Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

MỤC LỤC Lời mở đầu. 1 Nội dung. 2 I. Những vấn đề về cổ phần hoá (CPH) Doanh nghiệp nhà nước (DNNN).2 1. Thực chất và vai trò CPH DNNN ở Việt Nam.2 1.1. Thực chất:2 1.2. Lý do cổ phần hoá:2 1.3. Vai trò của cổ phần hoá:4 2. Các mô hình CPH ở Việt Nam.5 II. Thực trạng tiến trình CPH DNNN ở Việt Nam.6 1. Thành tựu đạt được:6 1.3. Những kết quả đạt được khác:8 2. Bên cạnh những thành tựu đạt được chúng ta vẫn còn những hạn chế đó là:9 3. Kế hoạch CPH trong thời gian tới:14 III. Giải pháp đẩy nhanh CPH DNNN ở Việt Nam14 2. Về phía doanh nghiệp:18 3. Về phía người lao động:20 Kết luận và kiến nghị22 Danh mục tài liệu tham khảo. 23

doc24 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3774 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: "Việt Nam đã chuyển đổi thành công từ một nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường. Ngày nay, Việt Nam đã là một nền kinh tế thị trường, là thành viên của WTO và là thành viên năng động, tích cực của cộng đồng quốc tế". Chúng ta có được kết quả như ngày hôm nay là một sự nỗ lực với các biện pháp và chính sách của đảng và nhà nước trong việc tiến hành đổi mới các DNNN. Chúng ta đã tiến hành nhiều biện pháp đổi mới như chuyển đổi mô hình doanh nghiệp thành công ty mẹ công ty con, tập đoàn kinh doanh, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Nhưng ở đây tôi chỉ nghiên cứu về vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Trong đó cổ phần hoá là việc chuyển đổi những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu qua đó huy động của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nướcđể nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong kinh tế thị trường. Lộ trình hội nhập đang tạo áp lực mạnh mẽ đối với việc cổ phần hoá nói riêng và chuyển đổi DNNN nói chung, do vậy chúng ta cần phải chuyển đổi một cách mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Đây là yêu cầu bắt buộc theo luật chơi của WTO Trong quá trình nghiên cứu, do còn nhiều hạn chế về nhiều mặt nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự thông cảm của các thầy, cô giáo. Xin chân thành cảm ơn đã trực tiếp hướng dẫn giúp tôi hoàn thành đề tài này. Nội dung I. Những vấn đề về cổ phần hoá (CPH) Doanh nghiệp nhà nước (DNNN). 1. Thực chất và vai trò CPH DNNN ở Việt Nam. 1.1. Thực chất: Đổi mới doanh nghiệp nhà nước là vấn đề mang tính phổ biến của nhiều nước trên thế giới đặc biệt là các nước dang phát triển. Việc đổi mới doanh nghiệp nhà nước được thực hiện bằng nhiều giải pháp, trong đó cổ phần hoá DNNN là một giải pháp quan trọng. Ở nước ta, CPH DNNN đang là một chủ trương lớn của đảng và nhà nước. Thực chất của CPH chính là việc chuyển đổi những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu qua đó huy động của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong kinh tế thị trường. CPH giúp đảm bảo hài hoà lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp, các nhà đầu tư và của những người lao động trong doanh nghiệp. Chúng ta tiến hành CPH là do: 1.2. Lý do cổ phần hoá: Hiệu quả hoạt động, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước giảm: Trong những năm 80, đối với các nước có nền kinh tế phát triển cũng như đang phát triển, thì vai trò của doanh nghiệp nhà nước đã được khẳng định và giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nhìn về tổng thể thì có những doanh nghiệp nhà nước hoạt động tốt, hiệu quả kinh tế cao, nhưng có không ít các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Nhà nước phải dùng chính sách kinh tế vĩ mô để bảo hộ, như: Miễn giảm thuế, cấp vốn ưu đãi đầu tư, bù lỗ... Theo Thông báo Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã nhận định: Doanh nghiệp nhà nước còn những mặt hạn chế, yếu kém, hiệu quả kinh doanh nhìn chung còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực đã có và sự trợ giúp của Nhà nước; công nợ còn nhiều, chậm đổi mới công nghệ, lao động còn dôi dư lớn, chưa thực sự tự chủ trong kinh doanh, trình độ quản lý còn yếu kém, cơ cấu doanh nghiệp nhà nước còn nhiều bất hợp lý. Nhà nước giảm dần sự bảo hộ đối với doanh nghiệp nhà nước. Các nước phương tây đã phải dao động giữa thời kỳ vững chãi của những thành công khu vực kinh tế nhà nước và sự phát triển của khu vực phi nhà nước cũng như việc mở rộng thị trường. Mặt khác, tỷ lệ lạm phát và nợ của Nhà nước ngày càng tăng đã làm cho nhiều chính phủ phải tự xem lại chính sách kinh tế của mình. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá về thị trường sản phẩm và thị trường vốn, hàng loạt các ngành công nghiệp đã trở nên càng ngày càng khó khăn hơn và không còn giải pháp nào khác là hợp tác quốc tế để giải quyết những khó khăn đó. Đồng thời, việc phát triển các ngành công nghiệp, phát triển sản xuất và những vấn đề liên quan đến sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước đều do Nhà nước quyết định hoặc lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước quyết định đã phần nào gặp trở ngại trong môi trường mới đòi hỏi phải có các quyết định nhanh và kịp thời trong nền kinh tế thị trường. Nhà nước giảm dần chức năng làm kinh tế. Nhà nước không có tham vọng hành chính hoá nền kinh tế, cũng như không thể thay thế được vai trò của thị trường và các doanh nghiệp. Tuy nhiên, xét trên nhiều phương diện, sự quản lý, tác động của Nhà nước là điều kiện không thể thiếu được cho sự vận hành hiệu quả của nền kinh tế thị trường. Cho dù luật chơi của thị trường có hiệu quả đến đâu thì cũng không