải được giao thẩm quyền đầy đủ trong việc phán quyết về tính hợp pháp của tất cả các quyết định và hành vi hành chính của các cơ quan hành pháp. Kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp: trong khi thừa nhận tính độc lập của quyền tư pháp, việc kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp vẫn là một yếu tố không thể thiếu để đảm bảo tính trách nhiệm, ngay thẳng của các thẩm phán. + Ngoài các cơ chế đã có như Quốc hội bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm chức danh Chánh án Tòa án tối cao, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, cần khôi phục lại cơ chế Chính phủ bổ nhiệm thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương. + Tòa án Hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến có thẩm quyền xem xét các phán quyết đã có hiệu lực của toà án tư pháp vi phạm tinh thần của Hiến pháp xâm phạm quyền con người, quyền cơ bản của công dân hoặc các bản án mà căn cứ để ra phán quyết vi phạm hiến pháp. Về giải pháp: + Về phía Đảng: trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) và Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội cần ghi nhận nguyên tắc ”Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Đề nghị có một Hội nghị Trung ương Đảng khoá XI họp bàn chuyên đề về Sửa đổi Hiến pháp, trong đó xác định các định hướng sửa đổi cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước làm cơ sở cho việc hiến định nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước cùng với một bản thiết kế mới, tổng thể về các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. + Về phía nhà nước: cần có một cơ chế phối hợp nghiên cứu và xây dựng các đề án về cải cách các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp theo những nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được xác lập trong hiến pháp sửa đổi và các luật mới về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. 1.3. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Quốc hội Định hướng tổng thể về việc tiếp tục đổi mới Quốc hội trong thời gian tới là: “Tiếp tục xây dựng một Quốc hội mạnh, thực thi đầy đủ nhiệm vụ và quyền hạn về lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; xứng đáng với vai trò và vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Theo hướng đó, cần phải: - Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban, chuyển trọng tâm hoạt động vào các cơ quan này. Ở đó các công việc trước khi đưa trình Quốc hội phải được bàn bạc kỹ lưỡng, xem xét tập thể, quyết định theo đa số. Cần phải thành lập thêm một số Ủy ban của Quốc hội để tạo điều kiện cho các Ủy ban chuyên môn hóa hoạt động của mình theo hướng chuyên sâu về các lĩnh vực như tư pháp, tài chính ngân sách, văn hoá, giáo dục, nông nghiệp, công nghiệp… Đồng thời tiếp tục nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đặc biệt là các đại biểu Quốc hội chuyên trách có trình độ chuyên sâu, có trách nhiệm và bản lĩnh, có kỹ năng hoạt động đại biểu. - Tiếp tục dân chủ hóa các hoạt động của Quốc hội, nhân tố cực kỳ quan trọng để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, làm cho Quốc hội mạnh và thực quyền. Vì vậy, phải tiếp tục đổi mới và tạo mọi điều kiện để các kỳ họp của Quốc hội diễn ra thật sự dân chủ, đúng pháp luật, cung cấp thông tin đầy đủ, đa dạng, nhiều chiều cho đại biểu Quốc hội; tăng cường tranh luận phản biện trong việc xem xét, quyết định các vấn đề tại các kỳ họp. Thu hút quần chúng nhân dân tham gia ngày càng đông đảo vào các hoạt động của Quốc hội, tăng cường mối quan hệ gắn bó và trách nhiệm lẫn nhau giữa đại biểu Quốc hội và cử tri… - Quốc hội đã và còn đứng trước đòi hỏi phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tốt về chất lượng, đầy đủ, đồng bộ về số lượng đáp ứng kịp thời các nhu cầu điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội trong điều kiện mở cửa, hội nhập và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân đang tiến hành ở nước ta. Để làm điều đó, phải tiếp tục tăng cường năng lực lập pháp của Quốc hội; phải định hướng chính sách pháp luật rõ ràng, minh bạch và cụ thể trước khi soạn thảo dự án luật. Đồng thời phải tiếp tục đổi mới qui trình lập pháp thật sự khoa học, chặt chẽ, hợp lý, đề cao trách nhiệm của các chủ thể. - Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát mà trước hết là tiến hành sửa đổi bổ sung Luật hoạt động giám sát của Quốc hội sao cho các qui định pháp lý cụ thể, thủ tục tiến hành rõ ràng, minh bạch hơn. Luật hoạt động giám sát của Quốc hội sửa đổi cần xác định rõ phạm vi, nội dung và cơ chế giám sát của Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội. Cùng với việc hoàn thiện cơ sở pháp lý, trong tổ chức thực hiện hoạt động giám sát cần khắc phục tình trạng giám sát theo chiều rộng mà thiếu chiều sâu theo hướng tập trung giám sát chuyên đề, đặc biệt là giám sát việc sử dụng ngân sách nhà nước, đánh giá hiệu quả của việc sử dụng ngân sách nhà nước. Giảm bớt những nội dung giám sát mang tính kỹ thuật, vi mô không phù hợp với vị thế, chức năng và điều kiện hoạt động Quốc hội Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội gắn bó mật thiết với đổi mới hệ thống chính trị. Một mặt vừa phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng để không ngừng phát huy vị trí và vai trò của Quốc hội trong đời sống nhà nước. Mặt khác phải đổi mới một cách căn bản phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội. Đồng thời, sự đổi mới của Quốc hội có tác dụng sâu sắc đến đổi mới Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan tổ chức hữu quan khác trong hệ thống chính trị nước ta và ngược lại. Vì thế, sự đổi mới đồng bộ của tất cả các thành tố cấu thành hệ thống chính trị là nhân tố đảm bảo cho Quốc hội trở thành một Quốc hội mạnh về lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước. 1.4. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Chính phủ - Chính phủ cần được tiếp tục đổi mới về tổ chức trên cơ sở xác định rõ chức năng, quyền hạn của Chính phủ theo hướng Chính phủ là Cơ quan hành pháp cao nhất, có quyền chủ động khởi xướng và hoạch định chính sách. Chính phủ tập trung thực hiện chức năng quản lý và điều hành vĩ mô, bảo đảm việc thi hành pháp luật trên phạm vi cả nước. Để làm được như vậy, Chính phủ không chỉ có chức năng quản lý thống nhất về xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật mà còn phải được trao quyền năng công tố buộc tội. Do đó, Viện Kiểm sát phải được chuyển thành Viện Công tố thuộc Chính phủ và chỉ đạo hoạt động điều tra. - Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi bộ trưởng, thành viên chính phủ phải được đổi mới với tư cách Tư lệnh trưỏng trong lĩnh vực công tác mà bộ, ngành mình được Chính phủ giao, thay mặt Thủ tướng và nhân danh Chính phủ quản lý và điều hành lĩnh vực công tác được giao cho bộ, ngành mình trên phạm vi cả nước. Tiếp tục việc phân công, phân nhiệm rõ ràng về chức năng và nhiệm vụ giữa các bộ, ngành ở trung ương; đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành hiệu quả trong việc thi hành pháp luật đối với những lĩnh vực hoạt động đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều bộ, ngành trong đó có một bộ, ngành chủ trì và chiụ trách nhiệm chính. - Tiếp tục cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa thủ tục, công khai minh bạch, đổi mới phương thức quản lý và điều hành của Chính phủ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý điều hành vĩ mô của Chính phủ, tạo điều kiện cho các tổ chức sự nghiệp và doanh nghiệp thực hiện quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh những ngành nghề, những dịch vụ mà pháp luật không cấm. Kiên quyết xóa bỏ chế độ chủ quản của Chính phủ và các bộ, ngành đối với các tổ chức kinh tế: mọi tổ chức kinh tế hoạt động theo luật doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước pháp luật, Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp không can thiệp bằng biện pháp hành chính vào hoạt động của doanh nghiệp. - Tiếp tục triển khai mạnh mẽ chủ trương xã hội hóa các lĩnh vực sự nghiệp y tế, văn hóa, giáo dục, thể thao...tạo cơ sở pháp lý thuận lợi để các tổ chức xã hôi- nghề nghiệp nói riêng và các tổ chức xã hội dân sự nói chung chủ động phát triển hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và đóng góp xứng đáng vào qúa trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. - Thực hiện phân quyền giữa trung ương và đạ phương; tăng cường phân cấp cho địa phương một cách rõ ràng từng lĩnh vực cụ thể và từng loại việc cụ thể sẽ có một cấp nhất định thực hiện, tránh tình trạng một việc nhất định trong một lĩnh vực hoạt động nhất định lại do nhiều cấp cùng thực hiện. - Chính phủ tăng cường thực thi cơ chế hậu kiểm, vừa đảm bảo tính chủ động cho chính quyền địa phương trong việc triển khai thực hiện chức năng, nhiệm vụ đã được phân quyền, phân cấp quản lý đồng thời đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật trên phạm vi toàn quốc tránh tình trạng sau khi phân cấp thì mạnh địa phương nào địa phương ấy làm không đảm bảo triển khai thực hiện đồng bộ và thống nhất chính sách và pháp luật trên phạm vi cả nước. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và Chính phủ điện tử trong hoạt động quản lý và điều hành vĩ mô của Chính phủ, các bộ, ngành ở trung ương cũng như các cấp chính quyền địa phương. - Tăng cường tính công khai và minh bạch chính sách tài chính công, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí. - Tiếp tục cải cách chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với công chức, viên chức nhà nước và coi đó là khâu đột phá trong cải cách hành chính trong nhiệm kỳ tới. - Tạo cơ chế và điều kiện cho dân tham gia thực chất vào hoạt động quản lý nhà nước từ việc tham gia ý kiến trong giai đoạn xây dựng chính sách đến việc tham gia giám sát cán bộ, công chức và cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện chính sách, pháp luật. 1.5. Đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án - Xác định và thiết kế lại hệ thống các cơ quan tư pháp theo hướng cơ quan tư pháp trong Nhà nước pháp quyền chỉ là cơ quan xét xử (các toà án) - Tổ chức hệ thống tòa án theo hai cấp xét xử, không phụ thuộc địa giới hành chính; quan hệ giữa các toà án, các cấp toà án chỉ là quan hệ tố tụng do Hiến pháp và luật quy định; đảm bảo sự độc lập thực sự của hệ thống tòa án, sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của thẩm phán. Các cải cách đối với các cơ quan có liên quan đến hoạt động của tòa án và hiện nay được coi là cơ quan tư pháp - Viện Kiểm sát chuyển thành Viện công tố trực thuộc Chính phủ; không thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp; về lâu dài, Cơ quan điều tra cần được tổ chức theo hệ thống riêng và chịu sự chỉ đạo điều tra của cơ quan công tố; đảm bảo và mở rộng dân chủ trong tranh tụng; - Công tác thi hành án- một hoạt động hành chính tư pháp, cơ quan thi hành án phải tách khỏi các cơ quan tiến hành tố tụng (nhà tù, nhà tạm giam, tạm giữ phải tách khỏi cơ quan quản lí hoặc tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử) để đảm bảo tính độc lập, khách quan trong mỗi loại hoạt động, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong quá trình tố tụng tiền xét xử và hậu xét xử - Hoàn thiện cơ chế quản lý tòa án về mặt tổ chức, tách chức năng quản lý ngành khỏi chức năng xét xử của toà án; nghiên cứu mô hình thành lập một thiết chế cấp quốc gia thuộc nhánh hành pháp với đại diện của cả tư pháp, lập pháp để thực hiện chức năng đảm bảo các điều kiện, nguồn lực cho hệ thống toà án. 1.6. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương - Hiến định nguyên tắc phân quyền giưã trung ương và địa phương, khẳng định tính tự chủ tương đối và mô hình tự quản của chính quyền địa phương ở những cấp hành chính- lãnh thổ nhất định; giới hạn phạm vi tác động của trung ương Các mô hình tổ chức chính quyền địa phương trên thế giới đều có một điểm chung là thừa nhận tính tự quản địa phương và vì vậy, tự quản địa phương là một biểu hiện của một chế độ phân quyền theo chiều dọc trong bất kỳ một Nhà nước pháp quyền nào . Luật hoá việc phân cấp giữa trung ương và địa phương để bảo đảm khả năng kiểm soát của trung ương và sự chủ động của địa phương. - Hoàn thiện cấu trúc đơn vị hành chính – lãnh thổ, trên cơ sở tổng kết Đề án thử nghiệm không tổ chức HĐND ở huyện, quận, phường, nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp và luật tổ chức chính quyền địa phương theo hướng hình thành các mô hình chính quyền địa phương đa dạng (thành thị và nông thôn) phù hợp với đặc thù cấu trúc cuả các đơn vị hành chính- lãnh thổ (trong đó cần xác định lại đơn vị hành chính cơ sở ở nông thôn phù hợp với truyền thống làng- xã Việt Nam (quy mô xã áp thôn); phường, huyện, quận là cấp hành chính trung gian; tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là đơn vị hành chính lãnh thổ cơ bản. Chỉ tổ chức hội đồng nhân dân mang tính tự quản ở các đơn vị hành chính cơ sở và cơ bản - Nghiên cứu chuyển đổi phương thức hoạt động của các cơ quan đại diện sang chế độ tự quản GS.VS Nguyễn Duy Quý- sđd, . Cơ quan tự quản do nhân dân bầu ra, đại diện cho nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để thực thi quyền lực công cộng vì lợi ích của cộng đồng. Cơ quan tự quản hoạt động theo quy định pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật dưới sự giám sát bằng pháp luật của một cơ cấu đại diện chính quyền cấp trên. Riêng ở cấp cơ sở, người đứng đầu cơ quan tự quản cũng có thể đồng thời là người đứng đầu cơ quan hành chính và do nhân dân trực tiếp bầu. - Chuyển đổi phương thức hoạt động của các cơ quan hành chính các cấp ở địa phương theo chế độ thủ trưởng hành chính, đảm bảo sự điều hành thống nhất, thông suốt từ trung ương đến