Chuyên đề Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Thăng Bình, thực trạng, nguyên nhân và các biện pháp đấu tranh

Với nội dung mà chuyên đề đã phân tích ở trên, chúng ta có thể đi đến một số kết luận như sau: Tình hình trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2008-2012 diễn ra rất phức tạp, có năm tăng, có năm giảm, nhưng nhìn chung là đều có xu hướng gia tăng so với năm 2006. Đây là loại tội phạm chiếm tỷ lệ khá cao so với các tội phạm hình sự nói chung trên địa bàn thành phố, tính chất và mức độ ngày càng lớn, gây tâm lý hoang mang lo lắng trong nhân dân, ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị của thành phố. Sự gia tăng về số lượng, tính chất cũng như mức độ nguy hiểm của tội trộm cắp tài sản chủ yếu là do nguyên nhân về kinh tế-xã hội; văn hóa, giáo dục. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường kéo theo sự phân hóa giàu nghèo, sự xuống cấp về đạo đức, văn hóa giáo dục. Đối với sự chuyển biến về nền kinh tế, các cơ quan quản lý nhà nước cần phải kịp thời đưa ra các chính sách quản lý, chính sách pháp luật sao cho phù hợp nhất với sự phát triển đó. Tuy nhiên, sự lỏng lẻo trong công tác quản lý đã tạo nên một lỗ hổng để bọn phạm tội lợi dụng phạm tội.

doc68 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5106 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Thăng Bình, thực trạng, nguyên nhân và các biện pháp đấu tranh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giả” bùng nổ, bệnh thành tích xảy ra ở mọi khâu, mọi cấp của ngành giáo dục. Các lý do được nêu ra để giải thích cho tất cả tình trạng trên: tư duy giáo dục chậm đổi mới, quản lý giáo dục còn yếu kém và bất cập với cơ chế quản lý ôm đồm, quan liêu, hệ thống luật pháp, chính sách giáo dục chưa hoàn chỉnh, công tác điều hành, chỉ đạo có nhiều yếu kém, bất cập... Một nền giáo dục với những bất cập như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của việc dạy và học, ảnh hưởng lớn đến phẩm chất đạo đức, cách tư duy, suy nghĩ của học sinh và sinh viên mà nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ chính sự giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội. Từ phía gia đình: Đây là nguyên nhân đầu tiên và chủ yếu, bởi môi trường sống trong gia đình có tác động đầu tiên và ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình phát triển nhân cách của trẻ em. Vai trò của gia đình trong việc quản lý, giáo dục trẻ em – đặc biệt là vai trò của cha mẹ – là hết sức quan trọng. Quản lý và giáo dục của gia đình là một quá trình liên tục và lâu dài từ khi đứa trẻ sinh ra cho đến khi trưởng thành. Gia đình nào tạo dựng được môi trường giáo dục tốt, có nề nếp kỷ cương thì mặc dù điều kiện kinh tế có khó khăn nhưng vẫn có cuộc sống hạnh phúc, con cái có lối sống trong sáng, lành mạnh. Ngược lại, môi trường giáo dục trong gia đình không tốt sẽ là nguyên nhân dẫn con cái đến con đường vi phạm pháp luật. Những thiếu sót, sai lầm từ phía gia đình có thể là do: Một là, lựa chọn phương pháp quản lý, giáo dục không đúng, như: thỏa mãn và đáp ứng đầy đủ yêu cầu vật chất của con cái khi các yêu cầu này là không chính đáng, không phù hợp với lứa tuổi hoặc điều kiện kinh tế của gia đình. Sự nuông chiều thái quá, không bắt lao động, coi nhẹ hoặc bỏ qua lỗi lầm, nghĩa vụ của con cái, từ đó tạo ra thói quen, tâm lý đòi hỏi, hưởng thụ sống ích kỷ, ỷ lại. Ngược lại, có gia đình do bố mẹ thiếu hiểu biết nên khi thấy con có lỗi đã không tìm cách khuyên răn mà lại dạy con bằng cách đánh đập, hành hạ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật của người chưa thành niên. Hai là, gia đình thiếu trách nhiệm, không quan tâm trong việc quản lý và giáo dục con cái, ỷ lại cho nhà trường và xã hội như: bố mẹ lo làm ăn buôn bán, do phải đi công tác xa thường xuyên, bố mẹ ốm đau bệnh tật không quản lý chặt chẽ việc học tập, sinh hoạt của con cái. Có trường hợp con cái bỏ học hàng tháng, đi chơi qua đêm, nghiện hút và có hành vi vi phạm pháp luật mà bố mẹ không hề hay biết, chỉ đến khi nhận được thông báo của cơ quan công an hoặc hàng xóm, bạn bè mách bảo thì mọi việc đã muộn. Ba là, một số gia đình có hoàn cảnh đặc biệt như bố mẹ ly hôn; bố mẹ đang chấp hành án phạt tù, bố hoặc mẹ đã chết, sống với gì ghẻ hoặc bố dượng, mồ côi cả bố mẹ các em phải ở với ông bà, anh chị em ruột, sống một mình, sống lang thang. Những trẻ em rơi vào hoàn cảnh này thường bị tổn thương về tâm lý do tự ti, mặc cảm, thiếu thốn tình cảm, thiếu điều kiện học tập vui chơi, thiếu quản lý, giáo dục dẫn đến mất phương hướng khi hành động dễ bị lôi kéo vào những hành vi tiêu cực, phạm tội. Từ phía nhà trường: Hiện nay, hầu hết các trường học đều tổ chức cho học sinh tham gia ký cam kết không vi phạm pháp luật, nhưng thực tế đây cũng chỉ có tính hình thức. Trong khi đó, các chương trình giáo dục pháp luật lại chưa được chú trọng, chưa có nhiều giải pháp quản lý, giáo dục và giúp đỡ các học sinh chưa ngoan. Thông thường, khi phát hiện học sinh vi phạm kỷ luật thì hình thức xử lý là đuổi học, mà hình thức này khi áp dụng lại vô tình tạo ra khoảng trống thiếu vắng sự quản lý, giáo dục nên dễ đưa học sinh vào con đường vi phạm pháp luật. Ngoài ra, sự phối hợp trao đổi thông tin, liên lạc giữa gia đình và nhà trường thiếu chặt chẽ nên nhiều học sinh tự ý bỏ học đi lang thang hoặc tìm niềm vui qua các trò chơi điện tử, phim ảnh bạo lực, khiêu dâm mà nhà trường và gia đình không hay biết. Đây là điều kiện để các đối tượng xấu ngoài xã hội lợi dụng để lôi kéo các em vào con đường vi phạm pháp luật. Từ phía xã hội: Do những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường cùng với những thiếu sót trong việc quản lý văn hóa – xã hội của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, vì vậy chúng ta chưa đánh giá hết tính chất phức tạp, nghiêm trọng của tình hình vi phạm và tội phạm để đề ra những chủ trương, biện pháp phòng ngừa ngăn chặn và đấu tranh phù hợp. Hệ thống pháp luật về trẻ em và người chưa thành niên thiếu đồng bộ, việc thi hành chưa nghiêm. Sự phối hợp hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật còn thiếu chặt chẽ, các ngành, các cấp chính quyền chưa coi trọng đúng mức và chưa thực hiện hết trách nhiệm của mình trong công tác phòng, chống vi phạm pháp luật của người chưa thành niên, coi đó là trách nhiệm chủ yếu của gia đình và nhà trường. Vai trò của các đoàn thể xã hội, đặc biệt là Đoàn Thanh niên trong công tác giáo dục và phòng ngừa vi phạm pháp luật của người chưa thành niên còn mờ nhạt. Thông thường những người vi phạm pháp luật thuộc đối tượng ở tổ chức nào thì ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn giao cho tổ chức đó giáo