thể thả nổi hoàn toàn nền kinh tế cho quy luật tự điều chỉnh của thị trường. Sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng thị trường tự nó sẽ tự điều chỉnh, tự nó có đủ cơ chế để vận hành hiệu quả. Nhà nước điều tiết thị trường thông qua các quy phạm pháp luật và cơ chế chính sách. Nhà nước cũng có thể can thiệp, điều tiết thị trường bằng việc thành lập các cơ quan được giao đặc trách việc điều tiết, quản lý kinh tế, với qui chế độc lập. Việc Nhà nước hạn chế, giảm thiểu các biện pháp can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế và làm thay các doanh nghiệp nhà nước dẫn đến hai thay đổi đáng kể: Thứ nhất: tăng cường vai trò quản lý của các cơ quan nhà nước thông qua việc ban hành các quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý chặt chẽ hơn cho sự vận hành của thị trường; thứ hai: tăng cường tính chủ động, trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh trước thị trường. Hiện nay, các khoản nợ, việc chiếm dụng vốn giữa các doanh nghiệp với nhau rất lớn, Nhà nước lại phải đứng ra lo trả nợ để đảm bảo cho sự hoạt động bình thường mặc dù không thu về được vốn. Điều đó đã khiến các doanh nghiệp nhà nước đã trở thành gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Mức độ tổn thất do khu vực doanh nghiệp nhà nước gây ra cho ngân sách nhà nước đã làm ảnh hưởng, thiếu lòng tin về khả năng, lợi ích của khu vực kinh tế này đối với sự phát triển cân đối của nền kinh tế, đồng thời để lại những hậu quả nghiêm trọng về mặt xã hội như: Tệ tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, ỷ lại vào nhà nước, thất nghiệp tăng... Để giảm bớt những gánh nặng này, Nhà nước đã từng bước tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp của mình. 1.3. Vai trò của cổ phần hoá: Trong bối cảnh này, vị trí, vai trò của các doanh nghiệp nhà nước cũng cần thay đổi cho phù hợp. Các doanh nghiệp nhà nước muốn giải quyết vấn đề này không thể tự mình quyết định mà phải qua nhiều thủ tục hành chính của các cấp có thẩm quyền để chớp lấy thời cơ hội nhập và hợp tác quốc tế. Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang các loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu là một giải pháp hữu hiệu. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước làm thay đổi căn bản trên ba mặt đối với doanh nghiệp nhà nước: Chuyển hoá từ đơn sở hữu sang đa sở hữu doanh nghiệp, đảm bảo quyền làm chủ thực sự của những người góp vốn và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đảm bảo hài hoà lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp, các nhà đầu tư và của người lao động trong doanh nghiệp. Thay đổi căn bản về tổ chức các quan hệ quản lý nội bộ doanh nghiệp. Với cơ cấu tổ chức mới, có sự phân công, phân cấp và giám sát lẫn nhau chặt chẽ. Giúp cho quá trình thực hiện công việc công khai minh bạch các vấn đề của doanh nghiệp theo nguyên tắc thị trường. Gắn sự phát triển của doanh nghiệp với sự phát triển của thị trường chứng khoán. Thay đổi căn bản về quan hệ quản lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Từ chỗ doanh nghiệp bị chi phối toàn diện trong quá trình sản xuất kinh doanh bởi Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu duy nhất, sang quyền tự chủ kinh doanh được mở rộng và tính chịu trách nhiệm được đề cao. 2. Các mô hình CPH ở Việt Nam. Quá trình chuyển đổi DNNN sang công ty cổ phần là rất phức tạp. Nó dẫn đến hàng loạt những thay đổi trong doanh nghiệp như: cơ cấu tổ chức, cơ cấu vốn, hình thức sở hữu…Vì vậy, Nhà nước đã đề ra 3 mô hình CPH cơ bản sau: 2.1. Giữ nguyên giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phiếu nhằm huy động thêm vốn của xã hội để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Hình thức này áp dụng cho các doanh nghiệp mà nhà nước cần giữ một tỷ lệ cổ phần nhất định trong doanh nghiệp và doanh nghiệp đang hoạt động có hiệu quả, cần vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. 2.2. Bán bớt phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp cho người lao động trong doanh nghiệp và các nhà đầu tư khác để chuyển thành công ty cổ phần. Hình thức này được áp dụng cho các doanh nghiệp chưa cần huy động thêm vốn, mà chỉ cơ cấu lại quyền sở hữu về vốn và biện pháp quản lý doanh nghiệp. 2.3. Bán toàn bộ phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, áp dụng cho các doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện tuỳ từng hoàn cảnh của mỗi daonh nghiệp mà có thể áp dụng hình thức nào hoặc kết hợp linh hoạt giữa các hình thức trên. Nhưng vấn đề quan trọng là làm sao để người lao động chiếm giữ một tỷ lệ cổ phần nhất định trong doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hoá, tạo động cơ để họ nâng cao hiệu quả sản xuất và kinh doanh. Hiện nay ở nước ta đang tiến hành hỗn hợp cả ba mô hình. II. Thực trạng tiến trình CPH DNNN ở Việt Nam. Tiến trình CPH ở nước ta được tiến hành qua 4 gíai đoạn: tiến hành thí điểm từ năm 1992 – 1996 gắn với NĐ 28/CP kết thúc giai đoạn này chúng ta CPH được 5 DNNN. Giai đoạn hai là giai đoạn mở rộng từ tháng 6/1996 – tháng 6/1998 gắn với NĐ 44/CP kết thúc giai đoạn này chúng ta CPH được 3 DNNN. Giai đoạn 3 là giai đoạn chủ động diễn ra từ tháng 7/1998 – tháng 7/2002 gắn với NĐ 64/CP kết thúc giai đoạn này chúng ta CPH được 784 doanh nghiệp. Giai đoạn 4 là giai đoạn đẩy mạnh diễn ra từ tháng 7/2002 cho đến nay gắn với NĐ 187/CP. Ngày 26/6/2007 CP ban hành NĐ 109/CP để chỉ đạo quá trình CPH doanh nghiệp nhà nước. Và nội dung chủ yếu của CPH là: thứ nhất là đẩy nhanh tiến độ CPH, mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần phải CPH. Tiến hành CPH các tổng công ty, DNNN quy mô lớn; thứ hai là đối với các doanh nghiệp còn lại thì phải chuyển sang hoạt động công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên( những doanh nghiệp mà nhà nước nắm giữ 100% vốn); thứ ba là cơ cấu lại các tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con và xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh; thứ tư là đổi mới và lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp, từng bước hiện đại hoá công nghệ và trình độ quản trị trong các doanh nghiệp nhà nước. Qua các giai đoạn và nội dung tiến hành CPH như vậy chúng ta đã: 1. Thành tựu đạt được: 1.1. Khắc phục được cơ bản tình trạng CPH khép kín. Chúng ta đã quy định lượng cổ phần tối thiểu phải đấu giá bán công khai. Việc định giá các doanh nghiệp phải do các cơ quan tổ chức có chức năng định giá tiến hành do các công ty tài chính, các ngân hàng đầu tư trong và ngoài nước từ đó góp phần tăng tính công khai minh bạch trong quá trình kế hoạch hoá cổ phần nhà nước. Khi bán cổ phần ra bên ngoài các doanh nghiệp đã chủ động lựa chọn được các nhà đầu tư chiến lược. Thông qua bán đấu giá các doanh nghiệp đều bán được mệnh giá cao hơn cổ phần. Bộ chính trị cũng đã có chỉ thị 45, trong đó nhấn mạnh đến việc chấm dứt trình trạng CPH khép kín. Bởi vì chỉ khi nào các cổ đông là nhà đầu tư chiến lược tham gia vào doanh nghiệp với tỉ lệ sở hữu cổ phần lớn, cơ cấu hội đồng quản trị, ban điều hành thay đổi thì cung cách, tư duy quản lý mới có thể thay đổi và chuyển biến được. 1.2. Hầu hết các doanh nghiệp sau khi CPH thì hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. kết quả điều tra năm 2005. Trong 850 doanh nghiệp CPH thì cho thấy vốn điều lệ tăng 44%, lợi nhuận tăng 14% và thu nhập của 1 lao động tăng 12% cổ tức bình quân trong các doanh nghiệp mà cổ phần hoá năm 2006 là 17%. Quyền lợi của 1 lao động trong các doanh nghiệp CPH đã được đảm bảo, lao động dôi dư được hương chính sách trợ cấp theo NĐ 41 của CP. Riêng năm 2005, chúng ta có 85500 lao động dôi dư và bình quân mỗi lao động thì hỗ trợ 32triệu đồng. Cán bộ công nhân viên được mua cổ phần ưu đãi với giá giảm 40% so với giá đấu bình quân thành công. Tính đến hết tháng 8/2006, cả nước đã sắp xếp được 4.447 doanh nghiệp, trong đó, CPH 3.360 doanh nghiệp. Riêng từ năm 2001 đến nay đã sắp xếp được 3.830 doanh nghiệp Nhà nước, bằng gần 68% số doanh nghiệp Nhà nước đầu năm 2001. Sau quá trình thực hiện sắp xếp, số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm nhưng vẫn tiếp tục giữ vai trò chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng góp gần 40% GDP và 50% tổng thu ngân sách Nhà nước. Dựa trên báo cáo của các bộ, ngành, địa phương về kết quả hoạt động của 850 doanh nghiệp CPH đã hoạt động trên 1 năm cho thấy, vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%. Đặc biệt, có tới trên 90% số doanh nghiệp sau CPH hoạt động kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 12%, số lao động tăng bình quân 6,6%, cổ tức bình quân đạt 17,11%. Cùng với việc sắp xếp, CPH doanh nghiệp Nhà nước, từ năm 2001 đến nay, trên địa bàn cả nước đã tiến hành giải thể 5 tổng công ty không giữ được vai trò chi phối, đồng thời hỗ trợ các công ty thành viên sát nhập, hợp nhất 7 tổng công ty; tổ chức lại tổng công ty rượu - bia - nước giải khát thành 2 tổng công ty; thành lập thêm 17 tổng công ty Nhà nước, tổ chức lại 7 tổng công ty thành tập đoàn, đưa 1 tổng công ty 90 vào cơ cấu của tập đoàn. Như vậy, đến hết tháng 9/2006, cả nước đã có 105 tập đoàn và tổng công ty, cụ thể gồm 7 tập đoàn, 13 tổng công ty 91; 83 tổng công ty thuộc các bộ, ngành, địa phương và 2 tổng công ty thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than - khoáng sản Việt Nam.Theo số liệu tổng hợp từ các bộ, địa phương, đến nay, cả nước còn 2.176 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước với tổng số vốn Nhà nước gần 260 nghìn tỷ đồng. Trong đó, 1.546 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, 355 doanh nghiệp quốc phòng an ninh và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và 295 nông, lâm trường quốc doanh. Năm Số lượng DN Tổng vốn (nghìn tỷ) 2004 2242 17.700 2005 2307 20.000 2006 3360 22.000 Bảng số liệu tổng hợp qua các năm 1.3. Những kết quả đạt được khác:     Trước hết phải nói về nhận thức, để tạo một bước chuyển của tư duy từ kinh tế nhà nước sang kinh tế dân doanh, từ kinh tế đơn thành phần sang kinh tế đa thành phần là cả một quá trình. Mặc dù loại hình kinh tế quốc doanh đã bộc lộ nhiều bất cập như hiệu quả thấp, lãng phí, kém sức cạnh tranh, tuy nhiên không dễ gì chia tay với nó. Tâm lý định kiến với kinh tế ngoài quốc doanh vẫn còn khá nặng, nhưng lộ trình cổ phần hoá đã từng bước làm thay đổi nhận thức.  Thứ hai là, cùng với đường lối của Đảng là sự chỉ đạo của Chính phủ trong việc tiến hành lộ trình cổ phần hóa DNNN theo phương thức vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Trên cơ sở đó xây dựng hành lang pháp lý, đảm bảo lợi ích cho người lao động, doanh nghiệp và Nhà nước, đồng thời tạo động lực cho phát triển. Thứ ba là, tiến trình cổ phần hóa được triển khai từ chỗ làm thí điểm một vài doanh nghiệp rồi nhân rộng ra các ngành, các địa phương trong toàn quốc. Từ chỗ chỉ cổ phần hoá những doanh nghiệp quy mô nhỏ, rồi đến những doanh nghiệp quy mô lớn, đến cả những ngành chủ lực như điện, xi măng, ngân hàng...  