Dạy học kịch trưởng giả học làm sang

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Môlie là nhà hài kịch vĩ đại của nước Pháp và của nhân loại. Sáng tác của ông đa dạng và đầy sức sống, đầy màu sắc, là bức tranh rộng lớn của nước Pháp thế kỉ XVII và mang tính nhân loại sâu sắc, với những biến động dữ dội, đầy sức trẻ, đầy chất thơ. Hài kịch Môlie thấm thía một chủ nghĩa nhân văn tươi sáng, yêu đời, nó thức tỉnh con người, nó khuấy đảo những ai thờ ơ với cuộc sống với con người và cái đẹp. Môlie là một tài năng sáng tạo phi thường, ông sáng tạo một cái cười mới, một cái hài kịch mới. Môlie đem đến cho văn đàn Pháp những cống hiến rất lớn với tư cách là người sáng lập ra hài kịch cổ điển và đưa nó đến đỉnh cao sán lạn, với tư cách là nhà văn – chiến sĩ đã đấu tranh đến cùng cho những lí tưởng xã hội tiến bộ, với tư cách là người nghệ sĩ ưu tú đã kết tinh được những truyền thống tốt đẹp của nhân dân, dân tộc Pháp. Các sáng tác của ông để lại đều hàm chứa trong nó những tiếng cười nhiều cung bậc, tiếng cười với giá trị phê phán tố cáo xã hội lớn lao, có giá trị giáo dục thẩm mĩ sâu sắc. Các sáng tác của ông là phòng tranh giàu tính hiện thực và nhân đạo triển lãm xã hội Pháp thế kỉ XVII. Đặc biệt là với hài kịch Trưởng giả học làm sang Môlie đã dẫn người đọc đến một tiếng cười nhiều cung bậc, từ cái cười vui, nhẹ nhàng, dí dỏm, vô thưởng vô phạt đến cái cười mỉa mai chua chát, dẫn đến cái cười thâm trầm, sâu sắc, nặng tính chất châm biếm, đến cái cười đau đớn xót xa cười ra nước mắt. Tiếng cười bao hàm một tư tưởng sâu sắc, một sự tìm tòi xem xét nghiêm túc, một thái độ biểu hiện tích cực và có giá trị chiến đấu cao. Với tiếng cười nhiều cung bậc Môlie đã đưa vở kịch “Trưởng giả học làm sang” đến đỉnh cao của sự thành công. Chính vì thế mà hài kịch Trưởng giả học làm sang được đưa vào chương trình THCS qua đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục. Bên cạnh đó, việc dạy học kịch bản văn học trong nhà trường THCS vẫn đang là một vấn đề nan giải. Từ trước đến nay, hiếm có một giờ dạy học kịch nào thành công. Cũng có lẽ bởi nguyên nhân chủ yếu là người giáo viên thường dạy học kịch như dạy học các tác phẩm tự sự mà không nắm vững kiến thức về đặc trưng thể loại kịch bản để dạy học. Giáo viên vẫn còn dạy học theo phương pháp truyền thống. Cho nên, chất lượng hiệu quả giờ dạy học kịch chưa cao, hứng thú, niềm say mê với kịch bản của học sinh dường như không có. Khi giáo viên đưa ra câu hỏi cho học sinh làm sau giờ dạy, cụ thể tại lớp 8A Trường THCS Hữu Liên, Hữu Lũng, Lạng Sơn, năm học 2009-2010 thì số học sinh đạt yêu cầu chiếm 79%, chưa đạt yêu cầu chiếm 21%. Chính vì vậy, một yêu cầu cấp bách được đặt ra là phải trang bị cho giáo viên và học sinh đặc trưng thể loại của kịch và phải nâng cao chất lượng giờ dạy học kịch bằng những phương pháp và biện pháp thích hợp. Từ tầm quan trọng của môn phương pháp dạy học văn, của dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể và thực tế dạy học kịch ở nhà trường THCS đã thôi thúc chúng tôi lựa chọn đề tài này. Vì vậy đề tài này sẽ là một cơ hội tốt để chúng tôi thể hiện lòng yêu thích của mình đối với tác giả Môlie và những tác phẩm của ông, để chúng tôi có dịp đi tìm hiểu về hài kịch Pháp thế kỉ XVII. Cây bút kịch Môlie, một tài năng đang trong lúc thăng hoa lại bị một cơn bạo bệnh cướp đi mạng sống và tác phẩm kịch xuất sắc của ông. Đặc biệt đề tài này sẽ là dịp để chúng tôi thể nghiệm những kiến thức về phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo thể loại vào dạy học tác phẩm kịch này với mong muốn tiểu luận này sẽ là một tài liệu bổ ích đối với giáo viên, sinh viên khi mới làm quen và dạy học kịch Trưởng giả học làm sang trong một tương lai không xa . 