dục, giúp đỡ và bảo vệ quyền lợi của họ, nhưng thực tế thì rất ít trẻ em vi phạm pháp luật được giao cho Đoàn Thanh niên quản lý, giáo dục, nếu có thì cũng chưa được các cơ sở đoàn quan tâm đúng mức. Sự mờ nhạt của các tổ chức đoàn cùng với việc thiếu quan tâm của gia đình dẫn đến nhiều thanh niên sau khi trở về từ trường giáo dưỡng lại tiếp tục đi vào con đường tái phạm. Theo thống kê của Viện Kiểm Sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, số bị can phạm tội trộm cắp tài sản từ năm 2008-2012 ở độ tuổi từ 14-16 tuổi là 248 bị can, trong đó số bị can ở độ tuổi này bỏ học, đi lang thang là 206 bị can, chiếm tỷ lệ 83,06%. Như vậy, có thể thấy rằng số bị can có độ tuổi từ 14-16 tuổi phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chủ yếu là do bỏ học, đi lang thang, các em không được sự giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội cho nên dễ bị tiêm nhiễm các thói hư tật xấu, dẫn đến đi vào con đường lao lý khi độ tuổi còn quá nhỏ. Đây chính là điều đáng báo động đối với cơ quan chức năng về vấn đề giáo dục thế hệ trẻ - một thế hệ tương lai của đất nước. Một thực tế cho thấy số người vi phạm pháp luật nói chung, vi phạm tội trộm cắp tài sản nói riêng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong những năm gần đây đang dần trẻ hóa. Đơn cử như ngày 4/10, Công an quận Sơn Trà phá thành công chuyên án trộm cắp tài sản, bắt gần 10 đối tượng, làm rõ hàng chục vụ trộm cắp trị giá hàng trăm triệu đồng liên quan đến 3 băng nhóm tội phạm có tuổi đời từ 14-19 tuổi. Băng nhóm thứ nhất do Lê Công Thành (tức Thành “dê" - 17 tuổi), trú tổ 49, phường Mân Thái cầm đầu cùng Ngô Lê Anh Hoài (19 tuổi), trú tổ 45C, phường An Hải Bắc. Nhóm thứ hai do Trần Thanh Tự (18 tuổi), trú tổ 36, phường An Hải Tây cầm đầu cùng với Lê Văn Gió (17 tuổi), trú phường An Hải Bắc. Nhóm thứ ba do Đặng Văn Tùng (15 tuổi), trú tổ 15, phường Nại Hiên Đông cầm đầu. Những đối tượng này đã bỏ học, không đi lao động nhưng thường xuyên đến vũ trường chơi bời thâu đêm suốt sáng bằng số tiền trộm cắp được. 2.3.3. Nguyên nhân về chính sách pháp luật: Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, đánh dấu bước phát triển về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên đây cũng là lúc các chính sách quản lý của nhà nước thể hiện nhiều sơ hở, thiếu sót. Cơ chế quản lý, chính sách pháp luật chưa có sự thay đổi để thích ứng với cơ chế thị trường. Mặc dù hệ thống pháp luật đã có nhiều về số lượng và thay đổi về chất lượng nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm của xã hội, thiếu tính ổn định, đồng bộ. Trước ngưỡng cửa gia nhập kinh tế thế giới, chúng ta cần phải có hệ thống pháp luật đầy đủ để điều chỉnh mọi mặt của đời sống xã hội, phục vụ cho quản lý kinh tế và quản lý xã hội. Hệ thống văn bản pháp luật quy định về lĩnh vực quản lý nhà nước còn chậm ban hành, làm cho các ngành, các cơ quan hành chính lúng túng trong công tác quản lý. Mặt khác công tác thống kê của các cơ quan tư pháp không thống nhất, các số liệu thống kê báo cáo chưa chính xác, trình độ cán bộ thống kê còn chưa cao để sai sót số liệu. Từ đó dẫn đến tình trạng đánh giá không đúng tình hình tội phạm, các biện pháp phòng chống tội trộm cắp tài sản không đạt hiệu quả cao. Bởi vậy, tuy có nhiều văn bản pháp luật được xây dựng nhưng vẫn còn bất hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu gây ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng. Từ những hạn chế này làm cho việc áp dụng pháp luật có nhiều khó khăn, vướng mắc không giải quyết được, từ đó làm yếu đi khả năng của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó có đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản. Hiện tại còn thiếu các quy định pháp luật về trách nhiệm phòng ngừa tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân trong các công tác thực hiện chức năng. Đến nay ngành Kiểm Sát vẫn chưa có một Chương trình tổng thể về phòng ngừa tội phạm và cũng vì vậy cho nên chưa xây dựng được những chuẩn mực rõ ràng xác định hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Một số nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trực tiếp áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm chưa được thực hiện đầy đủ hoặc bị hạn chế tác dụng trong thực tiễn. Vấn đề nghiên cứu lý luận và triển khai ứng dụng các biện pháp phòng ngừa trong công tác của ngành chưa được quan tâm đúng mức. Đó là những nhân tố đã và đang có sự tác động làm hạn chế kết quả công tác phòng ngừa tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân Mặt khác, chính sách pháp luật của nước ta còn thiếu tính thực tế, chưa có tính bao quát lâu dài mà thường chỉ chạy theo giải quyết gấp các vấn đề bức xúc. Vai trò, trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức, cơ quan hành chính có nhiệm vụ quản lý còn hạn chế, còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm quản lý ở các cấp, các ngành. Công tác quản lý nhà nước ở nhiều ngành, nhiều cấp còn mang nặng tính hành chính, quan liêu xa rời thực tiễn. Tình trạng trên là một trong những nguyên nhân và điều kiện thuận lợi cho tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội trộm cắp tài sản nói riêng phát triển. Việc nâng cao trách nhiệm và năng lực của các cơ quan nhà nước, các tổ chức trong việc thiết lập lại chính sách pháp luật là một yêu cầu cần thiết. 2.3.4. Nguyên nhân về phía cơ quan bảo vệ pháp luật: Trong quá trình tiến hành tố tụng, chủ thể tiến hành tố tụng thiếu trách nhiệm, chủ quan, sai lầm trong việc điều tra, truy tố, xét xử. Nguyên nhân do trình độ, năng lực nhận thức của cán bộ các cơ quan tư pháp về pháp luật, nhất là những tội phạm tương đối giống nhau như tội trộm tài sản, tội cướp tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, ... Việc thực thi pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng bị hạn chế là nguyên nhân và điều kiện cho tội trộm cắp tài sản ngày một gia tăng về số lượng cũng như về quy mô, tính chất. Công tác quản lý nhà nước vẫn còn có nhiều tồn tại để bọn tội phạm trộm cắp tài sản lợi dụng trong quá trình khi gây án, tiêu thụ và trốn tránh pháp luật. Tình trạng trên là do lĩnh vực công tác này còn thiếu kinh nghiệm, thiếu kiến thức và thiếu biện pháp quản lý. Có rất nhiều quan điểm khi đánh giá về một hành vi, nảy sinh những vướng mắc trong xử lý các vụ phạm tội giữa các cơ quan thi hành pháp luật. Việc vận dụng quy định về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ... trong BLHS khi truy tố, xét xử các vụ án còn thiếu chính xác. Đặc biệt trong quá trình xét xử việc quyết định hình phạt không tương xứng với hành vi phạm tội, không đạt mục đích giáo dục, răn đe, phòng