Thứ tư là, hình thức cổ phần hóa cũng có sự thay đổi đáng kể: từ chỗ cổ phần hoá khép kín, chia cổ phần cho người lao động, đến chỗ tổ chức đấu giá công khai, minh bạch, chống thất thoát. Thứ năm là, hầu hết các doanh nghiệp sau cổ phần hoá đều làm ăn có hiệu quả, vốn, doanh số, lợi nhuận, thu nhập của người lao động đều tăng. Cổ tức bình quân đạt 17%/năm. 2. Bên cạnh những thành tựu đạt được chúng ta vẫn còn những hạn chế đó là: 2.1. Đối tượng các doanh nghiệp CPH còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu về đẩy mạnh CPH. Hầu hết các doanh nghiệp CPH cho đến nay là các doanh nghiệp địa phương có quy mô nhỏ. Nhiều doanh nghiệp thì vẫn né tránh CPH bằng cách chuyển sang hoạt động mô hình công ty mẹ công ty con hoặc những mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên. 2.2. Quyền sở hữu thực tế trong các doanh nghiệp đã CPH thì được chuyển đổi rất ít cho đến hết năm 2005, tổng số vốn trong các doanh nghiệp đã CPH chỉ chiếm 12% tổng số vốn trong các DNNN. Tuy nhiên trong số các doanh nghiệp đã CPH và nhà nước vẫn nắm giữ 38% vốn cổ phần, 1lao động trong doanh nghiệp nắm 54%, các cổ đông bên ngoài chỉ nắm giữ 8%. cổ phần hoá chưa làm rõ mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, người lao động. 2.3. Lộ trình CPH thì diễn ra hết sức chậm chạp đặc biệt khi chúng ta tiến hành CPH các doanh nghiệp quy mô lớn, các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Bên cạnh một số Bộ, địa phương triển khai tích cực, hoàn thành kế hoạch thì còn những Bộ, ngành, địa phương chưa hoàn thành theo đề án đã được phê duyệt. Thậm chí có đơn vị như Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy, kế hoạch cổ phần hóa 21 doanh nghiệp nhưng cả 2 năm 2004, 2005 không thực hiện được doanh nghiệp nào. Cổ phần hoá doanh nghiệp theo lĩnh vực và địa bàn cũng không đồng đều, tính chung đến cuối năm 2005, DNNN được cổ phần hóa trong ngành công nghiệp, giao thông, xây dựng chiếm 66%; ngành thương mại, dịch vụ chiếm 27,6%; ngành nông, lâm, ngư nghiệp chỉ chiếm 6,4%; doanh nghiệp nhà nước do tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý được cổ phần hóa chiếm 61,7%; các tổng công ty 91 chiếm 9,3%. Sự chây ỳ diễn ra ở hầu hết các bộ, ngành, địa phương. Do vừa làm vừa rút kinh nghiệm nên không tránh khỏi việc phải trả học phí. Chẳng hạn chuyện cổ phần hóa khép kín, thực ra là chia cổ phần chứ không phải bán cổ phần. Trong định giá tài sản thì tài sản hữu hình tính không chính xác đã đành, trong khi tài sản vô hình gần như không tính được.  2.4. Định giá doanh nghiệp: các tài sản hữu hình định giá không chính xác. Tài sản vô hình gần như không xác định được. Chúng ta chưa có một cơ chế để giám sát các tổ chức trung gian định giá khi CPH. Một số tổ chức định giá chưa phù hợp với thực tế. Một số phiên đáu giá cổ phần gần đây của các doanh nghiệp qua trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã có mức giá khởi điểm cao hơn so với kỳ vọng của các nhà đầu tư; do vậy đã không có nhà đầu tư trúng thầu. Bên cạnh đó, các tổ chức tư vấn chưa gắn kết hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp, tư vấn xây dựng phương án CPH, bán đấu giá cổ phần và niêm yết, đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán với nhau. Hiện nay các tổ chức tư vấn chủ yếu chỉ thực hiện nghiệp vụ định giá, tư vấn CPH, còn quá trình sau CPH thuộc về doanh nghiệp trong khi khả năng của doanh nghiệp lại rất hạn chế đối với quá trình này và bản thân lãnh đạo của các doanh nghiệp cũng chưa được cập nhật kiến thức về thị trường chứng khoán. Mặt khác văn bản pháp lý về định giá còn chưa thống nhất. Theo quy định, tổ chức định giá thực hiện dịch vụ xác định giá trị doanh nghiệp để CPH phải có chức năng định giá trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư mà phần lớn các tổ chức định giá được lựa chọn và công bố đủ tiêu chuẩn lại không đáp ứng được tiêu chuẩn về doanh nghiệp thẩm định giá như quy định. Tiếp đó là khó khăn của các công ty chứng khoán trong việc triển khai hoạt động tư vấn bởi theo thông tư 126 thì: “Tổ chức định giá phải đảm bảo có chức năng định giá trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư”. Tuy nhiên, trong giấy phép kinh doanh do uỷ ban Chứng khoán nhà nước cấp cho các công ty chứng khoán hiện tại chưa có chức năng này. Đây chính là bất cập lớn gây cản trở cho quá trình CPH. Nhưng bất cập lớn nhất hiện nay là vấn đề kinh phí. Đây được coi là vấn đề “muôn thuở” của các tổ chức, đơn vị làm tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp bởi theo đại diện công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn, một khoản phí để chi cho việc thẩm định giá đã phải “chia năm sẻ bảy” trong khi sự rủi ro trong khâu thẩm định giá lại rất cao. Hơn nữa các đơn vị tư vấn về chứng khoán và các công ty kiểm toán chỉ có thể định giá về tái chính còn các tìa sản chuyên dụng như nhà cửa, vật thể kiến trúc, các vật tư ứ đọng chờ thanh lý đòi hỏi phải có các chuyên gia về thẩm định thì chính bản thân đơn vị tư vấn lại không có đủ điều kiện để thuê người định giá vì thế mà phải “cây nhà lá vườn” dẫn đến dịch vụ tư vấn, xác định giá trị doanh nghiệp không cao, không sát với giá thị trường đưa đến kết quả hoặc giá trị tài sản của doanh nghiệp rất cao hoặc lại rất thấp so với thực tế nên đã không hấp dẫn các nhà đầu tư. 2.5. Vấn đề quản lý phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp sau khi CPH hiện cũng là vấn đề đang được thảo luận. Chúng ta cần xác định rõ quyền lợi trách nhiệm quyền hạn của những người đại diện phần vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp CPH. Trong những