tỉnh, huyện và cơ sở. Người đứng đầu cơ quan hành chính có thể do thủ trưởng cơ quan hành chính cấp trên bổ nhiệm hoặc do nhân dân trực tiếp bầu ở các đơn vị hành chính lãnh thổ cơ bản (xã, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương). - Thủ đô Hà Nội được hưởng chế độ pháp lý riêng, đặc thù (Luật Thủ đô), nghiên cứu mô hình Thủ đô Hà Nội trong Tỉnh Hà Nội. 1.7. Đổi mới công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Mục tiêu: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, công chức, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. Các giải pháp: (i) Đổi mới công tác đánh giá cán bộ, xây dựng mới tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá cụ thể đối với từng chức danh, từng đối tượng cán bộ; bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, khách quan, toàn diện, công tâm; lấy chất lượng, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo chính; coi trọng và phát huy trách nhiệm của người đứng đầu, người trực tiếp quản lý, sử dụng cán bộ. (ii) Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ, bảo đảm sự chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ ở tất cả các cấp, nhất là cấp chiến lược; kết hợp xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý với quy hoạch cán bộ chuyên môn, cán bộ quản lý sản xuất, kinh doanh, cán bộ lãnh đạo trong lực lượng vũ trang, cán bộ nghiên cứu khoa học, đội ngũ chuyên gia đầu ngành; đổi mới quy trình giới thiệu cán bộ vào nguồn quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý, nhất là đối với cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số. Mở rộng việc thí điểm đổi mới cách tuyển chọn cán bộ vào các chức danh lãnh đạo cấp phòng ở tỉnh, thành phố và cấp vụ ở các bộ, ngành Trung ương, xem xét đưa vào quy hoạch và thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng theo quy hoạch. (iii) Tiếp tục thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ, đưa công tác này trở thành nền nếp thường xuyên trong công tác cán bộ. Mở rộng việc bố trí Bí thư cấp uỷ, Chủ tịch uỷ ban nhân dân, chánh án toà án nhân dân, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân, chánh thanh tra cấp tỉnh, cấp huyện và cán bộ lãnh đạo cấp trưởng các ngành công an, tài chính, thuế, hải quan, thi hành án... không phải là người địa phương. Kết hợp thực hiện cơ chế thực tập, tập sự lãnh đạo, quản lý với luân chuyển cán bộ để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. (iv) Tạo chuyển biến sâu sắc trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch, theo tiêu chuẩn chức danh cán bộ, chú trọng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, coi đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong thực hiện Chiến lược cán bộ trong giai đoạn mới. Củng cố, nâng cao chất lượng về mọi mặt của hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Huy động mọi nguồn lực và tăng cường đầu tư ngân sách nhà nước cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cả trong và ngoài nước, trong và ngoài Đảng, trong và ngoài khu vực nhà nước. Xây dựng chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chiến lược quốc gia về nhân tài đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và chủ động hội nhập quốc tế. (v) Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức theo yêu cầu tăng cường chất lượng, tinh giản biên chế hành chính, đáp ứng yêu cầu thực hiện Cương lĩnh, Chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2010 - 2020, bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa các chức danh lãnh đạo, quản lý, các ngạch, bậc công chức, viên chức; giữa các độ tuổi, địa bàn, lĩnh vực công tác; tăng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, con gia đình có công với cách mạng; khắc phục tình trạng vừa thừa vừa thiếu cán bộ. (vi) Cải cách hệ thống chính sách, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất, công bằng trong thực hiện chính sách cán bộ giữa các cấp, các ngành, các địa phương, các đối tượng cán bộ; gắn chính sách cán bộ trong từng khâu của công tác cán bộ, gắn trách nhiệm, nghĩa vụ với quyền lợi; khuyến khích cán bộ công tác ở địa bàn khó khăn, ở cơ sở; cải cách cơ bản chế độ tiền lương, tiền tệ hoá tiền lương và các chế độ theo lương; ban hành chính sách về nhà ở, nhà công vụ đối với cán bộ, công chức và lực lượng vũ trang. Cải cách công tác thi đua, khen thưởng để tạo động lực thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước một cách thực chất, khắc phục "bệnh thành tích", hình thức, lãng phí. Tổ chức phong trào thi đua xây dựng môi trường làm việc tốt để phát huy tốt nhất khả