Bảo hộ và tự do hóa trong đầu tư. Xu hướng thế giới và thực tiễn tại Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay, trong mọi nền kinh tế trên thế giới, đầu tư nước ngoài luôn là lĩnh vực quan trọng, đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở rộng thị trường xuất khẩu và tăng nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước, tạo vị thế vững chắc để quốc gia đó chủ động hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Xét về những chính sách và biện pháp của chính phủ các nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, chúng ta thấy có hai xu hướng lớn, đó là: Xu hướng bảo hộ đầu tư và xu hướng tự do hóa đầu tư. Mỗi xu hướng đều có những ưu, nhược điểm nhất định và chỉ thích hợp trong từng bối cảnh chung của kinh tế thế giới cũng như điều kiện phát triển kinh tế riêng biệt của từng quốc gia. Do vậy, việc hiểu rõ về xu hướng bảo hộ và tự do hóa đầu tư sẽ cho chúng ta có cái nhìn tổng quan về đầu tư trên quan điểm từng quốc gia cũng như trên phương diện toàn cầu. Đó cũng là lí do nhóm chúng em thực hiện bài tiểu luận với đề tài mang tên: ”Bảo hộ và tự do hóa trong đầu tư. Xu hướng thế giới và thực tiễn tại Việt Nam.” Kết cấu bài viết gồm ba phần lớn: Chương I: Tổng quan về bảo hộ và tự do hóa đầu tư Chương II: Xu hướng thế giới về bảo hộ và tự do hóa đầu tư Chương III: Thực tiễn hoạt động bảo hộ và tự do hóa tạo Việt Nam Trong quá trình thực hiện bài viết, chúng em đã cố gắng tổng hợp và tìm hiểu nhiều nguồn tài liệu để có được bài viết với chất lượng tốt nhất. Tuy nhiên, do thời gian để hoàn thành bài không nhiều và với lượng kiến thức còn hạn chế, nên chắc chắn, chúng em sẽ không tránh khỏi có những thiếu sót trong bài làm của mình. Chúng em rất mong sẽ nhận được những đóng góp từ phía cô và các bạn để bài viết được hoàn chỉnh hơn nữa. Chúng em xin chân thành cảm ơn./.

doc24 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4833 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bảo hộ và tự do hóa trong đầu tư. Xu hướng thế giới và thực tiễn tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay, trong mọi nền kinh tế trên thế giới, đầu tư nước ngoài luôn là lĩnh vực quan trọng, đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở rộng thị trường xuất khẩu và tăng nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước, tạo vị thế vững chắc để quốc gia đó chủ động hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Xét về những chính sách và biện pháp của chính phủ các nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, chúng ta thấy có hai xu hướng lớn, đó là: Xu hướng bảo hộ đầu tư và xu hướng tự do hóa đầu tư. Mỗi xu hướng đều có những ưu, nhược điểm nhất định và chỉ thích hợp trong từng bối cảnh chung của kinh tế thế giới cũng như điều kiện phát triển kinh tế riêng biệt của từng quốc gia. Do vậy, việc hiểu rõ về xu hướng bảo hộ và tự do hóa đầu tư sẽ cho chúng ta có cái nhìn tổng quan về đầu tư trên quan điểm từng quốc gia cũng như trên phương diện toàn cầu. Đó cũng là lí do nhóm chúng em thực hiện bài tiểu luận với đề tài mang tên: ”Bảo hộ và tự do hóa trong đầu tư. Xu hướng thế giới và thực tiễn tại Việt Nam.” Kết cấu bài viết gồm ba phần lớn: Chương I: Tổng quan về bảo hộ và tự do hóa đầu tư Chương II: Cu hướng thế giới về bảo hộ và tự do hóa đầu tư Chương III: Thực tiễn hoạt động bảo hộ và tự do hóa tạo Việt Nam Trong quá trình thực hiện bài viết, chúng em đã cố gắng tổng hợp và tìm hiểu nhiều nguồn tài liệu để có được bài viết với chất lượng tốt nhất. Tuy nhiên, do thời gian để hoàn thành bài không nhiều và với lượng kiến thức còn hạn chế, nên chắc chắn, chúng em sẽ không tránh khỏi có những thiếu sót trong bài làm của mình. Chúng em rất mong sẽ nhận được những đóng góp từ phía cô và các bạn để bài viết được hoàn chỉnh hơn nữa. Chúng em xin chân thành cảm ơn./. Chương I Tổng quan về bảo hộ và tự do hóa đầu tư I/ Bảo hộ đầu tư Khái niệm Bảo hộ đầu tư xét dưới góc độ lý luận chung là một khái niệm rộng bao gồm nhiều biện pháp do Nhà nước đề ra nhằm bảo đảm quyền lợi thiết thực, chính đáng cho nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình đầu tư tại nước sở tại. Đó là sự đảm bảo pháp lý với những biện pháp được qui định bằng các qui phạm pháp luật nhằm bảo đảm sự ổn định về lợi ích và sự an toàn cả vốn lẫn lãi trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh, tạo mọi điều kiện cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. Bảo hộ đầu tư tạo cơ sở vững chắc để nhà đầu tư tin tưởng quyền lợi của mình sẽ được bảo vệ bằng các cam kết của nước nhận đầu tư, khuyến khích đầu tư tạo thêm những điều kiện ưu đãi thuận lợi để nhà đầu tư lựa chọn một hình thức đầu tư phù hợp nhất, vào lĩnh vực thích hợp nhất và hưởng những ưu đãi tài chính thiết thực nhất. Các biện pháp thực hiện bảo hộ đầu tư Việc tiến hành các biện pháp bảo hộ đầu tư phụ thuộc vào chính sách và chiến lược phát triển kinh tế của từng nước. Do đó, xét trên phương diện quốc gia, bảo hộ đầu tư bao gồm các biện pháp sau đây: a. Biện pháp bảo đảm đối xử công bằng và thoả đáng Nguyên tắc này dựa trên nguyên tắc NT - “đãi ngộ quốc gia”. Đối xử công bằng được hiểu là sự đối xử của nước nhận đầu tư, không có sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, giữa các nhà ĐTNN với nhau, giữa khu vực đầu tư công cộng và đầu tư tư nhân. Đảm bảo đối xử thoả đáng đối với nhà đầu tư nghĩa là khi một cá nhân, tổ chức