doanh nghiệp sau khi CPH nhà nước vẫn còn nắm giữ quá nhiều vốn vì vậy các doanh nghiệp này chưa có những thay đổi cơ bản về tổ chức, về quá trình theo mô hình của 1 công ty cổ phần thực sự, nhiều cơ quan quản lý của nhà nước còn can thiệp quá sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp sau khi CPH. Đối với nhiều doanh nghiệp sau khi CPH bộ máy quản trị và tư duy điều hành vẫn như cũ. Theo kết quả điều tra tại các doanh nghiệp CPH: 86% giám đốc, 88% phó giám đốc, 90% kế toán trưởng vẫn giữ nguyên như cũ. Điều này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển trung hạn và dài hạn trong các doanh nghiệp CPH. 2.6. Chính sách giải quyết cho lao động dôi dư theo NĐ41 đã kết thúc vào tháng 12/2005 vì vậy nó ảnh hưởng tới tốc độ CPH, hiện nay chúng ta chưa có NĐ mới. 2.7. Quy mô cổ phần hoá vẫn còn nhỏ, tốc độ vẫn còn chậm và còn nhiều bất cập. Sau hơn 10 năm, chúng ta mới cổ phần hoá được khoảng 10% vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá trong thời gian qua là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong số gần 3.000 doanh nghiệp đã được cổ phần hoá chỉ có khoảng 30% là có quy mô vốn trên 5 tỷ đồng. Như vậy rõ ràng là tình trạng độc quyền của nhà nước trong quản trị doanh nghiệp về cơ bản vẫn chưa được xoá bỏ. Đây là nguyên nhân chính tiếp tục kìm hãm sức phát triển của nền kinh tế, làm giảm hiệu quả đầu tư như chúng ta đã nhiều lần đề cập. Tiến trình cổ phần hoá ở hầu hết các lĩnh vực then chốt, những Tổng Công ty “đỉnh” vẫn khá ì ạch. Cổ phần hoá Vietcombank - ngân hàng thương mại lớn nhất, mạnh nhất Việt Nam luôn được nhắc đến như một “bước đột phá” nhưng tiếc thay vẫn chưa bước ra khỏi giai đoạn chuẩn bị. Kế hoạch cổ phần hoá của nhiều Công ty, Tổng Công ty lớn cũng đang trong tình trạng tương tự, nghĩa là liên tiếp bị trì hoãn từ năm này qua năm khác với nhiều lý do khác nhau. Bên cạnh đó, nếu chịu khó quan sát một chút sẽ thấy cổ phần hoá các Công ty “màu mỡ” hầu như vẫn là cuộc “độc diễn” của các đại gia, chưa có “đất” cho các nhà đầu tư đại chúng. Hay nói cách khác đi là có tình trạng cổ phần hoá “khép kín” ở một số đơn vị mà báo giới đã không ít lần phản ảnh. 2.8. Bộc lộ một số “vấn đề” ở một số doanh nghiệp hậu cổ phần hoá. Một số doanh nghiệp sau cổ phần hoá vẫn nằm trong tình trạng “bình thì mới nhưng rượu vẫn cũ”, nghĩa là ít có sự thay đổi về cơ cấu và cơ chế quản lý, năng lực điều hành... và tất nhiên là hiệu quả kinh doanh cũng không được cải thiện. Vẫn có tới gần 10% doanh nghiệp hậu cổ phần hoá tiếp tục nằm trong tình trạng thua lỗ. Khá hài hước nhưng không ngạc nhiên khi có Công ty cổ phần quyết định chia cổ tức bằng chè, bằng nông sản...Một phần do nhận thức của các cổ đông nhỏ lẻ (cá nhân, cán bộ công nhân viên...) chưa cao nên có tình trạng là họ hầu như không có thực quyền nào trong việc kiểm soát phần vốn của mình cũng như thực thi đầy đủ các quyền cơ bản của cổ đông. Do vậy, ở không ít Công ty cổ phần, thực quyền chi phối doanh nghiệp nằm trong tay một số ít người có trách nhiệm và nắm được thông tin. Vì thế, hiện tượng lạm dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân là không thể tránh khỏi. Nhiều Công ty cổ phần nhiều năm không tiến hành đại hội cổ đông, không công khai báo cáo tài chính... Bi quan hơn, có một số doanh nghiệp nhà nước loại “vừa vừa” sau khi được cổ phần hoá đang có nguy cơ bị “tư hữu hoá”.Mặt khác, tại nhiều doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối nhưng vẫn giữ tới hơn 51% số cổ phần. Vì vậy, sau khi cổ phần hoá, nhà nước vẫn nắm giữ quyền quản lý doanh nghiệp và những “vết xe cũ” tiếp tục được lặp lại. Cổ phần hoá chỉ có ý nghĩa thay đổi một phần sở hữu vốn mà chưa tạo ra sự biến đổi về chất trong quản trị, điều hành. Việc khống chế vốn cổ phần của cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài trong các Công ty nhà nước được cổ phần hoá cũng là một hạn chế. 2.9. Một thị trường chứng khoán chưa hoàn hảo.Chuyện rò rỉ thông tin từ chính các nhân vật có trách nhiệm của các Công ty sắp niêm yết đang trở thành một vấn nạn nhức nhối. Hiện tượng “làm giá” đối với các chứng khoán đang và sắp niêm yết cũng là một vấn đề. Có bình thường không khi giá của những Công ty sắp niêm yết trên thị trường OTC cao gấp 4-5 lần so với mệnh giá ? Bên cạnh những yếu tố “ngầm” có lẽ còn do “hiệu ứng tâm lý” của các nhà đầu tư nữa. Nếu không có những liệu pháp thích hợp sẽ dễ dẫn tới hiện tượng “bong bóng xà phòng” mà nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới (và ngày cả thị trường chứng khoán Việt Nam nữa) đã từng mắc phải.Có một thực tế khác đang được mặc nhiên thừa nhận là hiện tượng các nhân viên của Công ty chứng khoán sử dụng thông tin của thị trường, của khách hàng để kinh doanh cho chính mình thay vì cho Công ty. Thực trạng đó đòi hỏi phải gióng lên một hồi chuông về quy chuẩn đạo đức cho thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như phải tiếp tục hoàn thiện các chế tài quản lý. Tốc độ cổ phần hóa của Việt Nam có vẻ chậm lại, và có hay không việc các doanh nghiệp nhà nước vận động hành lang, làm chậm lại tiến trình này. Nhưng thủ tướng tái khẳng định, hiện nay, cổ phần hóa của Việt Nam đang được đẩy mạnh thuận lợi và hiệu quả; công tác cổ phần hóa của Việt Nam đã gần cơ bản hoàn thành. Hiện nay, Việt Nam chỉ còn 104 tổng công ty của Nhà nước chưa cổ phần hóa, trong khi các doanh nghiệp thành viên của các tổng công ty cũng đã cổ phần hóa gần hết. Cổ phần hóa của Việt Nam được tiến hành theo nguyên tắc thị trường, gắn liền với niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Việt Nam đặt mục tiêu năm 2010 sẽ cổ phần hóa toàn bộ, trong đó, riêng 2 năm 2008 - 2009 thực hiện xong về cơ bản, kể cả các ngân hàng thương mại quốc doanh. 