năng cống hiến và phát triển của cán bộ. (vii) Đổi mới công tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ. Hoàn thiện chế độ bầu cử; cải tiến cách thức tuyển chọn, lấy phiếu tín nhiệm, bổ nhiệm cán bộ để chọn đúng người, bố trí đúng việc. Mở rộng quyền đề cử, tự ứng cử và giới thiệu nhiều phương án nhân sự để lựa chọn. Xây dựng và thực hiện tốt chế độ miễn nhiệm, từ chức, cho thôi việc, thay thế cán bộ kém phẩm chất và năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ để phương châm "có lên, có xuống, có vào, có ra" được thực hiện bình thường trong bố trí, sử dụng cán bộ. Xây dựng cơ chế đảng viên và nhân dân tham gia giám sát cán bộ và công tác cán bộ. (viii) Tăng cường công tác giáo dục, quản lý cán bộ; gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ với việc với phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, tiêu cực. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ cấp trên đối với cấp dưới trong việc giáo dục, quản lý và thực hiện công tác cán bộ. 2. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền XHCN (i) Mục tiêu: đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản nhằm thúc đẩy việc hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện páht triển kinh tế thị trường và xã hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa (ii) Các yêu cầu: sự lãnh đạo của Đảng phải thích ứng và thúc đẩy: - Thực thi đầy đủ nguyên tắc quyền lực thống nhất thuộc về nhân dân, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; đảm bảo xây dựng và điều hành đất nước bằng pháp luật; - Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước pháp quyền không ngừng nâng cao năng lực cầm quyền (có hệ thống lý luận cầm quyền; có Cương lĩnh, đường lối, chiến lược và chính sách cầm quyền; có những phương thức cầm quyền thích hợp và có đội ngũ cán bộ, đảng viên để cầm quyền theo đúng định hướng chính trị của Đảng) bằng pháp luật và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật (iii) Các giải pháp: + Thể chế hoá trong Hiến pháp và Luật về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; vị trí cầm quyền, vai trò lãnh đạo và nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với Nhà nước pháp quyền. + Đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền: + Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá Cương lĩnh của Đảng, đường lối, chiến lược của Đảng thành pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của đất nước đồng thời Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội trong khuôn khổ Hiến pháp và luật; + Đảng phải xây dựng được hệ thống lý luận gồm các quan điểm, nguyên tắc, tiêu chí trong xây dựng pháp luật, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước hiện đại đáp ứng các giá trị chung và đặc thù của nhà nước pháp quyền hiện đại XHCN Việt Nam làm nền tảng chính trị- tư tưởng cho việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp và hệ thống pháp luật + Đảng định hướng chiến lược phát triển nguồn nhân lực , nâng cao năng lực của tổ chức bộ máy và đội ngũ nhân sự cấp cao của Nhà nước trong các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, bao gồm cả cơ quan phán quyết về các vi phạm hiến pháp; việc giới thiệu, đề cử đảng viên của Đảng vào các vị trí quan trọng của bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp phải tuân thủ quy định của pháp luật. + Đảng tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động của các cá nhân, tổ chức Đảng trong bộ máy nhà nướcvà tạo điều kiện để nhân dân thực hiện giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của Nhà nước. - Phương thức lãnh đạo chung của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền: + Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh, đường lối, chiến lược, các chính sách lớn liên quan đến những vấn đề trọng đại của đất nước + Đảng lãnh đạo thông qua việc xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Đảng và quy hoạch các vị trí lãnh đạo của các cơ quan cao cấp của nhà nước ; + Đảng lãnh đạo bằng công tác vận động, tuyên truyền và bằng sự gương mẫu của tổ chức đảng, cá nhân đảng viên trong việc tuân thủ hiến pháp và pháp luật, giữ gìn đạo đức trong sáng đồng thời tăng cường kiểm tra các tổ chức đảng, cá nhân đảng viên trong việc thực hiện Điều lệ Đngr, hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. - Những phương thức lãnh đạo đặc thù của Đảng đối với + Quốc hội : Đảng quyết định đường lối chính trị đối với các vấn đề trọng đại của đất nước, những đường lối, chủ trương lớn đối với những lĩnh vực kinh tế- xã hội then chốt cần có luật điều chỉnh