2. Lịch sử vấn đề. Môlie được đánh giá là “Người hề vĩ đại” trong nền văn học Pháp. Ông là niềm tự hào không chỉ của nhân dân Pháp mà còn là niềm kiêu hãnh của cả lịch sử sân khấu thế giới. Nhà thiên tài hài kịch ấy xuất hiện đã đưa hài kịch lên chỗ đứng cao hơn và khẳng định vị thế của nó đối với bi kịch thời bấy giờ. Những kiệt tác nghệ thuật Môlie để lại là những gì còn lại của một nền nghệ thuật chân chính, của một người lao động nghệ thuật chân chính. Ba trăm năm đã qua nhưng tiếng cười của Môlie không lúc nào vắng trên sân khấu tiến bộ Pháp và thế giới. Môlie đã đi vào Việt Nam từ những năm hai mươi của thế kỉ này và cho đến nay ngày càng thu hút, lôi cuốn được sự say mê của độc giả và khán giả Việt Nam với những sáng tác hài kịch của mình. Những sáng tạo nghệ thuật Môlie để lại cho đời từ lâu đã trở thành đối tượng quan tâm của giới phê bình, nghiên cứu. Đã có biết bao công trình, chuyên luận, bài viết nghiên cứu về Môlie ở khắp mọi nơi. Đặc biệt ở Việt Nam, hài kịch Môlie đã trở thành niềm đam mê, hứng thú của các nhà nghiên cứu, phê bình đi tìm hiểu, đánh giá về điều này. Vũ Tiến Quỳnh trong cuốn phê bình-bình luận văn học,Môlie viết “bên việc tái hiện lại gương mặt Môlie và những đóng góp của ông cho hài kịch dân tộc Pháp, ông còn chỉ ra những sáng tạo nghệ thuật trong hài kịch Môlie: Nghệ thuật xây dựng tính cách, nghệ thuật gây cười, nghệ thuật kịch”. Ông rất đề cao tài năng Môlie và coi “đó là một tấm gương sáng của một nhà văn thiết tha và tận tụy với nghề, trước sau cho đến lúc chết không xa rời cái lí tưởng cười cợt để sửa chữa phong tục, cải tạo xã hội”. Trong lịch sử sân khấu thế giới, NXB Văn hóa Hà Nội, các tác giả cũng đã trình bày khá đầy đủ về tình hình phát triển chung của sân khấu Pháp trong thế kỉ XVII và cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Môlie. Nguyễn Văn Chính trong văn học phương tây đã dành khá nhiều trang viết để giới thiệu về Môlie và ông đã nhấn mạnh đến vai trò của Môlie trong lịch sử phát triển của hài kịch và đã đề cập ít nhiều đến vấn đề tiếng cười trong hài kịch Môlie. Điều này được thể hiện qua bài viết “Môlie-một tài năng nảy sinh trong rèn luyện và đấu tranh gian khổ”. Đặc biệt tiêu biểu là công trình của Lê Nguyên Cẩn. Ông đã nghiên cứu khá kỹ về cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng tác của Môlie. Theo tác giả: cuộc đời của nhà hài kịch này gắn liền giữa vinh quang và sóng gió. Khi nói về trích đoạn Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục,Vũ Dương Quỹ - Lê Bảo trong cuốn “Bình giảng văn 8” đã viết “Con người sẽ không còn là con người nếu bị nhiễm độc về tinh thần. Sự biến chất, sự thoái hóa sẽ diễn ra như một thứ nguy cơ không thể nào tránh được” (13,140). Sách giáo viên Ngữ văn 8-tập 2, khi nói về tính cách trưởng giả học làm sang của ông Giuốc-đanh thì viết “Ông sẵn sàng cho hết cả tiền để được làm sang”(6,154). Chính vì thế, Đỗ Ngọc Thống trong Tư liệu Ngữ văn 8 đã viết “Không khí kịch càng về sau càng sôi động, cho đến cuối cảnh sau thì không khí hài kịch thực sự náo nhiệt”(4,276). Như vậy việc nghiên