3. Kế hoạch CPH trong thời gian tới: Hiện nay Việt Nam còn 2176 DNNN với tổng số vốn là 260000 tỷ đồng và chính phủ dự định quá trình CPH sẽ kết thúc vào năm 2010. Cho đến 2010 chúng ta chỉ còn giữ lại 554 doanh nghịêp 100% vốn nhà nước, trong 554 doanh nghiệp đó gồm 26 tập đoàn và các tổng công ty, 178 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực an ninh quốc phòng và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho xã hội. Trong 2008, CPH toàn bộ các ngân hàng thương mại quốc doanh. III. Giải pháp đẩy nhanh CPH DNNN ở Việt Nam Để tiến trình CPH của chúng ta được tiến hành nhanh hơn và hiệu quả hơn đảng và nhà nước đã có những giải pháp như sau: tập trung vào việc quán triệt chủ trương cổ phần hóa DNNN, đề cao trách nhiệm trong thực hiện cổ phần hóa DNNN, đề phòng và khắc phục những lệch lạc, tiêu cực trong cổ phần hóa; Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp lý, chính sách thực hiện cổ phần hóa DNNN, xóa bỏ tình trạng cổ phần hóa khép kín, tăng lượng cổ phần bán ra ngoài doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư chiến lược được tham gia với tỉ lệ sở hữu vốn lớn hơn; Tiếp tục cải tiến quy trình cổ phần hóa và gắn với quá trình cải cách hành chính; Có biện pháp kiên quyết đối với những người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị không thực hiện nghiêm chỉnh, có hành vi cản trở hoặc chậm trễ trong thực hiện cổ phần hóa; Đẩy mạnh, đa dạng hoá hình thức bán cổ phần; Khẩn trương ban hành mới và hoàn thiện các cơ chế quản lý doanh nghiệp sau cổ phần hóa, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh, bảo toàn và phát triển vốn nhà nước; Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội trong các doanh nghiệp cổ phần hóa. 1. Về phía nhà nước: 1.1. Đẩy mạnh cải cách, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, sắp tới nhà nước sẽ đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về đổi mới doanh nghiệp nhà nước, trong đó phân định rõ chức năng quản lý của nhà nước và doanh nghiệp. Nhất là các quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp; ban hành chế độ phân phối cổ phần hộ lý; đổi mới phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, giám sát hoạt động kinh doanh và chấp hành quy định của nhà nước tại doanh nghiệp. Kế hoạch của chính phủ là giảm số lượng các doanh nghiệp nhà nước xuống. Tuy nhiên vẫn có thể thành lập thêm doanh nghiệp nhà nước nếu cần thiết. Việc thành lập doanh nghiệp này phải được xem xét kỹ lưỡng trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của từng ngành, từng địa phương và theo nguyên tắc chỉ lập mới doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đối với những ngành và lĩnh vực mà nhà nước độc quyền, hoặc các thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng tham gia. Về lâu dài, để hệ thống doanh nghiệp nhà nước thực sự mạnh, giữ vai trò đầu tàu trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhà nước sẽ cho phép hình thành một số tập đoàn kinh tế lớn kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc dân. Tập đoàn kinh tế này được thành lập trong một số lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh, khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Trước mắt, nghiên cứu thnàh lập thí điểm một số tập đoàn về dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng. 1.2. Cần phải xoá sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp vì hiện nay chúng ta đang tiến hành CPH chủ yếu ở các lĩnh vực then chốt, những công ty “đỉnh” vẫn khá ì ạch. CPH Vietcombank - ngân hàng thương mại lớn nhất, mạnh nhất Việt Nam luôn được nhắc đến như một bước đột phá nhưng tiếc thay vẫn chưa bước ra khỏi giai đoạn chuẩn bị. Kế hoạch CPH của nhiều công ty, tổng công ty lớn cũng đang trong tình trạng tương tự, nghĩa là liên tiếp bị trì hoãn từ năm này qua năm khác với nhiều lý do khác nhau. Bên cạnh đó, nếu chịu khó quan sát một chút sẽ thấy CPH các công ty “màu mỡ” hầu như vẫn là cuộc “độc diễn” của các đại gia, chưa có “đất” cho các nhà đầu tư đại chúng. Việc chuyển đổi từ doanh nghiệp Nhà nước sang doanh nghiệp cổ phần đã mang lại một môi trường kinh doanh khác nhưng từ đây cũng nảy sinh những khó khăn mới, các vấn đề quan tâm chính của doanh nghiệp vẫn là đất đai, tín dụng và thủ tục hành chính...Theo các doanh nghiệp, sau cổ phần hóa diện tích đất đai nhà xưởng không thay đổi nhiều. Các địa phương vẫn tiếp tục cho doanh nghiệp thuê đất với giá thấp thậm chí giao đất với giá thấp hơn nhiều so với giá thị trường nhưng doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn khi giao dịch với ngân hàng. Nguyên nhân là do sự thiếu rõ ràng về quyền sử dụng đất cũng như chưa giải quyết dứt điểm các quyền và nghĩa vụ đất đai có liên quan trước khi đăng ký dưới hình thức công ty cổ phần. Điều này khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong bố trí kế hoạch hoạt động kinh doanh như xây dựng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng..., hay góp vốn liên doanh bằng tài sản có trên đất mà doanh nghiệp đang sử dụng. Trên thực tế, đã có tình trạng một bộ phận công ty hay đơn vị thành viên tổng công ty đã cổ phần hóa nhưng không có quyền sử dụng đất, không được đứng tên thuê giao đất do đất thuộc quyền sử dụng và tổng công ty đứng tên. Vì vậy, các đơn vị này phải nhờ tổng công ty đứng ra dùng quyền sử dụng đất vay vốn hộ. Ngược lại đã có trường hợp tổng công ty dùng toàn bộ diện tích đất đai của doanh nghiệp đã cổ phần hóa đang sử dụng để thế chấp vay vốn gây khó khăn cho hoạt động của công ty cổ phần.Một thay đổi lớn gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động các doanh nghiệp sau cổ phần hóa là tỷ trọng vay vốn từ ngân hàng thương mại Nhà nước đã giảm đi đáng kể thay vào đó là các nguồn tín dụng khác kể cả tín dụng phi chính thức và tín dụng người lao động, cổ động hoặc gia đình, bạn bè. 1.