nước ngoài đưa vốn vào Việt Nam thì Chính phủ Việt Nam phải cho họ hưởng những quyền lợi thích hợp để thực hiện các hoạt động đầu tư của họ và thu được lợi nhuận xứng đáng. b. Biện pháp bảo đảm đối với vốn và tài sản của nhà ĐTNN Vốn và tài sản của nhà ĐTNN phải được bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và các quyền lợi hợp pháp khác, tạo điều kiện thuận lợi và thông thoáng cho các nhà đầu tư trong việc quản lý và sử dụng tài sản của mình như: - Tài sản của doanh nghiệp có vốn ĐTNN không bị quốc hữu hoá. - Nhà ĐTNN có quyền quyết định sử dụng vốn như thế nào hợp lý và có hiệu quả nhất: lựa chọn đối tác, lựa chọn lĩnh vực, địa bàn đầu tư, lựa chọn hình thức đầu tư,... - Nhà ĐTNN có quyền định đoạt về vốn: doanh nghiệp liên doanh có quyền chuyển nhượng phần vốn của mình trong doanh nghiệp liên doanh. - Nhà ĐTNN có quyền thực hiện việc mua bán tài sản (bí quyết kỹ thuật, bằng sáng chế, dịch vụ kỹ thuật) nguyên nhiên liệu phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh,... với các tổ chức, cá nhân khác trong phạm vi hoạt động của mình. c. Bảo đảm cho nhà đầu tư chuyển vốn, tài sản và thu nhập hợp pháp tại nước đầu tư ra nước ngoài Các nhà đầu tư khi đầu tư với mục đích cuối cùng là thu lợi nhuận thì yêu cầu tất yếu của họ là phải sử dụng lợi nhuận đó (đưa về nước hoặc tái đầu tư) để có thể đạt được lợi nhuận nhiều hơn nữa. Do đó, họ rất quan tâm đến vấn đề chu chuyển đồng vốn, đặc biệt là chu chuyển ra nước ngoài. Vì thế, Chính phủ nước nhận đầu tư cần có các chính sách điều chỉnh việc chuyển ra nước ngoài linh động các dòng tiền như: - Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh. - Những khoản tiền trả cho việc cung cấp kỹ thuật, dịch vụ. - Tiền gốc và lãi các khoản vay nước ngoài trong quá trình hoạt động. - Vốn đầu tư. - Các khoản tiền, tài sản khác thuộc quyền sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư. d. Bảo đảm cho nhà đầu tư kinh doanh có hiệu quả Các nhà đầu tư rất chú ý đến tính hiệu quả trong kinh doanh, đặc biệt là khi đầu tư vốn ra nước ngoài. Do vậy, việc Nhà nước có các quy định nhằm bảo đảm cho nhà đầu tư kinh doanh có hiệu quả được xem là những biện pháp bảo hộ đầu tư hữu hiệu. Nhóm biện pháp này bao gồm: - Đảm bảo về thời gian: Quy định thời hạn kinh doanh. - Đảm bảo tự do lựa chọn lĩnh vực kinh doanh: Các nhà đầu tư có thể đầu tư vào các lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư, các lĩnh vực đầu tư có điều kiện hoặc các lĩnh vực thông thường khác, cũng có thể lựa chọn địa bàn đầu tư phù hợp với điều kiện của họ. - Đảm bảo quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh: Doanh nghiệp có vốn ĐTNN có toàn quyền quyết định kế hoạch sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, Nhà nước không nên can thiệp hay áp đặt điều gì tới kế hoạch và quá trình sản xuất kinh doanh của họ mà nên tôn trọng và bảo đảm quyền tự chủ cho họ. Doanh nghiệp cũng có quyền quyết định giá bán và không bị giới hạn về khu vực tiêu thụ sản phẩm, trừ những hàng hoá dịch vụ Nhà nước thống nhất quản lý giá bán thì giá bán theo khung giá do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công bố. e. Biện pháp giải quyết thoả đáng các tranh chấp về đầu tư. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các nhà ĐTNN có thể phạm phải những quyết định sai lầm. Mặt khác, vì lí do lợi nhuận mà các nhà đầu tư có thể không tính đến lợi ích của những người khác, có những hành vi cạnh tranh không lành mạnh; giữa các nhà đầu tư có thể nảy sinh bất đồng trong quản lý điều hành doanh nghiệp, sự va chạm lợi ích kinh tế là không thể tránh khỏi,... Đó chính là những nguyên nhân phát sinh tranh chấp và yêu cầu đặt ra là phải có một cơ chế giải quyết tranh chấp sao cho thoả đáng lợi ích các bên và nhanh chóng nhất, để tạo điều kiện cho nhà đầu tư yên tâm thực hiện việc đầu tư kinh doanh trên đất nước mình. II/ Tự do hóa đầu tư Khái niệm Như đã biết ở trên, bảo hộ đầu tư bao gồm nhiều biện pháp do Nhà nước đề ra nhằm bảo đảm quyền lợi thiết thực, chính đáng cho các nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình đầu tư tại nước sở tại. Tuy nhiên, hiện nay, xu hướng tự do hóa đang phát triển mạnh mẽ cùng với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới của các quốc gia. Họ nhận rõ được tầm quan trọng của đầu tư quốc tế trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế và dần tiến tới tự do hóa trong đầu tư. Tự do hóa đầu tư là những biện pháp nhằm cắt giảm hay loại bỏ các rào cản có tính cản trở hoạt động đầu tư từ quốc gia này sang quốc gia khác để tạo nên một môi trường đầu tư có tính cạnh tranh và bình đẳng hơn, tạo sự thuận lợi, thông thoáng cho việc di chuyển các nguồn vốn đầu tư giữa các quốc gia. Các biện pháp thực hiện tự do hóa đầu tư Trên cơ sở mục đích của tự do hóa trong đầu tư quốc tế, có thể thấy để thực hiện triệt để vấn đề tự do hóa cần phải thực hiện các biện pháp như sau: - Tạo một môi trường cạnh tranh thông qua việc mở rộng danh mục những ngành, nghề, dịch vụ mà các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư. Đây chính là rào cản lớn nhất của những nhà đầu tư nước ngoài. Mặc dù họ nhìn thấy được tiềm năng khi đầu tư nhưng nếu ngành đó trong danh sách những ngành nghề, dịch vụ bị cấm thì họ cũng không được phép đầu tư. - Tạo một môi trường công bằng, bình đẳng giữa tất cả những nhà đầu tư. Điều này cần thể hiện rõ ràng trong luật đầu tư của quốc gia