ngừa tội phạm. Việc áp dụng Bộ luật tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự còn nhiều thiếu sót... Những thiếu sót này đã làm ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả điều tra, truy tố, xét xử và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng. Ngoài những nguyên nhân trên, tình hình tội trộm cắp tài sản gia tăng trong những năm gần đây trên địa bàn thành phố Đà Nẵng còn xuất phát từ chính những nguyên nhân, điều kiện xét dưới góc độ tâm lý xã hội. Mặc dù nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ nền sản xuất nhỏ, lạc hậu của xã hội nông nghiệp, chế độ nửa phong kiến thuộc địa và trải qua hàng chục năm người dân sống và làm việc dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, nhưng vẫn chứa đựng trong mình thói quen coi thường pháp luật. Trong một bộ phận nhân dân vẫn có tư tưởng “phép vua thua lệ làng” tạo ra ý thức tuân thủ pháp luật nói chung rất thấp. Thêm vào đó, trong những năm vừa qua, chất lượng giáo dục và đào tạo thấp so với yêu cầu, còn có nhiều hiện tượng tiêu cực đáng lo ngại; công tác quản lý báo chí, văn hoá, nghệ thuật cũng có nhiều bất cập và bị buông lỏng, làm nảy sinh những khuynh hướng không lành mạnh. Một số giá trị văn hoá và đạo đức xã hội bị suy giảm. Mê tín dị đoan, hủ tục lạc hậu phát triển... Tất cả những điều đó tạo nên những đặc điểm tâm lý tiêu cực như: - Thói quen vô tổ chức kỷ luật, không tôn trọng kỷ luật, trật tự, kỷ cương phép nước; lòng tham lam; thói vị kỷ, vụ lợi; khát vọng làm giàu bằng mọi cách kể cả vi phạm pháp luật, trái với phong tục, tập quán, đạo đức của dân tộc... Chính những đặc điểm tâm lý xã hội tiêu cực đó khi gặp những điều kiện thuận lợi như sự thiếu đề phòng, thiếu cẩn trọng của người quản lý tài sản thì người phạm tội sẽ càng nảy sinh ý thức tiêu cực, mong muốn chiếm được tài sản của người khác. Có thể thấy rất rõ điều này qua vụ trộm cắp tài sản xảy ra vào khoảng 18 giờ ngày 17/02/2010, bị cáo Lương Quang Phú đã đến bưu điện của bà Nguyễn Thị Loan ở thôn 4 xã Hoà Khương để mua card, khi không thấy người trông coi đã nảy sinh ý định trộm cắp, sau đó mang về chia cho đồng bọn là Nguyễn Hữu Thương, Nguyễn Văn Thành, Trần Quang Minh và Trần Anh Huy để đi tiêu thụ, tổng số card mà Lương Quang Phú trộm cắp được trị giá hơn 10 triệu đồng. Quá trình thẩm vấn tại phiên toà đã làm rõ hành vi phạm tội của các bị cáo, đồng thời cho thấy trước khi phạm tội các bị cáo đều là những công dân tốt, các bị cáo phạm tội khi vừa đủ tuổi thành niên nên không nhận thức được hành vi phạm tội. Bị cáo Phú nảy sinh ý định trộm cắp khi tại thời điểm đó tài sản không có người trông giữ, bản thân Bị cáo không đủ bản lĩnh để chế ngự lòng tham nên đã thực hiện hành vi trộm cắp. - Cái tôi, cái cá nhân có cơ hội phát triển mạnh trong cơ chế thị trường khi mà ý thức và trách nhiệm của công dân chưa được hình thành toàn diện dẫn đến một số công dân có lối sống vị kỷ, vụ lợi cá nhân, lo cho mình trước mà dẫm, đạp lên cả lợi ích của nhà nước, xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, thờ ơ lảng tránh trách nhiệm công dân của mình;... - Một số người trẻ tuổi lớn lên trong môi trường khá biến động, phức tạp và chịu sự tác động của nhiều giá trị xã hội mới (tích cực có, tiêu cực có), nhưng ít và chậm được định hướng dẫn đến những hành vi tiêu cực, gây hậu quả xấu cho xã hội. Một thực tế hiện nay trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là trong số các bị can ở lứa tuổi từ 14-16 tuổi phạm tội trộm cắp tài sản thì đa số là xuất thân từ gia đình có bố mẹ li dị nhau; không còn bố hoặc mẹ; bố hoặc mẹ đã bị tù hoặc đang bị giam giữ cải tạo. Tâm lý tiêu cực đó còn chi phối cả trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội, chính trị, môi trường và làm nảy sinh các tệ nạn xã hội, trong cả đội ngũ cán bộ công chức nhà nước. Chúng ta phải thừa nhận đa số cán bộ, đảng viên của Đảng là tốt, nhưng có không ít cán bộ, đảng viên mất cảnh giác, rất dễ dàng bị mua chuộc, lôi kéo dẫn đến sa ngã, gây hậu quả rất nghiêm trọng cho Đảng, Nhà nước và xã hội bằng việc thực hiện không nghiêm túc chức năng quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, tạo điều kiện cho bọn tội phạm thực hiện hành vi phạm tội. Tất cả những điều này đều thể hiện sự tác động của những đặc điểm tâm lý  tiêu cực trong một bộ phận nhân dân, kể cả đội ngũ cán bộ công chức nhà nước là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, tồn tại tội phạm trộm cắp tài sản cũng như tội phạm khác nói chung trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong những năm gần đây. 2.4. Thực trạng đấu tranh, mối quan hệ kết hợp giữa Viện Kiểm Sát nhân dân thành phố Đà Nẵng với Cơ quan cảnh sát điều tra trong các vụ án hình sự về tội trộm cắp tài sản: Trong bất kỳ một vụ án trộm cắp tài sản nào dù phạm tội đơn lẻ hay phạm tội có tổ chức, dù vụ án có một bị can hay vụ án có nhiều bị can, nếu không có sự phối hợp giữa Viện Kiểm Sát với Cơ quan cảnh sát điều tra đều không thể xử lý thành công. Viện Kiểm Sát và Cơ quan cảnh sát điều tra phối hợp trên cơ sở thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo luật định, không mang tính chất “ngang bằng, bình đẳng”, nhưng Viện Kiểm Sát cũng không phải là cơ quan chỉ đạo hoạt động điều tra như Viện công tố của một số quốc gia khác. Theo tinh thần cải cách tư pháp thì Viện Kiểm Sát ngày càng tham gia nhiều hơn vào các hoạt động điều tra và Viện Kiểm Sát là cơ quan phê chuẩn các quyết định khởi tố của CQĐT, quyết định truy tố người phạm tội trước Tòa án. Trong thời gian qua, hoạt động phối hợp trong quá trình điều tra các vụ án phạm tội trộm cắp tài sản đã có nhiều tiến bộ, hai cơ quan đã chủ động hơn trong việc phối hợp ở từng hoạt động điều tra: khởi tố vụ án, khởi tố bị can; áp dụng và hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; thu giữ, kê biên tài sản, vật chứng; thu thập vật chứng vụ án; hỏi cung bị can; lấy lời khai nhân chứng… Đối với việc xử lý tin báo tội phạm, quan hệ phối hợp giữa hai cơ quan trong giai đoạn này được thực hiện theo Điều 103 BLTTHS. Việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm chủ yếu thuộc về Cơ quan điều tra. Cơ quan điều tra có nhiệm vụ xác minh xử lý nguồn tin về tội phạm theo thẩm quyền và phải thông báo cho Viện Kiểm Sát biết việc tiếp nhận và giải quyết tin báo tố giác đó. Viện Kiểm Sát có quyền yêu cầu khởi tố hoặc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, chuyển cho cơ quan điều tra tiến hành điều tra và có trách nhiệm thống kê tình hình, kết quả giải quyết tin báo và tố giác tội phạm. Trong thực tế, Cơ quan điều tra thực hiện thông báo việc tiếp nhận, giải quyết tin báo và tố giác tội