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật: Chính phủ cần phải tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách cho CPH cũng như chỉ đạo mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn nữa đối với các tổng công ty, công ty nhà nước lớn. Bên cạnh đó, về phía các doanh nghiệp nhà nước cũng cần phải quán triệt nhận thức, nỗ lực quyết tâm trong việc vạch ra và thực thi lộ trình CPH. Lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước cũng như các bộ, ngành chủ quản cần đứng trên quan điểm phát triển để nhận thức rằng CPH là con đường tất yếu để có thể tồn tại trong bối cảnh hội nhập đang đến gần. Những đặc quyền đặc lợi cá nhân hay cục bộ cần phải được từ bỏ. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng cần phải lưu ý, làm nhanh không có nghĩa là làm ẩu, tránh CPH hình thức bán rẻ tài sản nhà nước. Đối với công ty sau cổ phần, phải thực sự thay đổi về cơ chế quản lý và tăng cường giám sát để vừa nâng cao hiệu quả hoạt động vừa đảm bảo quyền lợi chính đáng cho tất cả các cổ đông. Mặt khác, cần phải tiếp tục nới rộng giới hạn tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào các công ty cổ phần; nhanh chóng thực hiện niêm yết cổ phiếu đối với các công ty đủ tiêu chuẩn. Cần hoàn thiện các cơ chế của thị trường chứng khoán, tích cực tuyên truyền phổ cập kiến thức về chứng khoán trong công chúng đầu tư; tăng cường giám sát đối với hoạt động của Sở Giao dịch và các công ty chứng khoán cũng như các công ty niêm yết nhằm tạo ra một thị trường chứng khoán “sạch” và hoạt động lành mạnh, tránh những đổ vỡ gây hậu quả xấu đối với nền kinh tế và môi trường đầu tư. Cần đưa ra các tiêu chí cụ thể hơn về doanh nghiệp CPH, doanh nghiệp mà nhà nước cần giữ cổ pphần chi phối, gắn cổ phần hoá với trách nhiệm cá nhân tại các đơn vị, đồng thời củng cố ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp trung ương. Đầu tiên chúng ta sẽ cổ phần hoá các doanh nghiệp nhỏ, vừa, thua lỗ tiến tới cổ phần hoá các tổng công ty, rồi đến một số ngành nghề then chốt như điện, bảo hiểm, ngân hàng. Phấn đấu hoàn thành mục tiêu đến năm 2010 cả nước sẽ cơ bản hoàn thành đổi mới sắp xếp toàn bộ DNNN, chỉ trừ lĩnh vực then chốt công ích khó thu hút đầu tư. Điều chỉnh phương hướng đầu tư từ ngân sách nhà nước nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này, khai thác những lợi thế của đất nước và các nguồn đầu tư bên ngoài để đưa đến một mô hình kinh tế hợp lý. Theo dõi quá trình phát triển kinh tế Việt Nam, giáo sư Đa-vít Đa-pi (David Dapice đại học Ha-vớt) nêu rõ: thực tế mỗi năm Chính phủ Việt Nam đầu tư khoảng 30% GDP, nhưng chỉ tăng trưởng 7%-8%. Nếu biết đầu tư đúng thì tăng trưởng phải đạt ở mức 9%-10% như Trung Quốc. Theo cách tính toán trên, do đầu tư không phù hợp, chúng ta đã làm tổn thất 2% GDP của đất nước (khoảng 1 tỉ USD mỗi năm). Vì thế, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải dựa trên quan điểm tiết kiệm ngân sách, đầu tư khôn ngoan, chứ không phải chỉ là giải pháp cho những yếu kém trong kinh tế nhà nước. Trên thế giới, đã có những nước sử dụng rất hiệu quả ngân sách nhà nước. Ví dụ, Đài Loan vào thập kỷ 1960-1970 chỉ có mức thu nhập bình quân đầu người như Việt Nam hiện nay, nhưng họ đã đạt được tăng trưởng kinh tế ở mức 11% trong suốt 10 năm liền, tuy lượng đầu tư chỉ chiếm 25% ngân sách. Về cơ chế, chính sách, cụ thể sẽ tiến hành rà soát, sửa đổi một số văn bản liên quan như Quyết định 155 quy định tiêu chí các lĩnh vực DNNN cần nắm giữ để thu hẹp các lĩnh vực này, đồng thời thu hẹp những lĩnh  vực nhà nước cần giữ CP chi phối, 100% vốn. Sửa đổi NĐ 187 để giải quyết những vướng mắc phát sinh trong CPH như bổ sung đối tượng được CPH, kể cả các TCty, có lộ trình CPH các TCty kể cả các lĩnh vực ngân hàng, dịch vụ, tài chính chứng khoán, CPH cả Cty TNHH một thành viên. Sửa đổi phương pháp CPH, mở rộng diện nhà đầu tư nước ngoài được tham gia mua cổ phần; xóa bỏ chế độ ưu đãi đối với DN sau CPH, CPH gắn với niêm yết trên TTCK. Mục tiêu là đến năm 2009, kết thúc quá trình CPH sẽ chỉ còn khoảng 550 DNNN, thuộc 26 tập đoàn, Tổng công ty nhà nước. 2. Về phía doanh nghiệp: 2.1. Chuyển biến mạnh mẽ từ hình thức CPH nội bộ là chính sang hình thức bán cổ phần ra ngoài doanh nghiệp, kể cả việc bán cho các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, diện doanh nghiệp CPH cũng được mở rộng, không chỉ các doanh nghiệp nhỏ mà còn tiến hành CPH cả các tổng công ty lớn. Hiện nay, các nganh liên quan đang xúc tiến quá trình CPH các ngân hàng thương mại, tổng công ty điện tử-tin học, tổng công ty xuất nhập khẩu và xây dựng, tổng công ty thương mại và xây dựng… 2.2. Việc xác định giá trị doanh nghiệp cũng đang là một trong những khâu bức xúc nhất trong tiến trình CPH. Ban định giá bao gồm các chuyên gia từ nhiều bộ ngành hiện nay cần được thay bằng các đơn vị trung gian cá kiến thức và kinh nghiệm trong công tác định giá để đảm bảo chính xác và khách quan, sát với thị trường. Một số ngân hàng thương mại sẽ đi tiên phong