đó, không được phân biệt đối xử với bất kỳ nhà đầu tư nào. Những quyền lợi và nghĩa vụ dành cho các nhà đầu tư trong nước cũng sẽ được quy định tương đương đối với các nhà đầu tư nước ngoài thuộc bất cứ quốc gia nào. - Triển khai kí kết và thực hiện hiệu quả, đúng lộ trình các cam kết song phương, đa phương trong quá trình hội nhập quốc tế, các quy định về đối xử công bằng cho các nhà đầu tư của các nước thành viên trong nội bộ các tổ chức kinh tế khu vực và liên khu vực, các tổ chức kinh tế khác mà quốc gia đó tham gia. Theo đó, khi các nhà đầu tư thuộc các nước là thành viên của cùng một tổ chức tiến hành hoạt động đầu tư tại một quốc gia thành viên khác sẽ nhận được những ưu đãi và nghĩa vụ như nhau. Chương II Xu hướng thế giới về bảo hộ và tự do hóa đầu tư I/ Tình hình đầu tư thế giới sau cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm cho tình hình kinh doanh quốc tế xấu nghiêm trọng, mức độ rủi ro cao, thiếu vốn nên nhiều tập đoàn phải điều chỉnh chiến lược đầu tư kinh doanh, điều chỉnh địa bàn và các dịnh hướng đầu tư dẫn đến thu hẹp phạm vi đầu tư, đồng thời cắt giảm vốn nhằm giảm thiểu rủi ro kinh doanh. Khủng hoảng tài chính Mỹ và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động đến đầu tư quốc tế trên những khía cạnh chính sau: - Thứ nhất, các nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh chuyển lợi nhuận về nước; - Thứ hai, vốn tài trợ của công ty mẹ ở bản quốc cho các công ty con ở nước nhận đầu tư giảm sút nghiêm trọng. Các nước phát triển thay vì đầu tư ra nước ngoài, đã quay lại để ngăn chặn suy giảm kinh tế trong nước. . - Thứ ba, tạo ra làn sóng bảo hộ nền kinh tế trong nước nhằm ứng phó với khủng hoảng trong ngắn hạn. Điều này gây bất lợi cho thu hút đầu tư quốc tế. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB), FDI vào các nước đang phát triển đạt khoảng 500 tỉ USD (năm 2008), giảm xuống chỉ còn khoảng 400 tỉ USD (năm 2009). Lượng vốn chảy vào 57 quốc gia thu hút nhiều đầu tư nước ngoài nhất cũng bị giảm 54% (quí I/2009) so với cùng kỳ năm 2008, thậm chí lượng vốn chảy vào các nước thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài như Trung Quốc, Brazil và Nga cũng đều giảm. FDI vào Trung Quốc tính đến tháng 11/2009 đạt 77,9 tỉ USD (giảm 9,9% so với cùng kỳ năm 2008). Các quốc gia châu Á khác có mức sụt giảm FDI là Nhật Bản, Singapore, Thái Lan và Philipin. Những nhân tố tác động đến sự sụt giảm FDI bao gồm: Thứ nhất, khủng hoảng tài chính toàn cầu và sự suy yếu về kinh tế đã làm giảm khả năng và xu hướng đầu tư của các công ty, đặc biệt xu hướng đầu tư ra nước ngoài. Thứ hai, cuộc khủng hoảng tạo ra tâm lý quan tâm đặc biệt đến những bất ổn và rủi ro toàn cầu - là những nhân tố cản trở lớn trong thực hiện các chương trình FDI nhiều tham vọng. Thứ ba, mong muốn của các công ty mở rộng đầu tư ra nước ngoài ít dựa vào cách thức đóng góp cổ phần như cùng sở hữu và cấp phép nhằm giảm chi phí đầu tư của mình. Đầu tư quốc tế trải qua nhiều xu hướng phát triển. Ngoài các hình thức đầu tư quốc tế như: 1) đầu tư truyển thống (các nước phát triển đầu tư vào các nước đang phát triển hoặc đầu tư có tính một chiều); 2) đầu tư lẫn nhau giữa các nước phát triển. Xu hướng chung của đầu tư quốc tế ngày nay là sự đan xen nhau giữa các xu hướng trên. Tuy nhiên, xu hướng đầu tư lẫn nhau giữa các nước đang phát triển ngày càng gia tăng. Xu hướng này phản ánh tốc độ hòa nhập nhanh của các nước đang phát triển vào quá trình toàn cầu hóa. Điểm nổi bật là xu hướng tự do hóa đầu tư ngày càng mạnh giữa các nước, khu vực và thế giới. Các qui chế về FDI của các nước thay đổi nhanh trong thập kỷ qua từ bảo hộ đến hạn chế, kiểm soát và chuyển sang tự do hóa FDI trong phạm vi từng nhóm nước, khu vực. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ngày càng tác động mạnh đến kế hoạch đầu tư của các công ty xuyên quốc gia TNCs (Transnational Corporations). Lợi nhuận suy giảm do khối lượng buôn bán giảm sút đã làm hạn chế xu hướng đầu tư. Đây chính là tác động của "khủng hoảng kinh tế" (economic crisis). Theo Báo cáo tổng quan triển vọng đầu tư thế giới WIPS (World Investment Prospects Survey) các nền kinh tế mới nổi nhờ có tiềm lực tài chính tốt, tỷ lệ giới trẻ cao sẽ hỗ trợ tăng trưởng lâu dài nên càng thu hút giới đầu tư quốc tế và các công ty xuyên quốc gia TNCs. II/ Xu hướng tự do hóa đầu tư diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới 1. Đôi nét về xu hướng tự do hóa đầu tư trên thế giới hiện nay Trong quý I/2010, có tới 62 nền kinh tế trên thế giới đã triển khai các biện pháp mới tác động đến khuôn khổ chính sách đầu tư của nước ngoài và 73 nền kinh tế thực hiện những biện pháp đầu tư quốc tế, tiếp tục xu hướng ký kết nhanh các hiệp định mới về đầu tư. Trong 5 tháng đầu năm 2010, khoảng 37 hiệp định như trên đã được ký kết. Báo cáo giám sát đầu tư của UNCTAD cho biết khoảng 28 nền kinh tế đã thông qua những biện pháp chuyên về đầu tư nhằm tự do hóa, thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu vực kinh tế từ lâu vẫn đóng kín. Cụ thể là Australia và Canada đã tự do hóa dịch vụ vận tải hàng không; Ấn Độ tự do hóa dịch vụ truyền hình trên mạng điện thoại di động; Malaysia, Syria, Cameroon tự do hóa dịch vụ ngân hàng hoặc sở hữu nhà ở; 9 nền kinh tế, trong đó có Nga, Mexico, Libya, Peru, đã triển khai các chính sách đầu tư nhằm thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư nước ngoài như thiết