phạm trộm cắp tài sản đạt kết quả tốt. Trong những năm qua, Cơ quan cảnh sát điều tra và Viện Kiểm Sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đã tổ chức phối hợp thực hiện tốt Thông Tư liên ngành số 03 TT/LN của Viện Kiểm Sát nhân dân tối cao, Bộ nội vụ, Bộ quốc phòng, Bộ Lâm nghiệp Và Tổng cục hải quan ngày 15/5/1992 hướng dẫn thi hành các quy định của Luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác và tin báo tội phạm. Chính vì thế đã có những chuyển biến tích cực, số tin báo được hai cơ quan phối hợp giải quyết tốt tăng nhanh, việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can đều được đảm bảo đúng người, đúng tội, kịp thời, từ xác minh tin báo tội phạm đã chuyển xử lý hình sự được số lượng lớn các vụ án trộm cắp tài sản. Quần chúng đã cung cấp cho Cơ quan chức năng số lượng tin tố giác tội phạm trộm cắp lớn, các tin có dấu hiệu tội phạm cơ bản được chuyển xử lý hình sự. Viện Kiểm Sát đều đã có sổ theo dõi tin báo tội phạm trộm cắp tài sản bởi đây chính là tội phạm chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số vụ phạm pháp hình sự nói chung trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Kiểm sát viên thường có sự phối hợp chặt chẽ với Điều tra viên ngay từ khi có thông tin về tội phạm, cùng Điều tra viên xem xét, đánh giá chứng cứ, có kế hoạch xác minh để củng cố lời khai, đề xuất ý kiến giải quyết hợp lý. Đối với giai đoạn điều tra vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện Kiểm Sát đã chủ động phối hợp ngay từ khi có dấu hiệu phạm tội nên ngày càng phát hiện, khám phá được nhiều vụ trộm cắp tài sản, trong đó có nhiều vụ có đông bị can, hành vi phạm tội xảy ra trên nhiều địa bàn khác nhau, hậu quả của hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Điển hình như vụ trộm cắp tài sản xảy ra vào khoảng 1h30' ngày 24/11/2009, tại khu vực tổ 38 (phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ), lực lượng tuần tra phường Khuê Trung (Cẩm Lệ) phát hiện và bắt được một nhóm đối tượng khoảng 4 tên: Trần Việt Hùng (39 tuổi), trú quận Bình Thạnh; Hoàng Lê Hữu Tâm (17 tuổi), trú quận 9, TP HCM; Nguyễn Văn Huân (23 tuổi), trú huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang và Võ Văn Hiệp (41 tuổi), trú huyện Duy Lợi, tỉnh Bạc Liêu đang hì hục bốc sắt tại kho vật liệu của Công ty TNHH Lê Hiền lên một chiếc xe tải. Với sự phối hợp điều tra, lấy lời khai của Cơ quan điều tra và Viện Kiểm Sát, bọn chúng khai nhận từ đầu tháng 6/2009, sau khi thuê được xe ôtô tải tại TP HCM, chúng đã chở nhau đi khắp nơi để trộm cắp. Cho đến nay cả bọn đã thực hiện trót lọt 13 vụ trộm tương tự từ các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam với tài sản chiếm được lên đến hàng trăm triệu đồng... Đối với việc khám nghiệm hiện trường: Trong tất cả các vụ án hình sự nói chung, vụ án trộm cắp tài sản nói riêng, khám nghiệm hiện trường có vị trí rất quan trọng. Việc khám nghiệm hiện trường phải được tiến hành thận trọng, kỹ lưỡng, nếu không thực hiện đến nơi đến chốn sẽ dẫn đến nhận định sai lệch hướng điều tra, có thể dẫn đến bế tắc trong điều tra hoặc quyết định sai lầm dẫn đến xử oan hoặc bỏ lọt tội phạm. Một số vụ án do thiếu sót trong khám nghiệm hiện trường, Cơ quan Cảnh sát điều tra bỏ sót, không thu thập đầy đủ các dấu vết, vật chứng cần thiết, Viện Kiểm Sát không phát hiện kịp thời dẫn tới hạn chế tác dụng phục vụ công tác điều tra tội phạm. Nguyên nhân của thiếu sót này là do Cơ quan điều tra còn coi nhẹ công tác khám nghiệm hiện trường, Cơ quan cảnh sát điều tra xem vai trò của Kiểm Sát Viên chỉ là người chứng kiến nên chỉ báo cho Kiểm Sát Viên khi cần thiết. Một số Điều tra viên còn thiếu kiến thức về truy tìm dấu vết, phát hiện và bảo quản dấu vết…Không đảm bảo đúng quy trình, ảnh hưởng đến kết quả khám nghiệm. Đối với việc lập hồ sơ vụ án: Viện Kiểm Sát và Cơ quan cảnh sát điều tra có sự phối hợp chặt chẽ, nhất là sau khi có Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKS-BCA-BQP ngày 7/5/2005 của liên ngành Viện Kiểm Sát nhân dân tối cao, Bộ Công An, Bộ Quốc Phòng về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện Kiểm Sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Công văn số 71/CSĐT ngày 26/2/2007 của Cơ quan Cảnh sát điều tra- Bộ Công an. Tuy nhiên, vẫn còn một số trường hợp Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa chấp hành đúng các quy định, thường là đối với các trường hợp đưa sang phê chuẩn gấp, Điều tra viên không thống kê và đánh bút lục. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do một số Điều tra viên chưa có ý thức trách nhiệm trong việc lập hồ sơ vụ án. Thực hiện nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án trộm cắp tài sản, gần như tất cả các vụ án Kiểm Sát viên đều có yêu cầu điều tra, đặc biệt trong các vụ án lớn Viện Kiểm Sát đã ban hành nhiều yêu cầu điều tra, góp phần tích cực cho hoạt động điều tra vụ án. Phối hợp với Viện Kiểm Sát, cơ quan cảnh sát điều tra đã thực hiện nghiêm túc các yêu cầu điều tra và cùng trao đổi với Kiểm Sát viên bàn cách giải quyết khi phát sinh vấn đề mới. Tóm lại, sự phối hợp giữa Viện Kiểm Sát nhân dân thành phố Đà Nẵng với Cơ quan cảnh sát điều tra được thể hiện trong mọi vụ án trộm cắp tài sản, ở tất cả các khâu từ giải quyết tin báo tội phạm, khởi tố vụ án, khởi tố bị can…đến truy tố tội phạm. Quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, sự phối hợp giữa Viện Kiểm Sát với Cơ quan cảnh sát điều tra ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự, cơ quan cảnh sát điều tra đã từng bước nâng cao chất lượng điều tra các vụ trộm cắp tài sản. Quá trình thực hiện quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án trộm cắp tài sản, Viện Kiểm Sát không ngừng nâng cao chất lượng công việc của mình, chú trọng đến phát hiện những sai sót, vi phạm của Cơ quan điều tra để đề ra các yêu cầu điều tra, tập hợp, kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra khắc phục, rút kinh nghiệm. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, Cơ quan điều tra và Viện Kiểm Sát vừa ước chế lẫn nhau, vừa có trách nhiệm phối hợp với nhau để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động tố tụng hình sự. Trong những năm gần đây trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu như trộm cắp tài sản, cướp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản,…diễn ra hết sức phức tạp, trong đó tội trộm cắp tài sản là tội phạm xảy ra chủ yếu nhất, gây mất trật tự an toàn xã hội, tạo cảm giác bất an, lo lắng cho người dân. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Cơ quan cảnh sát điều tra thành phố Đà Nẵng đã có sự nỗ lực trong phát hiện, điều tra các vụ án về tội trộm cắp tài sản và đã thu được những kết quả khả quan. Thực tế cho thấy kết quả công tác điều tra của Cơ quan điều tra đạt được, có vai trò thực sự quan trọng của Viện Kiểm Sát. Ngoài những hoạt động theo chức năng của mỗi cơ quan, giữa Cơ quan điều tra với Viện Kiểm Sát trong nhiều năm qua, đã có sự quan hệ phối hợp chặt chẽ, tạo nên sự đồng bộ nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng. Tuy nhiên do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện Kiểm Sát vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế nhất định như: Thứ nhất, có lúc, có nơi Viện Kiểm Sát và Cơ quan cảnh sát điều tra chưa chủ động trong quan hệ phối hợp giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản, biểu hiện cụ thể là ở giai đoạn điều tra, Điều tra viên không chủ động trao đổi với Kiểm Sát viên những nội dung trong từng hoạt động điều tra, những vấn đề mới phát sinh, tiến độ điều tra vụ án, ngược lại Kiểm Sát viên cũng không quan tâm, phó mặc cho Điều tra viên nên không nắm được diễn biến cũng như nội dung vụ án. Đến khi hồ sơ kết thức điều tra, Kiểm Sát viên mới tiếp cận hồ sơ, như vậy với những vụ án lớn, phức tạp, Kiểm Sát viên bị lúng túng, đề xuất xử lý vụ án không chuẩn xác. Thứ hai, cơ sở pháp lý của quan hệ phối hợp giải quyết án hình sự nói chung, án trộm cắp tài sản nói riêng không có giới hạn và cũng không cụ thể mỗi cơ quan phối hợp đến đâu là đủ, đến đâu sẽ lấn sân nhau nên dẫn đến ỷ lại, trông chờ vào nhau. Có vụ án thì phối hợp chồng chéo, có vụ án thì để trống không cơ quan nào làm. Thứ ba, việc xử lý mối quan hệ phối hợp có khi chưa đúng mức, dẫn đến vi phạm tính độc lập của mỗi cơ quan trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Thực tế trên có nguyên nhân khách quan là tội phạm trộm cắp tài sản đang là vấn đề của cả nước, cũng như của toàn thành phố Đà Nẵng, tội phạm này ngày càng diễn biến phức tạp, công việc giải quyết án Điều tra viên, Kiểm sát viên phải đảm nhiệm ngày càng lớn trong khi biên chế, chế độ đãi ngộ, kinh phí phục vụ nghiệp vụ chưa đáp ứng đủ yêu cầu. Bên cạnh đó còn bởi nguyên nhân chủ quan là nhận thức của không ít Điều tra viên, Kiểm sát viên chưa đầy đủ về vị trí, vai trò của Cơ quan Điều tra và Viện Kiểm sát trong giai đoạn điều tra, truy tố, dẫn đến va chạm, xuôi chiều; một số Điều tra viên, Kiểm sát viên chưa có tinh thần trách nhiệm cao. CHƯƠNG 3 CÁC BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG. 3.1. Các biện pháp chung: 3.1.1. Biện pháp về kinh tế-xã hội: Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, đời sống xã hội ngày càng được nâng cao, Đà Nẵng cũng không ngoại lệ, với tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 2008-2012 là 11-12%, mức sống của người dân tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, cùng với nó là sự phát triển và phân tầng xã hội diễn ra nhanh chóng, khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng, tội phạm gia tăng, tệ nạn xã hội cũng từ đó mà phát triển. Do đó, để giải quyết được vấn đề tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng, Đà Nẵng cần phải có các chính sách để phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội . Cụ thể: Đối với vấn đề kinh tế, cần phải: Giải quyết tình trạng thất nghiệp, thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, hạn chế sự gia tăng dân số, sự di dân từ ngoại thành…đảm bảo mức sống tối thiểu, rút ngắn khoảng cách giữa giàu nghèo. Thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài, tập trung tạo điều kiện cho các tổ chức, tập đoàn kinh tế đầu tư phát triển kinh tế ngày càng nhiều trên địa bàn thành phố. Phát triển hệ thống quản lý tài chính, hạn chế thanh toán bằng tiền mặt mà tập trung nâng cao hình thức thanh toán bằng thẻ tín dụng, hạn chế giữ tiền mặt, kiểm soát chặt chẽ thu nhập các nhân,…những điều đó sẽ giúp làm giảm cơ hội trộm cắp của bọn tội phạm. Đối với vấn đề xã hội: Thành phố Đà Nẵng cần phải tập trung vào việc giáo dục, bồi dưỡng các thế hệ trẻ, đặc biệt là các em học sinh đang ở lứa tuổi mới lớn, dễ bị dụ dỗ vào các con đường xấu. Có chính sách tạo công ăn việc làm đối với những người mới trở về từ con đường lạc lối, giúp họ sớm hòa nhập với cộng đồng. Có sự quan tâm đặc biệt đối với những người có hoàn cảnh nghèo khó, người có tiền án, tiền sự, chú trọng thực hiện các chính sách xã hội như: chính sách gia đình thương binh, liệt sĩ,…tạo niềm tin ở nhân dân, tuyên truyền phong trào toàn dân cùng quyết tâm phòng chống tội phạm. Trên địa bàn thành phố Đà Nẵng hiện nay đang quản lý 1.386 hồ sơ người nghiện ma túy, và 451 hồ sơ người hoạt động mại dâm. Tệ nạn cờ bạc, nghiện rượu cũng ngày một gia tăng. Do đó, thành phố cần phải ra sức bài trừ các tệ nạn ma túy, mại dâm, cờ bạc,…phát huy sức mạnh toàn dân trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng. 3.1.2. Biện pháp về giáo dục, tuyên truyền, phổ biến các chính sách pháp luật: Mặt trái của cơ chế thị trường không những tác động ảnh hưởng tiêu cực đối với kinh tế xã hội mà còn trên lĩnh vực văn hoá, đã gây nên mối quan tâm, lo lắng cho gia đình, nhà trường và xã hội mà nguyên nhân sâu xa là do sự kém hiểu biết về pháp luật. Do đó, muốn tội phạm có xu hướng giảm thì cần phải tăng cường hiệu lực của hệ thống pháp luật. Cùng với việc Đảng và Nhà Nước ra sức hoàn thiện các văn bản pháp luật cho phù hợp với sự thay đổi từng ngày của đất nước, phù hợp với xu thế toàn cầu hóa quốc tế, thì Chính quyền địa phương trên cả nước nói chung và trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng cần phải thường xuyên phổ biến, thông tin công khai về các chính sách pháp luật hình sự để không chỉ cán bộ tư pháp biết mà cả từng người dân trên toàn thành phố đều nắm bắt được. Tiếp tục đưa các bộ môn về pháp luật hình sự vào trong chương trình giảng dạy ngay từ bậc tiểu học, để các em sớm hình thành nhận biết về luật pháp. Có như vậy mới có thể vừa hoàn thiện hệ thống pháp luật, vừa phục vụ công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, xây dựng xã hội văn minh, dân chủ. Đi đôi với phát triển kinh tế, chúng ta không thể bỏ qua nhiệm vụ phát triển giáo dục, bởi lẽ giáo dục chính là nền tảng để xã hội phát triển. Do đó, ngành giáo dục cần nghiên cứu chương trình giáo dục cho phù hợp. Tạo điều kiện vật chất, tinh thần cho các giáo viên, học sinh tiếp cận với pháp luật, đảm bảo giáo viên có đủ năng lực về trí tuệ cũng như phẩm chất đạo đức, có trách nhiệm trong giảng dạy, tận tụy với nghề; có mối liên hệ chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình để quản lý các học sinh, góp phần ngăn chặn tội phạm ở lứa tuổi học đường. 