cứu về Môlie và tác phẩm “Trưởng giả học làm sang” cũng như trích đoạn “Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục” được tiến hành dưới nhiều dạng tổng quát chung. Những nhận xét đánh giá đều rút ra từ các mặt khác nhau. Bên cạnh đó, trích đoạn “Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục” đã được đưa vào chương trình Sách giáo khoa Ngữ văn 8 - tập 2. Những tài liệu có liên quan đến phương pháp dạy và học tác phẩm này là rất hiếm. Trong cuốn “Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể” của Nguyễn Viết Chữ ( năm 2010) tác giả cũng có đề cập đến vấn đề phương pháp và biện pháp chung dành cho các loại thể văn học nước ngoài nhưng mới ở dạng khái quát. Ngoài ra tài liệu còn lại là hai quyển sách giáo viên Ngữ văn 8 tập 2 và sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 2. Chưa có tác giả nào khác đi nghiên cứu về cách hướng dẫn dạy học vở kịch này. Vấn đề phương pháp dạy học hài kịch “Trưởng giả học làm sang” với trích đoạn “Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục” chưa hẳn đã được giải quyết triệt để. Vì vậy, đây là một đề tài còn mới mẻ, bỏ ngỏ để chúng tôi tiến hành đi nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 3.1. Mục đích Mục đích của Tiểu luận khoa học này là làm sáng tỏ vấn đề dạy học hài kịch “Trưởng giả học làm sang” của Môlie trong chương trình THCS (Trích đoạn “Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục” – sách giáo khoa Ngữ văn 8 - tập 2) 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên chúng tôi đề ra những nhiệm vụ cụ thể sau: + Xác định cơ sở lý thuyết cho vấn đề. + Xác định kiến thức về tác giả, thời đại, văn hoá, tác phẩm lớn. + Định hướng dạy học bài: Trích đoạn “Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục” 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. 4.1. Đối tượng Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là vấn đề dạy học hài kịch “Trưởng giả học làm sang” của Môlie trong chương trình THCS (Trích đoạn “Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục” – sách giáo khoa Ngữ văn 8 - tập 2). Trong quá trình thực hiện Tiểu luận tốt nghiệp khoá học, chúng tôi sử dụng chủ yếu là văn bản “Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục”. (Trích “Trưởng giả học làm sang”), (sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 2, NXB giáo dục, 2004, từ trang 117 đến trang 122). Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo thêm hài kịch “Trưởng giả học làm sang” của Môlie. 4.2. Phạm vi nghiên cứu. Đề tài này chúng tôi chỉ đi nghiên cứu về tác phẩm “Trưởng giả học làm sang” từ góc độ là một tác phẩm kịch được đưa vào chương trình SGK Ngữ văn 8 - tập 2 để đưa ra những phương pháp, biện pháp dạy học nó một cách có hiệu quả nhất. 5. Phương pháp nghiên cứu. Phương hướng tiếp cận vấn đề của chúng tôi chủ yếu là tiếp cận hệ thống phát huy sự chủ động tích cực của người học và tích hợp Ngữ văn. Trong quá trình thực hiện Tiểu luận khoa học này, chúng tôi còn sử dụng những phương pháp cụ thể như: - Phương pháp đọc – hiểu. - Phương pháp so sánh - đối chiếu. - Phương pháp khảo sát - thống kê. - Phương pháp phân tích – tổng hợp. 6. Cấu trúc của Tiểu luận khoa học. Ngoài phần mở đầu và kết luận, Tiểu luận khoa học này chia làm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý thuyết. Chương II: Tác giả, thời đại, văn hoá, tác phẩm lớn. Chương III: Định hướng dạy học.