lập các khu kinh tế tự do, khuyến khích những dự án năng lượng tái sinh. Bên cạnh đó, các nước còn áp dụng 10 biện pháp thúc đẩy đầu tư nước ngoài nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài, ví dụ như Nam Phi đã loại bỏ mọi hạn chế đối với việc chuyển dịch vốn nội địa và ra nước ngoài. Một số nước như Thái Lan, Nam Phi, Madagascar…đã thực hiện các biện pháp ưu đãi ngoại hối, nới lỏng các điều kiện đầu tư để khuyến khích đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên, UNCTAD cũng nhấn mạnh những thách thức tiềm tàng đối với đầu tư nước ngoài bao gồm sở hữu nhà nước, việc tăng cường kiểm soát các công ty trong thời kỳ khủng hoảng tiếp tục tác động đến dòng vốn đầu tư nước ngoài; sự thất bại của chính sách thương mại cũng đã tác động đến hệ thống sản xuất trên quy mô toàn cầu của các công ty xuyên quốc gia và dây chuyền giá trị toàn cầu của các công ty này. 2. Tự do hóa đầu tư tại một số quốc gia a. Trung Quốc Hiện nay Trung Quốc là nước thu hút đầu tư lớn nhất trong số các nước đang phát triển và là một trong những nước thu hút đầu tư lớn nhất trên Thế giới. Mỗi năm có hàng trăm tỷ đô la đầu tư vào Trung Quốc, chủ yếu là từ các nước Đông và Đông Nam Á, chỉ tính riêng Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao đã chiếm đến 65% tổng đầu tư vào Trung Quốc. Để đạt được những con số ấn tượng như vậy là vì có một chính sách thu hút đầu tư được thực hiện hơn 30 năm qua. Trước khi tiến hành cải cách nền kinh tế, Trung Quốc là một nước nông nghiệp lạc hậu thiếu thốn công nghiệp, khoa học kĩ thuật. Do vậy, ngay khi tiến hành chính sách mở cửa nền kinh tế, Trung Quốc đã có một chính sách thu hút đầu tư nước ngoài rất mạnh mẽ thông qua các biện pháp ưu đãi thuế. Các nhà đầu tư nước ngoài khi nhập khẩu máy móc, linh kiện, nguyên vật liệu đưa vào sản xuất với tư cách là vốn đầu tư để tái xuất khẩu đều được miễn thuế. Mỗi vùng, mỗi tỉnh, mỗi khu đều có những chính sách riêng nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trung Quốc ban hành nhiều văn bản, luật để đảm bảo quyền lợi cũng như quản lý các hoạt động đầu tư nước ngoài một cách hiệu quả: Luật Trung Quốc về các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của người Trung Quốc, Quy định của hội đồng nhà nước về khuyến khích các đầu tư nước ngoài, Luật về ngoại thương Trung Quốc … Qua các văn bản, luật này các nhà đầu tư nước ngoài có thể biết được chi tiết thủ tục đăng kí, các phương pháp đầu tư vốn, các loại thuế, việc kiểm soát ngoại tệ, thủ tục đình chỉ hoạt động của xí nghiệp, hoạt động của các công đoàn, nhập khẩu kĩ thuật … Hiện nay khi GDP của Trung Quốc lớn thứ 2 trên Thế giới, dự trữ ngoại tệ lớn nhất Thế giới thì vốn không phải là ưu tiên hàng đầu trong chính sách thu hút đầu tư của Trung Quốc nữa. Trong những năm gần đây Trung Quốc khuyến khích đầu tư và đưa công vệ vào lĩnh vực công nghiệp, chế độ khuyến khích được ưu tiên trao cho các ngành cần công nghệ tiên tiến, hàm lượng khoa học kĩ thuật cao: sản xuất chế tạo máy, điện tử tin học, sản xuất ô tô … Đặc biệt các dự án đầu tư vào khu vực miền Tây, Đông Bắc hẻo lánh, các nơi xa xôi sẽ được hưởng ưu tiên đặc biệt. Những ngành cần sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên và nguy cơ gây ra ô nhiễm môi trường cao hiện không còn được khuyến khích nữa. Kể từ khi gia nhập vào WTO, Trung Quốc càng mở cửa hơn nữa đối với các nhà đầu tư, nhất là ở những ngành dịch vụ trước kia vốn là độc quyền của nhà nước như: tài chính,bảo hiểm, viễn thông, du lịch … Nhờ nguyên tắc không phân biệt đối xử, các điều kiện không công bằng so với các công ty trong nước mà các công ty nước ngoài phải đối mặt khi thâm nhập thị trường Trung Quốc sẽ được bãi bỏ. Hàn Quốc Hàn Quốc là một quốc gia có rất nhiều các công ty, nhà đầu tư ra nước ngoài, nhưng đồng thời cũng thu hút được một lượng vốn đầu tư vào trong nước rất lớn. Trong những năm gần đây, Hàn Quốc đã và đang tiến hành mạnh mẽ xu hướng tự do hóa đầu tư nhằm góp phần tiếp cận với nguồn vốn và kĩ thuật, công nghệ tiên tiến của nước ngoài, cải thiện hoạt động sử dụng vốn đầu tư. Chính phủ Hàn Quốc đang tiếp tục tạo dựng môi trường "ngoại thương thân thiện" thông qua nhiều biện pháp khuyên khích đầu tư nước ngoài. Cụ thể, chính phủ miễn hoàn toàn thuế thuê đất cho khu vực có vốn đầu tư nước ngoài để sản xuất vật liệu và phụ tùng máy móc. Nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư hoàn toàn được đầu tư vào tất cả các ngành, lĩnh vực ngoại trừ những ngành liên quan đến an ninh quốc gia và thông tin đại chúng. Mọi giới hạn về đầu tư vào thị trường tài chính, chứng khoán, trái phiếu, cổ phiếu đều đã được dỡ bỏ. Các nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn được đối xử như các nhà đầu tư trong nước. Chương III Thực tiễn hoạt động bảo hộ và tự do hóa đầu tư tại Việt Nam I/ Quan điểm của chính phủ và Nhà nước đối với hoạt động đầu tư tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong những năm gần đây Trong những năm gần đây, số lượng các dự án đầu tư có 100% vốn nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu tăng lên mạnh mẽ. Những dự án này hiện nay chiếm 76% tổng số dự án được cấp giấy phép và 55% vốn đăng ký, trong khi các doanh nghiệp liên doanh chỉ chiếm phần còn lại. Đồng thời, có sáu dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép ở Việt Nam theo hình thức BOT (cung cấp nước và nhà máy điện), với tổng vốn đăng ký là 1,37 tỉ USD. Năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Sự thay đổi này cũng là yêu cầu phù hợp với quy luật chung, nhằm đáp ứng kịp thời với những biến đổi của nền kinh tế trong và ngoài nước qua từng thời kỳ, phù hợp với xu thế hội nhập, nâng cao khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN. Thực tế đã chứng minh việc ban hành Luật Đầu tư đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra những chuyển biến tích cực của tình hình ĐTNN vào Việt Nam kể từ năm 2006 tới nay. Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch-dịch vụ cao cấp .v.v.). Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào 7 tháng 11 năm 2006 với các cam kết bắt đầu có hiệu lực từ 11 tháng 1 năm 2007. Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO, Việt Nam đã bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án đầu tư có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hóa và sử dụng nguyên liệu trong nước. Hai tác động tích cực chủ yếu của việc là thành viên của WTO đối với ĐTNN là: Thứ nhất, thuế nhập khẩu các hàng hóa phục vụ sản xuất trong nước cũng như cho tiêu dùng tư nhân và chính phủ được giảm rõ rệt (trong nhiều trường hợp, mức thuế suất áp dụng cho các đầu vào nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu và các hàng hóa khác như máy móc và thiết bị sản xuất hàng xuất khẩu được giảm đáng kể trong quá trình đàm phán). Hơn nữa, các nhà xuất khẩu cũng sẽ được hoàn trả thuế nhập khẩu bị áp lên đầu vào nguyên liệu dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu của mình. Thứ hai, thị trường dịch vụ của Việt Nam sẽ được tự do hóa. Theo cách phân loại của WTO, điều khoản liên quan đến dịch vụ sẽ được chia thành bốn phương thức: (i) có sự dịch chuyển qua biên giới; (ii) dịch vụ được tiêu dùng ở nước ngoài; (iii) hiện diện thương mại và (iv) hiện diện thể nhân. Khi lĩnh vực dịch vụ được tự do hóa, đặc biệt dịch vụ ở phương thức (i) và (iv), sẽ ảnh hưởng đến dòng vốn FDI vào Việt Nam. Đầu tiên, các phân ngành dịch vụ mà trước đây không cho phép hoặc hạn chế vốn đầu tư nước ngoài (ví dụ  như phân phối, vận tải, viễn thông, tài chính, v.v) sẽ được tự do hóa rộng khắp (mặc dù còn một số điều kiện hạn chế và một thời gian chuyển đổi từ 3 đến 5 năm). Trong 5 năm trở lại đây, tình hình ĐTNN tại Việt Nam có nhiều bước tiến mới với sự tăng nhanh về quy mô và nguồn vốn của các dự án đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, tình hình đầu tư đi theo hướng tự do hóa nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và tạo môt môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các nhà đầu tư. Các cam kết quốc tế của Việt Nam về ĐTNN có hình thức, phạm vi và mức độ khác nhau, song đều hướng tới mục tiêu chung là nhằm tự do hóa hoạt động ĐTNN bằng việc mở cửa các lĩnh vực kinh tế và thực hiện chế độ không phân biệt đối xử đối với nhà đầu tư nước ngoài theo lộ trình nhất định, đồng thời thiết lập một cơ chế khuyến khích, bảo hộ đầu tư và giải quyết tranh chấp phù hợp với thông lệ quốc tế. Sự thay đổi này đã mang đến cho Việt Nam thêm nhiều cơ hội mới cũng như thu hút được nhiều dự án lớn, tạo đà cho bước phát triển mới của ĐTNN. Quan điểm của chính phủ và Nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay Tại kỳ họp lần thứ 3 Hội đồng Tư vấn kinh doanh APEC (ABAC) tổ chức vào tháng 8/2009, chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã nên rõ: Dù là một nền kinh tế đang phát triển, VN đã và đang tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong và ngoài nước. VN đang tích cực hội nhập với thế giới và triển khai thực hiện đầy đủ các cam kết đa phương và song phương. VN cũng ủng hộ việc APEC cần thể hiện vai trò đi đầu trong tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại và đầu tư. Như vậy, có thể thấy rằng, Việt Nam đang đi theo xu hướng tự do hóa thương mại, tự do hóa đầu tư như phần lớn các quốc gia khác trên thế giới. Điều này đảm bảo cho Việt Nam tránh khỏi những tác động không thuận lợi của môi trường kinh tế bên ngoài khi là một nền kinh tế có độ mở cao đồng thời giúp Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu hơn nữa và đầy đủ hơn nữa vào nền kinh tế thế giới. II/ Thực tiễn xu hướng tự do hóa hoạt động đầu tư tại Việt Nam hiện nay Các chính sách và biện pháp thực hiện tự do hóa đầu tư tại Việt Nam Mở rộng danh mục các lĩnh vực ngành nghề mà các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư: Hiện nay, danh mục các lĩnh vực được ưu đãi đầu tư và được phép đầu tư có điều kiện đối với các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Chi tiết, đối với danh mục các lĩnh vực được ưu đãi đầu tư (tháng 9 năm 2006), có tất cả 8 lĩnh vực với 52 nhóm ngành nghề. Đối với danh mục các lĩnh vực được phép đầu tư có điều kiện áp dụng cho các nhà đầu tư nước ngoài, có tất cả 16 nhóm ngành nghề. Điều này cho thấy, Việt Nam đang dần mở cửa thị trường đầu tư, tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước. Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp đối với hoạt động đầu tư nước ngoài: Nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư, tạo "một sân chơi" bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động đầu tư. Năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư và có hiệu lực từ 1/7/2006, Luật Đầu tư 2005 thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành NĐ 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Đầu tư (Nghị định 108). So với Luật Đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước trước đây thì pháp luật đầu tư 2005 quy định rõ hơn về những hình thức đầu tư như: Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài; Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài; Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT; Đầu tư phát triển kinh doanh; Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư; và Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp. Nhà đầu tư được đầu tư để thành lập tổ chức kinh tế bằng 100% vốn của mình, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại Việt Nam được hợp tác với nhau và/hoặc với nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài mới theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Nhà đầu tư cũng có thể đầu tư thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh trên được tiếp tục liên doanh với nhà đầu trong nước và nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập tổ chức kinh tế mới theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan.  Một điểm khác so với quy định trước đây, được coi là một điểm mở rất thoáng và mới đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, đó là đối với nhà đầu tư nước ngoài đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư tại Việt Nam, nếu nhà đầu tư có dự án đầu tư mới mà không thành lập pháp nhân mới thì chỉ thực hiện thủ tục đầu tư để cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật đầu tư 2005; nếu nhà đầu tư có dự án đầu tư mới gắn với việc thành lập pháp nhân mới thì thực hiện thủ tục thành lập tổ chức kinh tế và thủ tục đầu tư theo quy định như đối với đầu tư trong nước. Luật đầu tư 2005 cũng đã cụ thể hóa những nội dung về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, theo đó nhà đầu tư có quyền tự chủ đầu tư kinh doanh, quyền tiếp cận các nguồn lực đầu tư, sử dụng nguồn vốn tín dụng, đất đai và tài nguyên, quyền sử dụng lao động, quyền mở tài khoản và mua ngoại tệ, quyền xuất khẩu, nhập khẩu, quảng cáo, gia công, gia công lại,... Kí kết và cam kết thực hiện các hiệp định song phương và đa phương về tự do hóa thương mại, tự do hóa đầu tư Kí kết và cam kết thực hiện theo lộ trình các hiệp định song phương và đa phương về tự do hóa thương mại và đầu tư là điều kiện cần thiết để Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Cho đến nay, Việt Nam đã gia nhập vào nhiều tổ chức kinh tế khu vực – liên khu vực, cũng như các tổ chức kinh tế thế giới khác và đã kí kết, đồng thời từng bước thực hiện nhiều hiệp định quan trọng về tự do hóa thương mại, tự do hóa đầu tư. Dưới đây là một số hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam đã kí kết: Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN được kí kết tháng 10/1998 giữa các nước thành viên ASEAN nhằm mục đích tạo ra đầu tư lớn hơn từ các nước ASEAN và các nước ngoài ASEAN. Hiệp định đã thỏa thuận về các mục tiêu tự do hóa đầu tư trong khu vực: chế độ đối xử quốc gia được dành cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010, và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020; tất cả các ngành nghề được mở cửa cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020; có lưu chuyển tự do hơn về vốn, lao động lành nghề và chuyên gia, và công nghệ giữa các quốc gia thành viên. Hiệp định đầu tư ASEAN – Trung Quốc và Hiệp định đầu tư ASEAN – Hàn Quốc Hiệp định đầu tư ASEAN – Trung Quốc và hiệp định đầu tư ASEAN – Hàn Quốc được kí kết năm 2009. Hiệp định là bước tiến mới trong quan hệ kinh tế song phương, giúp mở rộng thương mại và đầu tư giữa hai bên và góp phần tăng cường các quan hệ về kinh tế. Nỗ lực thuận lợi hóa và bảo vệ đầu tư sẽ giúp tăng cường hoạt động sản xuất, xuất khẩu và khối lượng hàng hóa sản phẩm giữa hai bên, dẫn đến việc gia tăng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ xanh cũng như hoạt động tái đầu tư có lợi nhuận. ASEAN và Trung Quốc, Hàn Quốc cũng ủng hộ kế hoạch gia tăng nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nhà đầu tư hai bên vào thị trường của nhau, thúc đẩy và bảo vệ vốn đầu tư của các bên ký hiệp định, đối xử công bằng và không phân biệt đối với các nhà đầu tư, bồi thường trong một số trường hợp và giải quyết tranh chấp theo quy định chung của nhà nước. Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP) Ngày 01/4/2008, Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam đã thay mặt Chính phủ ký Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản trước sự chứng kiến của Đại Sứ Nhật Bản và đại diện sứ quán của các nước ASEAN tại Việt Nam, đại diện các Bộ, ngành hữu quan. Hiệp định chính thức có hiệu lực đối với Nhật Bản và một số nước ASEAN (trong đó có Việt Nam) vào ngày 01 tháng 12 năm 2008. Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP) là hiệp định toàn diện, chứa đựng các quy tắc căn bản về thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và các hoạt động hợp tác kinh tế khác. Cùng với dòng đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản tại Việt Nam đang ngày một gia tăng, việc giảm thuế trong các nhóm hàng nguyên vật liệu, thiết bị sẽ là động lực quan trọng để các doanh nghiệp Nhật Bản mở rộng đầu tư tại Việt Nam. Các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ Các cam kết này có nội dung là những thỏa thuận của Việt Nam về việc mở cửa thị trường trong một số lĩnh vực quan trọng như: Cam kết mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính Cam kết mở cửa thị trường các dịch vụ kinh doanh Cam kết mở cửa thị trường dịch vụ chuyển phát và viễn thông Cam kết chung về dịch vụ của Việt Nam trong WTO v.v.... Như vậy, theo các cam kết trên đây, Việt Nam sẽ từng bước thực hiện mở cửa theo lộ trình các lĩnh vực, các nhóm ngành nghề, tạo ra môi trường đầu tư tự do và dễ dàng để thu hút đầu tư của các nhà đầu tư đến từ nhiều quốc gia trên thế giới. Hiệp định khung Thương mại và Đầu tư Việt Nam – Hoa Kỳ (TIFA) Hiệp định khung Thương mại và Đầu tư Việt Nam – Hoa Kỳ được kí kết tháng 6 năm 2008. Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn thứ 3 và là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Việt Nam cũng đang trở thành điểm đến đầu tư của ngày càng nhiều doanh nghiệp Mỹ và là một thị trường đang mở rộng cho hàng hoá của Mỹ. Nhờ môi trường kinh doanh được cải thiện, các doanh nghiệp lớn của Hoa Kỳ đã và đang tiếp tục tìm kiếm các cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Hiệp định Thương mại Song phương (BTA), tư cách thành viên WTO của Việt Nam, Hiệp định Khung về Thương mại và Đầu tư (TIFA) mở ra nhiều cơ hội hợp tác hơn nữa trong các vấn đề thương mại và đầu tư, lĩnh vực mà cả Hoa Kỳ và Việt Nam đều ưu tiên. Những vấn đề còn tồn tại trong thực hiện tự do hóa hoạt động đầu tư tại Việt Nam a. Các vấn đề về luật pháp đối với hoạt động đầu tư nước ngoài Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO, điều đó có nghĩa là Việt Nam phải cam kết thực hiện những tiêu chuẩn quốc tế về sự minh bạch, tính đồng bộ, tính công bằng và tính hợp lý. Các luật, quy định và các quyết định của toà án liên quan đến thương mại cần phải được công bố công khai để cho công chúng và thế giới biết trước khi chúng có hiệu lực. Mọi yêu cầu về thông tin, thắc mắc và bình luận đều có thể được giải đáp. Tính đồng bộ có nghĩa là các chính quyền địa phương không được đưa ra những đạo luật riêng không thống nhất với những quy định của WTO, tức là chính quyền địa phương phải tuân thủ các nguyên tắc của WTO. Tính công bằng yêu cầu không chấp nhận bất cứ sự thiên vị nào trong việc thực hiện luật pháp. Để tuân thủ tính đồng bộ và tính công bằng, các đạo luật cũng phải mang tính chất hợp lý, phù hợp. So với những tiêu chuẩn quốc tế đó, thì hệ thống luật pháp của Việt Nam còn nhiều yếu kém. Mặc dù Việt Nam đã có Luật Doanh nghiệp và Luật đầu tư nước ngoài nhưng chúng ta còn thiếu nhiều luật trong những lĩnh vực thương mại cụ thể. Ngay khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO tháng 1/2007, phái đoàn 18 doanh nghiệp, tập đoàn hàng đầu nước Mỹ như Boeing, Chevron, Exxon Mobil, IBM, Time Warner... đã đến Việt Nam để tìm hiểu cơ hội đầu tư. Nhiều doanh nghiệp muốn tìm kiếm cơ hội đầu tư ở Việt Nam. Điều mà họ quan tâm nhất là Việt Nam đã có những cam kết gia nhập WTO và sẽ thực thi những cam kết này như thế nào. Ví dụ, tập đoàn DELL rất nổi tiếng trong lĩnh vực sản xuất máy tính đã sang gặp một số cơ quan Chính phủ Việt Nam và tập đoàn Intel đang đầu tư ở Việt Nam để tìm hiểu xem Việt Nam có là một ứng cử viên tiềm năng cho việc đầu tư không. Những doanh nghiệp khác như tập đoàn IBM, HP thì rất quan tâm đến một số Nghị định của Chính phủ gần đây về đấu thầu và cung ứng. Trong Nghị định về việc mua bán các sản phẩm IT, trong đó có yêu cầu các sản phẩm IT nước ngoài khi tham gia đấu thầu phải có tỷ lệ phần trăm sản xuất từ các công ty Việt Nam. Hiện tại Việt Nam hầu như chưa có doanh nghiệp nào tham gia sản xuất phần mềm nên yêu cầu trên rất khó thực hiện. Như vậy, về vấn đề môi trường pháp lý, điều mà các nhà tài trợ và các nhà đầu tư, doanh nghiệp mong muốn hiện nay là sớm có các văn bản hướng dẫn việc thực thi các luật mới tránh để tạo ra một khoảng trống khi mà các luật cũ đã hết hiệu lực, nhưng luật mới lại chưa có Nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện. b. Công tác quản lý Nhà nước còn nhiều yếu kém Bên cạnh những cải tiến rõ rệt về thủ tục hành chính từ khâu hình thành, thẩm định dự án đến khâu thực hiện dự án, những quy định về thủ tục hành chính ở một số lĩnh vực như xuất khẩu, nhập khẩu, hải quan, đất đai.... còn rất phức tạp, gây phiền hà và làm nản lòng các nhà đầu tư. Trong một thời gian dài, việc quản lý quá tập trung vào khâu cấp phép đầu tư, buông lỏng khâu quản lý sau giấy phép là khâu quyết định thành bại của dự án. Do đó, các cơ quan quản lý Nhà nước không nắm vững tình hình và kết quả hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước thiếu chặt chẽ, nhiều cơ quan có xu hướng muốn mở rộng quyền lực nhưng lại né tránh trách nhiệm. Thủ tục hành chính là một trong những cản trở làm tăng chi phí và làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài. Sau khi có giấy phép đầu tư các nhà đầu tư còn phải xin rất nhiều các loại giấy phép khác mới được triển khai dự án. Việt Nam chưa có cơ quan dịch vụ tư vấn đầu tư miễn phí như ở các nước. Các thủ tục về địa chính, về thuế, những quy định về thanh tra, kiểm tra, kiểm toán... thường xuyên thay đổi, không nhất quán và chồng chéo gây hoài nghi cho các nhà đầu tư nước ngoài về chính sách và luật pháp của Việt Nam. Trong thời gian gần đây, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều biện pháp để cải cách hành chính nhưng bộ máy hành chính Nhà nước ở Việt Nam vẫn bị các tổ chức quốc tế đánh giá thấp. Việc thực thi pháp luật, chính sách chưa nghiêm. Hiện tượng sách nhiễu, tiêu