3.1.3. Biện pháp tăng cường hiệu lực quản lý Nhà Nước về an ninh trật tự xã hội: Để làm tốt công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng, chính quyền thành phố Đà Nẵng phải không ngừng củng cố, nâng cao hiệu quả quản lý đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Với điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; cùng với sự thuận lợi về vị trí địa lý, Đà Nẵng luôn là điểm đến của đa số người dân từ các tỉnh thành khác đến để cư trú, làm ăn sinh sống. Sự di dân này luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các loại tội phạm. Do đó, thành phố cần phải quản lý chặt chẽ công tác đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú. Không những tuyên truyền cho người dân biết nghĩa vụ khai báo tạm trú, tạm vắng mà còn phải có những biện pháp nghiêm khắc đối với những cá nhân, tổ chức không chấp hành. Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về con người, trước mắt ngành Công an cần phải thực hiện tốt công tác cấp phát, quản lý giấy chứng minh thư nhân dân, cần phải làm cho mọi người dân thấy rõ và có ý thức nghĩa vụ phải làm chứng minh thư nhân dân, sử dụng đúng mục đích. Tăng cường hiệu lực quản lý các ngành nghề dịch vụ để chủ động phòng ngừa những thiếu sót, sơ hở trong việc cung cấp dịch vụ mà bọn tội phạm có thể lợi dụng. Mặt khác công tác quản lý phải không gây cản trở cho việc phát triển kinh tế, không gây phiền hà cho nhân dân. Trước hết tăng cường quản lý một số ngành và dịch vụ như: cầm đồ, bán đồ với giá rẻ mà không có giấy tờ chứng minh ( ví dụ bán xe máy trộm). Đồng thời tuyên truyền giáo dục để người hành nghề chấp hành đúng quy định pháp luật loại trừ khả năng tiêu thụ tài sản bất hợp pháp và các vi phạm pháp luật khác của những người hành nghề này. 3.2. Các biện pháp cụ thể: Tiếp tục đổi mới và thực hiện nghiêm chỉnh cơ chế phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, nâng cao trách nhiệm, phát huy chức năng của các cơ quan Nhà Nước, các đơn vị sự nghiệp, các lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội. Phải gắn việc thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội với Chương trình hành động phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự. Tập trung xây dựng lực lượng Công an nhân dân và các cơ quan bảo vệ pháp luật khác thật sự trong sạch vững mạnh để thực hiện tốt vai trò nòng cốt, xung kích trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phát hiện, điều tra, xử lý nghiêm đối với các loại tội phạm, đặc biệt là tội trộm cắp tài sản. Rà soát và hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do UBND thành phố ban hành liên quan đến lĩnh vực phòng chống tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục ý thức chấp hành pháp luật một cách sâu rộng trong toàn xã hội, xây dựng môi trường sống lành mạnh để phục vụ kịp thời, có hiệu quả cho cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trước mắt và lâu dài. Phát động phong trào toàn dân tham gia phòng, ngừa, phát hiện, tố giác và đấu tranh chống các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; thực hiện phối hợp phòng ngừa tội phạm từ gia đình, trong nhà trường và ngoài xã hội. Củng cố vai trò và hoạt động của các tổ dân phố, phường, cơ quan, xí nghiệp tham gia tích cực phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý, giáo dục và cảm hóa những người phạm tội tại cộng đồng dân cư bằng nhiều hình thức, không ngừng giúp họ cải tạo tiến bộ, hoàn lương, tái hòa nhập với gia đình, cộng đồng xã hội. Chấn chỉnh công tác giam giữ, thi hành án và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục cải tạo phạm nhân. Chủ động tiến hành các biện pháp để phòng ngừa, ngăn chặn, trấn áp kịp thời đối với tội trộm cắp tài sản. Tập trung phòng chống tội phạm này phải đi đôi với các loại tội phạm nguy hiểm khác như: tội buôn lậu, tham nhũng, giết người, cướp tài sản, các tệ nạn xã hội như: ma túy, mại dâm, cờ bạc…Tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà Nước trên các lĩnh vực trật tự đô thị, quản lý các hoạt động văn hóa,…tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về trật tự xã hội. Xây dựng và triển khai thực hiện 4 đề án chủ yếu của chương trình phòng chống tội phạm bao gồm: Phát động toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện tố giác tội phạm, cảm hóa giáo dục, cải tạo người phạm tội tại gia đình và dân cư. Rà soát bổ sung và xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật của Thành phố về phòng chống tội phạm, tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật và trách nhiệm công dân về bảo vệ an ninh trật tự. Đấu tranh phòng chống các loại tội phạm có tổ chức, tội phạm nguy hiểm . Đấu tranh phòng chống các tội phạm trong lứa tuổi vị thành niên. Các cấp, các ngành cần phải phân công trách nhiệm trong công tác phòng chống loại tội phạm này. Trong đó: a. Công an thành phố là cơ quan đầu mối chủ trì, trực tiếp phối hợp với các Sở, Ban, Ngành liên quan trong công tác phòng chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà Nước về an ninh trật tự; củng cố các lực lượng nghiệp vụ trực tiếp phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, nhất là các lực lượng ở cơ sở, các ban bảo vệ dân phố, dân phòng, bảo vệ chuyên trách, bán chuyên trách ở các cơ quan, xí nghiệp; đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, tấn công trấn áp tội phạm; kịp thời phát hiện, phòng ngừa và đấu tranh ngăn chặn loại tội phạm này. Phối hợp với các ngành Kiểm Sát, Tòa án tiến hành điều tra, truy tố, xét xử kịp thời các đối tượng phạm tội; nghiên cứu, dự báo tình hình, diễn biến đối với tội trộm cắp tài sản, đề ra các chủ trương, chính sách, biện pháp đấu tranh phù hợp. b. Bộ chỉ huy quân sự thành phố có kế hoạch phòng ngừa, ngăn chặn trộm cắp tài sản trong quân nhân; phối hợp với Công an thành phố và các cơ quan bảo vệ pháp luật khác đấu tranh phòng, chống tội phạm này ở các khu vực giáp ranh, trên biển; phối hợp với các cơ quan chủ lực của Bộ quốc phòng, Quân khu V và công an địa phương trong phòng, chống tội trộm cắp tài sản trong và ngoài quân đội. c. Thanh tra thành phố có trách nhiệm tổ chức tốt công tác thanh tra, kiểm tra, phòng ngừa và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật; phối hợp với cơ quan bảo vệ pháp luật tổ chức thanh tra, kiểm tra hoạt động tuân theo pháp luật của các Sở, Ban ,Ngành và địa phương, góp phần phòng ngừa, đấu tranh chống các loại tội phạm. d. Sở du lịch thành phố có nhiệm vụ phòng ngừa, ngăn chặn các tội phạm, các tệ nạn xã hội tại các nhà hàng, khách sạn, khu du lịch thuộc cơ quan quản lý; phối hợp với các ngành quản lý chặt chẽ những người không rõ lai lịch, góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội. e. Sở văn hóa