nhưng không quyết định thay, không quyết định trước khi Quốc hội thảo luận công khai, dân chủ về những khía cạnh cụ thể, khía cạnh quản lý- kỹ thuật, tác động nhiều mặt của những chính sách liên quan đến các vấn đề quan trọng hoặc các đạo luật được đề xuất ban hành. Đảng lãnh đạo Quốc hội thông qua vai trò của các đảng viên là Chủ tịch nước, lãnh đạo Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội... + Chính phủ: Đảng khởi xướng và tiếp tục lãnh đạo Chính phủ hoàn thành quá trình chuyển đổi hoàn toàn cơ chế quản lý, điều hành cũ sang thực hiện chức năng của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường với nhiệm vụ trung tâm là điều hành vĩ mô bằng pháp luật, chiến lược và các chương trình, kế hoạch dài hạn. Đảng không can thiệp vào các hành vi, quyết định điều hành của Chính phủ. Đảng lãnh đạo thông qua đội ngũ cán bộ công chức lãnh đạo cấp cao của Chính phủ, các bộ, ngành... và Đảng phải chịu trách nhiệm về việc kiểm tra, giám sát để phát hiện sớm, xử lý kịp thời từ phía Đảng những tổ chức đảng, các cá nhân đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, vi phạm trách nhiệm Đảng viên, vi phạm pháp luật nhà nước.... + Toà án: Đảng quyết định các định hướng chiến lược cải cách tư pháp với mục tiêu đảm bảo tính độc lập, khách quan, hiệu lực, hiệu quả của toà án trong hoạt động xét xử; lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá các định hướng đó thành pháp luật về tổ chức toà án và các cơ quan tố tụng khác, luật về nội dung và tố tụng; các cấp uỷ Đảng lãnh đạo đường lối xét xử trong từng giai đoạn hoặc tư tưởng chỉ đạo xử lý một số ít các vụ án đặc biệt về chính trị, liên quan đến an ninh quốc gia, đặt trong bối cảnh chính trị- kinh tế- xã hội của dịa phương nhưng tuyệt đối không được can thiệp, trực tiếp quyết định về tội và mức án để không tạo thành “án bỏ túi” cho thẩm phán và Hội đồng xét xử; Đảng quy hoạch và giới thiệu đảng viên đủ tiêu chuẩn, xứng đáng vào các chức danh cấp cao của hệ thống toà án ở trung ương và địa phương. III/ ĐỀ XUẤT BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN CƯƠNG LĨNH 1991 LIÊN QUAN ĐẾN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN (xem bảng sau) CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (bổ sung, phát triển) NGUYÊN BẢN CƯƠNG LĨNH NĂM 1991 DỰ THẢO CƯƠNG LĨNH BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN Trang 2, đoạn 3 (thành tựu) Với tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, nhìn thẳng vào sự thật, Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo toàn dân tiến hành công cuộc đổi mới từ năm 1986, đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những nhận thức và tư duy mới đúng đắn về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Trang 3, đoạn 4 (bài học lớn) Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Lạm dụng quyền lực, quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất Trang 4, đoạn 3 (bài hoc lớn): Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam... không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực cầm quyền để đủ sức lãnh đạo Nhà nước và xã hội phát triển vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” Trang 10, đoạn 1 (thuận lợi) ...Chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất- kỹ thuật và (nền tảng của) pháp quyền dân chủ ban đầu rất quan trọng... IV HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG Trang 26, đoạn 1 (dân chủ xã hội chủ nghĩa) ...Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa bằng các hình thức tự quản, dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp........ Trang 26, đoạn 3 (nhà nước pháp quyền XHCN) Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Hiến pháp là đạo Luật gốc của nhà nước phải được nhân dân trực tiếp phê chuẩn. Nhà nước định ra pháp luật và tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật; tiến tới thực thi nguyên tắc công dân được làm những việc mà pháp luật không cấm, công chức nhà nước chỉ được làm những việc pháp luật cho phép; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm lợi ích của nhân dân, nhà nước và xã hội. Nhà nước gắn bó... của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp... Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Có cơ chế phán quyết những hành vi vi phạm Hiến pháp, kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, lãnh phí, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của công dân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBáo cáo ban bí thư về vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam.doc
Luận văn liên quan