cực chưa bị chặn đứng; tình trạng thanh tra, kiểm tra còn chồng chéo, phiền hà, hiện tượng hình sự hoá các quan hệ kinh tế có xu hướng tăng lên, nạn tham nhũng, buôn lậu, làm hàng giả chậm được khắc phục... Những vấn đề trên đã làm biến dạng chính sách, làm xấu thêm môi trường đầu tư. Công tác quản lý Nhà nước còn nhiều sơ hở để một số đối tác nước ngoài lợi dụng như nâng giá đầu vào, hạ giá đầu ra để thu lời bất chính, đưa thiết bị cũ, lạc hậu vào nền kinh tế, gian lận thương mại. c. Thách thức trong cạnh tranh thu hút FDI với các nước khác Tự do hoá FDI sẽ dẫn đến những khó khăn cho Việt Nam trong quá trình cạnh tranh với các nước khác, đặc biệt là các nước trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, các nước thành viên ASEAN trong thu hút FDI. Lý do thứ nhất là vì chế độ FDI của Việt Nam tuy đã được điều chỉnh nhiều lần theo hướng tự do hoá nhưng vẫn còn nhiều rào cản và so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới mức độ tự do hoá FDI của Việt Nam chưa cao. Theo kết quả nghiên cứu về tự do hoá đầu tư của các nước APEC của Chiang Rai (Nhật Bản), Việt Nam có được mức độ các rào cản đối với FDI đứng thứ 7 trong tổng số 19 nước được nghiên cứu. Lý do thứ hai là vì ngay cả khi môi trường luật pháp, chính sách FDI của Việt Nam có thể cạnh tranh được với các nước khác thì nhiều yếu tố khác của môi trường FDI của Việt Nam như cơ sở hạ tầng, các ngành công nghiệp phụ trợ... vẫn còn kém sức hấp dẫn so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. Gia nhập WTO tạo ra một mặt bằng pháp lý chung trong khu vực để điều chỉnh FDI. Việc tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng và thuận lợi sẽ khiến cho các nhà đầu tư thay vì đầu tư vào một nước để chiếm lĩnh thị trường nước này, có thể đầu tư mới hoặc mở rộng cơ sở đầu tư đã có ở một quốc gia khác trong khu vực thuận lợi hơn để xuất khẩu hàng hoá sang nước kia mà vẫn được hưởng các ưu đãi về đầu tư. Điều này sẽ làm cho luồng vốn FDI vào khu vực tăng song lại mất tính chất đồng đều giữa các quốc gia khi thu hút FDI. Trên thực tế, Việt Nam nằm trong khu vực hầu hết các nước đều cạnh tranh gay gắt để thu hút FDI. Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Myanmar,....đang nỗ lực cải thiện môi trường FDI. Đặc biệt, các nước Đông Nam Á, Hàn Quốc, Trung Quốc nhanh chóng điều chỉnh chính sách thu hút FDI theo hướng ngày càng tự do hơn nhằm tăng sức hấp dẫn đối với dòng vốn này. d. Việt Nam thành nơi tiếp nhận các công nghệ thấp từ các nước đang phát triển Ngày nay, các nước đang phát triển rất tích cực đầu tư ra nước ngoài. Hội nhập đầu tư quốc tế theo xu thế tự do hoá FDI sẽ tạo thuận lợi cho các nước trong đó có các nước đang phát triển đầu tư vào Việt Nam. Dòng vốn FDI từ nhiều nước đang phát triển thường đi kèm với các công nghệ lạc hậu mà các nước này trước đây đã tiếp nhận từ các nước phát triển hơn và nay để đổi mới công nghệ nhưng vẫn khai thác được các công nghệ cũ, các nước này thường tìm cách chuyển giao sang các nước có trình độ phát triển kém hơn. Vì vậy nếu quản lý không tốt, Việt Nam có thể trở thành nơi tiếp thu những công nghệ lạc hậu của các nước đang phát triển khác. Điều này sẽ kìm hãm sự phát triển của Việt Nam, khiến khoảng cách giữa Việt Nam và các nước sẽ ngày càng xa hơn. Thực tiễn thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian vừa qua cho thấy thách thức này không dễ vượt qua. Do trình độ của cán bộ quản lý, trình độ của các kỹ sư, kỹ thuật viên còn kém, chưa được tiếp xúc nhiều với các công nghệ tiên tiến, chưa được cập nhật thường xuyên nên trong thời gian vừa qua Việt Nam đã tiếp nhận nhiều công nghệ lạc hậu trên thế giới thông qua FDI. Điều này làm ảnh hưởng xấu đến môi trường và làm chậm lại quá trình CNH – HĐH đất nước. KẾT LUẬN Như vậy, qua tìm hiểu chúng ta có thể thấy rằng, xu hướng chung của các quốc gia trên thế giới cũng như của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chính là tự do hóa đầu tư, từng bước cắt giảm hay loại bỏ các rào cản có tính cản trở hoạt động đầu tư từ quốc gia này sang quốc gia khác để tạo nên một môi trường đầu tư có tính cạnh tranh và bình đẳng hơn, tạo sự thuận lợi, thông thoáng cho việc di chuyển các nguồn vốn đầu tư giữa các quốc gia. Tuy nhiên, để xu hướng này phát triển mạnh mẽ hơn nữa tại Việt Nam, đem lại những hiệu quả thiết thực, tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế đất nước đi lên thì điều quan trọng, đó là việc phải sớm hoàn thiện các chính sách, các nhóm biện pháp đồng bộ để tạo nên một thị trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng, bình đẳng và mang tính cạnh tranh cao. Đây cũng chính là một trong những thách thức lớn của Việt Nam khi tiến hành tự do hóa thương mại và đầu tư, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Website của Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch và Đầu tư Website của Viện nghiên cứu phát triển TP. Hồ Chí Minh Website của Ủy ban Quốc Gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế Website của Thông Tấn Xã Việt Nam Website của Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ Website của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Website của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Website của Thời báo Kinh tế Việt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBảo hộ và tự do hóa trong đầu tư Xu hướng thế giới và thực tiễn tại Việt Nam.doc
Luận văn liên quan