thông tin có nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng và ngành liên quan đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật, trách nhiệm của công dân trong phòng chống tội phạm. Thông qua các loại hình văn hóa nghệ thuật để tuyên truyền những gương người tốt, việc tốt trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, phê phán những hiện tượng tiêu cực, giúp cơ quan chức năng phát hiện kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật; thường xuyên kiểm tra và khắc phục những hiện tượng không lành mạnh trong các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, báo chí, phát hiện các đề xuất xử lý nghiêm các hành vi vi phạm Luật Báo chí, luật xuất bản. f. Sở Giáo dục đào tạo và Đại học Đà Nẵng có nhiệm vụ thường xuyên quản lý giáo dục cán bộ, học sinh, sinh viên trong các trường học, có kế hoạch đưa nội dung giáo dục pháp luật và các quy định bảo vệ an ninh trật tự vào chương trình giáo dục ở các cấp học; phối hợp với Công an thành phố tổ chức các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh chống các hành vi trộm cắp tài sản trong khu vực nhà trường. g. Sở Lao động-thương binh và xã hội có nhiệm vụ chỉ đạo việc dạy nghề cho các đối tượng ở các trại giam, đảm bảo khi ra trại họ có trong tay nghề nghiệp để không coi việc trộm cắp tài sản như nguồn thu nhập chính. Phối hợp với Hội đồng thi đua khen thưởng nghiên cứu đề xuất với UBND thành phố có chính sách khen thưởng, đãi ngộ vật chất, tinh thần đối với các đơn vị, cán bộ chiến sĩ và công dân có thành tích xuất sắc trong đấu tranh phòng chống tội phạm. h. Sở tư pháp thành phố chủ trì việc nghiên cứu, rà soát, kiến nghị bổ sung,sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật về tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng. Phối hợp với các ngành liên quan tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật, mở chuyên mục giáo dục pháp luật thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng i. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng: Viện kiểm sát nhân dân là một trong các cơ quan bảo vệ pháp luật của Nhà nước, có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Viện kiểm sát nhân dân có vị trí và vai trò rất quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Để phòng ngừa tội phạm có hiệu quả, đòi hỏi Viện kiểm sát phải thực hiện một cách chính xác và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình trong tố tụng hình sự. Vì vậy, nếu xem xét dưới góc độ vai trò, trách nhiệm pháp lý thì hoạt động phòng ngừa tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân về cơ bản phải được thực hiện theo hai hướng chủ yếu: Một là, thông qua các công tác để thực hiện chức năng; hai là phối hợp thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa với các chủ thể khác. Ở hướng hoạt động phòng ngừa tội phạm thông qua các công tác để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân trực tiếp áp dụng các biện pháp pháp lý có tác dụng quan trọng góp phần tích cực vào việc ngăn chặn tội phạm, hạn chế hậu quả thiệt hại do tội phạm gây ra, kiềm chế, đẩy lùi và từng bước làm giảm tội phạm, khắc phục những nguyên nhân và điều kiện của từng loại tội phạm cũng như tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trong xã hội. Cùng với các biện pháp tác động trực tiếp nhằm đảm bảo cho quá trình khởi tố, điều tra phát hiện và xử lý tội phạm được nhanh chóng, chính xác, kịp thời theo quyền năng và nghĩa vụ tố tụng, Viện kiểm sát nhân dân còn gián tiếp tác động để áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm thông qua việc thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của mình. Thực tế hiện nay có tình hình là một số người bị án phạt tù giam vẫn tiếp tục trốn tránh thi hành án, những người bị án phạt tù nhưng cho hưởng án treo và những người bị án cải tạo không giam giữ hiện cũng chưa có một cơ chế quản lý chặt chẽ, ở các trại giam một số người bị bắt tạm giam tiếp tục bỏ trốn. Điều đó có nghĩa là các bản án do Toà án tuyên có hiệu lực pháp luật nhưng không được chấp hành, tác dụng của việc thực thi quyền lực tư pháp trong suốt quá trình tố tụng từ khi khởi tố điều tra đến lúc truy tố, xét xử bị vô hiệu, kẻ phạm tội vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật và khinh nhờn luật pháp. Thực tế đó cho thấy sự tiềm ẩn nguy cơ tái phạm tội trong số những đối tượng này ngày càng cao. Hơn ai hết, các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân cần phải nhanh chóng áp dụng các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa. Nếu không luật hoá trách nhiệm đó của cơ quan Viện kiểm sát là vô hình chung đã làm hạn chế một phần quan trọng sức mạnh của Nhà nước đối với công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm của chúng ta. Đã đến lúc Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải xây dựng một Chương trình tổng thể về phòng ngừa tội phạm cho toàn ngành Kiểm sát trong đó xác định một hệ thống các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác phòng ngừa tội phạm. Mặc dù luật pháp còn thiếu những quy định có tính đồng bộ về trách nhiệm phòng ngừa tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân như đã nói ở phần trên. Song với các quy định hiện hành, Nhà nước cũng đã trao cho Viện kiểm sát một số quyền hạn rất căn bản như: Tự mình khởi tố vụ án, khởi tố bị can và chuyển đến cơ quan điều tra để yêu cầu tiến hành điều tra; yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố; huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra; kiến nghị các cơ quan, tổ chức và đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Những quyền hạn này nếu được thực thi đầy đủ và chính xác sẽ có tác dụng phòng ngừa rất lớn, trước hết là bảo đảm để mọi tội phạm đều phải được điều tra phát hiện và xử lý kịp thời, không bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên trên thực tế bấy lâu nay khâu này làm chưa mạnh, nhất là việc kiến nghị phòng ngừa thường qua loa, chiếu lệ, không cụ thể, do đó vai trò của Viện kiểm sát ở đây bị mờ nhạt. Nói chung ở các cấp Kiểm sát đều ít thực hiện quyền khởi tố, ít đưa ra các kiến nghị và thậm chí vẫn còn có nơi để lọt tội phạm. Để khắc phục tình hình này, đề nghị đưa vào chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác của Viện kiểm sát các cấp cả về số lượng và chất lượng thực hiện các quyền khởi tố, kiến nghị, yêu cầu... Đồng thời xác định rõ trách nhiệm phải tiếp tục theo dõi kết quả thực hiện kiến nghị của các cơ quan, tổ chức hữu quan. Trong các biểu thống kê công tác Kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân cần có các tiêu chí về số lượng thực hiện các quyền này và trong các báo cáo kết