trong việc thuê các công ty định giá nước ngoài. Về vấn đề này, bộ tài chính đã trình chính phủ sửa đổi nghị định 64/CP về chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần theo hướng cho phép các doanh nghiệp có giá trị tài sản dưới 20 tỷ đồng được tự kê khai, tự định giá để cơ quan chức năng công bố giá trị doanh nghiệp tiến hành CPH. Nếu được chấp nhận thì nội dung sửa đổi này sẽ thúc đẩy quá trình CPH doanh nghiệp rất đáng kể vì hiện nay số đơn vị CPH có vốn dưới 20 tỷ đồng chiếm tỷ lệ khá lớn. Vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp, những doanh nghiệp có tổng giá trị tài sản của nhà nước trong sổ sách kế toán từ 10 tỷ trở lên hoặc có vị trí địa lý thuận lợi thì phải thuê các tổ chức có chức năng định giá như là các công ty chứng khoán, công ty kế toán, các ngân hàng đầu tư trong và ngoài nước xác định giá trị doanh nghiệp khi CPH. Trong trường hợp có nhiều tổ chức tham gia tư vấn định giá thì phải tổ chức đấu thầu để lựa chọn tổ chức định giá. Định giá DN thông qua tổ chức định giá chuyên nghiệp, bắt buộc đấu giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu lần đầu là hai trong những thay đổi cơ bản được các cơ quan quản lý cho rằng sẽ đem lại thành công cho chương trình sắp xếp, đổi mới DN trong thời gian tới. “Làm như vậy vừa tránh được tình trạng DN tự định giá thấp gây thiệt hại cho Nhà nước, vừa tránh được tình trạng CPH khép kín, đi vào thực chất và nhanh hơn”. Theo Thứ trưởng Băng Tâm, giao việc định giá DN cho một tổ chức chuyên nghiệp, xóa bỏ các hội đồng thẩm định sẽ giúp đẩy nhanh đáng kể tốc độ CPH, đồng thời nâng cao tính chuyên nghiệp, tính minh bạch trong định giá DN. Trong khi đó, việc đưa ra đấu giá đối với cổ phiếu lần đầu sẽ giúp tránh thiệt hại cho ngân sách nhà nước, đồng thời tạo điều kiện cho mọi nhà đầu tư có nhu cầu được tham gia đầu tư vào DN. Chính sự công khai, minh bạch trong CPH là yếu tố giúp Vinamilk hết sức thành công trong đợt bán cổ phiếu vừa qua (có khi với giá gấp vài lần so với dự kiến) và là kinh nghiệm rất tốt cho các DN CPH khác làm theo. Doanh nghiệp cần phải xác định được việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước phải hướng tới sự thu hút và tập trung các nguồn vốn xã hội vào phát triển kinh tế, tạo ra hình ảnh nhân dân xây dựng và làm chủ nền kinh tế. Khi điều này được thực hiện thì các khâu của quy trình cổ phần hóa sẽ thay đổi, từ việc định giá doanh nghiệp, cơ cấu vốn điều lệ doanh nghiệp cổ phần, cơ cấu cổ đông, tổ chức bộ máy, đến những vấn đề nhân sự khác... sẽ không như hiện nay, mà sẽ bảo đảm cho doanh nghiệp hoạt động tốt hơn trước, có lợi cho người lao động, nhà đầu tư và cho cả nền kinh tế. Cần vận dụng: “Quy chế quản trị công ty” nhằm tạo ra môi trường đầu tư minh bạch, lành mạnh. Yêu cầu này chỉ thực hiện được khi có sự lựa chọn những giám đốc phù hợp với quy chế quản trị công ty, nhất là phải sớm đào tạo và bố trí các giám đốc tài chính của công ty (có vai trò và phạm vi hoàn toàn khác với kế toán trưởng trong doanh nghiệp kiểu cũ).Cần xác định rõ: ai là chủ sở hữu thực tế của công ty cổ phần và chủ sở hữu phải gắn liền với trách nhiệm đối với công ty như thế nào?. Trong vấn đề này có một nội dung phải làm rõ: ai đại diện chủ sở hữu số vốn nhà nước trong công ty cổ phần nhằm chấm dứt quan hệ sở hữu nhà nước chung chung và không có trách nhiệm, kéo dài nhiều năm nay. 3. Về phía người lao động: Chúng ta nên khuyến khích người lao động mua cổ phần của công ty. Điều đó sẽ làm cho họ có trách nhiệm hơn trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Vì người lao động chiếm một tỷ lệ khá cao trong các doanh nghiệp, chúng ta phải hướng họ tới một mục tiêu nào đó để đảm bảo lợi ích cho cả nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Do vậy mà đội ngũ cán bộ cũng phải gương mẫu để nhân viên của mình có thể noi theo và học tập. Hiện nay đã có rất nhiều doanh nghiệp bán cổ phần cho người lao động và cũng có nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn. Kết luận và kiến nghị Tình hình CPH ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng kể có tới trên 90% số doanh nghiệp sau CPH hoạt động kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 12%, số lao động tăng bình quân 6,6%, cổ tức bình quân đạt 17,11%. Không những vậy cơ cấu kinh tế được phát triển theo hướng tích cực. Góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, cải thiện đời sống của người lao động tạo thêm việc làm và nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. CPH là một biện pháp hữu hiệu cho việc đổi mới doanh nghiệp phù hợp với cơ chế thị trường và xu thế hiện nay khi Việt Nam đang là thành viên thứ 150 của WTO. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được cũng có không ít những hạn chế trong việc CPH các DNNN. Nguyên nhân do cả phía doanh nghiệp và cả nhà nước và cả người lao động. Cùng những giải pháp cụ thể mong rằng việc CPH DNNN trong thời gian tới sẽ diễn ra với tốc độ nhanh hơn và hiệu quả hơn. Phấn đấu đến năm 2009 có thể hoàn thành cơ bản quá trình CPH, và năm 2010 có thể hoàn thiện cơ cấu doanh nghiệp. Danh mục tài liệu tham khảo 1. GS.TS. Nguyễn Đình Phan – GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn, giáo trình kinh tế và quản lý công nghiệp, nhà xuất bản đại học Kinh tế quốc dân 2. Tạp chí kinh tế và dự báo, số 43 tháng 4/2007 3. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 348 tháng 5/2007 4. Trang web 5. Trang web 6. Trang web MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.DOC
Luận văn liên quan