quả công tác bắt buộc phải phân tích, đánh giá về hiệu quả thực hiện các biện pháp phòng ngừa tội phạm trong từng thời gian, ở từng địa bàn nhất định. Vấn đề nghiên cứu lý luận và triển khai ứng dụng các biện pháp phòng ngừa bấy lâu nay ít được chú trọng. Ai cũng biết rằng chúng ta không thể đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả nếu không tìm ra được các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm để có biện pháp tác động phù hợp. Do đó công tác nghiên cứu lý luận thường phải đi trước một bước để cung cấp những luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định các chủ trương, định hướng mục tiêu nhiệm vụ và đề ra các giải pháp thực hiện. j.Tòa án nhân dân Trong thời gian qua công tác xét xử của Tòa án còn nhiều hạn chế. Tòa án ít chú ý đến yêu cầu phòng, chống tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng. Do đó, thời gian tới Tòa án cần chú ý hơn đến vấn đề này. Thông qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự, các vụ án trộm cắp tài sản, Tòa án các cấp kịp thời phát hiện sớm những sơ hở mất cảnh giác của nhân dân và sơ hở trong công tác quản lý nhà nước, cũng như phương thức thủ đoạn mới của tội phạm. Từ đó phối hợp với các cơ quan chức năng trong phòng ngừa tội phạm. Thông qua việc xét xử các vụ án nhất là các vụ án được xét xử lưu động, Tòa án tuyên truyền ý thức cảnh giác, nâng cao hiểu biết pháp luật trong nhân dân. Do vậy, thời gian tới, Tòa án cần đưa cả các vụ án trộm cắp tài sản đi xét xử lưu động chứ không chỉ có án mại dâm, ma túy như hiện nay. Việc tăng cường hoạt động xét xử lưu động các vụ án hình sự ở các địa bàn dân cư sẽ thu hút sự quan tâm của nhân dân, trên cơ sở đó làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục pháp luật rộng rãi trong nhân dân. Trong quá trình xét xử các vụ án, Tòa án nhân dân các cấp cần phải đảm bảo sự công minh của pháp luật. Việc áp dụng cụ thể mức hình phạt phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, với nhân thân, động cơ, mục đích phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo. Tòa án cần tăng cường hoạt động xét xử, đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh chống tội phạm, tránh tình trạng để án tồn đọng giải quyết kéo dài. Tổ chức xét xử kịp thời những vụ án điểm phục vụ công tác chính trị địa phương. Tòa án cần phối hợp chặt chẽ với Công an, Viện kiểm sát làm tốt công tác thi hành án phạt tù. Đảm bảo mọi bản án có hiệu lực đều được thi hành kịp thời, hạn chế thấp nhất số bị cáo còn ngoài xã hội. Quá trình xem xét cho tạm hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án và xét giảm án tha tù phải chặt chẽ, chính xác, không để tình trạng tiêu cực xảy ra. Qua đó, phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà nước mới có giá trị thực tế, góp phần răn đe, phòng chống tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng. KẾT LUẬN Với nội dung mà chuyên đề đã phân tích ở trên, chúng ta có thể đi đến một số kết luận như sau: Tình hình trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2008-2012 diễn ra rất phức tạp, có năm tăng, có năm giảm, nhưng nhìn chung là đều có xu hướng gia tăng so với năm 2006. Đây là loại tội phạm chiếm tỷ lệ khá cao so với các tội phạm hình sự nói chung trên địa bàn thành phố, tính chất và mức độ ngày càng lớn, gây tâm lý hoang mang lo lắng trong nhân dân, ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị của thành phố. Sự gia tăng về số lượng, tính chất cũng như mức độ nguy hiểm của tội trộm cắp tài sản chủ yếu là do nguyên nhân về kinh tế-xã hội; văn hóa, giáo dục. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường kéo theo sự phân hóa giàu nghèo, sự xuống cấp về đạo đức, văn hóa giáo dục. Đối với sự chuyển biến về nền kinh tế, các cơ quan quản lý nhà nước cần phải kịp thời đưa ra các chính sách quản lý, chính sách pháp luật sao cho phù hợp nhất với sự phát triển đó. Tuy nhiên, sự lỏng lẻo trong công tác quản lý đã tạo nên một lỗ hổng để bọn phạm tội lợi dụng phạm tội. Hệ thống pháp luật thiếu ổn định, chưa đồng bộ; đồng thời sự thiếu trách nhiệm, chủ quan, sai lầm của các cán bộ cơ quan tư pháp về pháp luật trong việc điều tra, truy tố, xét xử đã dẫn đến kết quả đấu tranh phòng chống tội phạm chưa cao. Cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong những năm 2008-2012 đã đạt được kết quả nhất định, trong đó có sự đóng góp tích cực của Cơ quan cảnh sát điều tra và Viện Kiểm Sát nhân dân thành phố Đà Nẵng thông qua thực hiện đúng đắn mối quan hệ giữa hai cơ quan trong giải quyết các vụ án trộm cắp. Tuy nhiên vẫn còn một số nguyên nhân làm hạn chế quan hệ phối hợp giữa Viện Kiểm Sát nhân dân với Cơ quan cảnh sát điều tra như: đánh giá chứng cứ trong một số trường hợp chưa khách quan, toàn diện; vẫn còn một số Điều tra viên, Kiểm Sát viên nhận thức chưa đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ, vai trò của mình trong giai đoạn điều tra, truy tố. Để khắc phục những nguyên nhân làm hạn chế kết quả của công cuộc đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, chúng ta cần thực hiện tốt các biện pháp như: phát triển kinh tế gắn với các chính sách xã hội; nâng cao chất lượng giáo dục trong trường học cả về trình độ văn hóa, pháp luật; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về an ninh trật tự; Các cấp các ngành như Công an, Sở văn hóa thông tin, Sở giáo dục, Tòa án, Viện Kiểm Sát,…cần phải nắm rõ chức năng, nhiệm vụ, vai trò của mình trong công tác phòng chống loại tội phạm này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sắc lệnh số 12/SL ngày 12/03/1949. 2. Sắc lệnh số 267/SL ngày 15/06/1956. 3. Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân năm 1970. 4. Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN. 5. Bộ luật hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1985,1999 6. Đinh Văn Quế ( 2002) ,Tạp chí Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, phần các tội pham ( tập 2 ), TP HCM. 7. TSKH Lê Cảm, Giáo trình Luật hình sự, phần chung, ĐHQGHN, tr. 155-156. 8. Giáo trình Luật hình sự, Đại học Luật Hà Nội. 9. Nguyễn Văn Đạm,Từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng, NXB Văn hoá thông tin, 2004. 10. Các số liệu thống kê về tội trộm cắp tài sản của Phòng Thống Kê – Viện Kiểm Sát nhân dân thành phố Đà Nẵng. 11. Các bản án xét xử sơ thẩm của VKSND TP Đà Nẵng về tội trộm cắp tài sản. 12. Khóa luận tốt nghiệp: “Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 – những vấn đề lý luận và thực tiễn” 13. Các trang web: luathinhsu.wordpress.com; vi.wikipedia.org; tapchikiemsat.org.vn .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docdang_tam_5961.doc
Luận văn liên quan