doc52 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 12201 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Dạy học kịch trưởng giả học làm sang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hong kiến cát cứ địa phương. Sự phát triển của giai cấp tư sản là chỗ dựa của chính quyền chuyên chế tập trung để chống lại các thế lực phong kiến cát cứ địa phương. Sự phát triển của giai cấp tư sản còn mang lại cho nhà nước quân chủ tập trung một nguồn lợi to lớn. Giai cấp tư sản thế kỉ XVII đã cung cấp cho chính quyền phong kiến một hệ thống nhân viên trong đó một số giữ chức những chức vụ trọng yếu trong bộ máy nhà nước phong kiến tập trung. Các nhà văn lớn của thế kỉ cũng xuất hiện từ tầng lớp viên chức có văn hóa này như P.Cornay, J.Raxin, J.B.molie, N.D.Boalo, J.Đờ Laphongten.... Song song với sức mạnh của giai cấp tư sản là quá trình suy thoái của tầng lớp quý tộc. Tư tưởng phong kiến cát cứ bị đánh bại, bọn quý tộc bị lãnh chúa phong kiến từng một thời xưng hùng, xưng bá ở các địa phương nay thất thế bị dồn vào cung đình sống bằng lộc bố thí và ân huệ ban phát của nhà vua. Tuy nhiên tầng lớp quý tộc vẫn giữ nhiệm vụ bảo vệ chế độ phong kiến và duy trì sự thống trị của giai cấp này. Nhưng hình thức nhà nước thì đã thay đổi: Nhà nước quân chủ chuyên chế - còn gọi là Nhà nước quân chủ tuyệt đối ra đời. Sự xác lập chế độ quân chủ chuyên chế là biểu hiện về chính trị của quá trình phong kiến tan rã và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển. Do đó nhà nước quân chủ chuyên chế là hình thức nhà nước của một thời kì quá độ trong đó lực lượng so sánh giữa phong kiến và tư sản đang ở thế cân bằng. Đó cũng là một sự thỏa hiệp về mặt nhà nước giữa hai thế lực phong kiến và tư sản. F.Ăngghen đã xác định nhà nước quân chủ chuyên chế “thế quân bình đối lập giữa phong kiến và tư sản ”. C.Mác cũng viết “nền quân chủ tuyệt đối ra đời trong những thời kì quá độ, khi các đẳng cấp phong kiến cũ phân hóa, còn đẳng cấp thị dân Trung cổ thì biến thành giai cấp tư sản hiện đại, nhưng chưa bên nào của các phái đối lập mạnh hơn bên nào...”. Như vậy trong điều kiện lịch sử đó đã xuất hiện và tồn tại một thế cân bằng lịch sử. Sự xuất hiện thế cân bằng trong chính trị giữa hai lực lượng quý tộc và tư sản là một yếu tố lịch sử - xã hội quan trọng nhất có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của xã hội, đến sự hình thành và phát triển dòng văn học cổ điển chủ nghĩa, dòng văn học chính thống của thế kỉ XVII. Cùng với thế cân bằng lịch sử là tư tưởng trung dung, khoan hòa – tư tưởng lớn của thời đại và cảm hứng về quốc gia, về tuân thủ nghĩa vụ công dân, sẽ là những lăng kính thẩm xét con người của các nhà văn cổ điển chủ nghĩa. Năm 1634, Viện hàn lâm Pháp được hình thành. Đây là chủ chương lấy văn nghệ phục vụ cho sự nghiệp thống nhất quốc gia do Hồng y giáo chủ “Tể tướng” Risolio đề xướng và thực hiện. Ông đã tập trung các nhà văn, các nhà nghệ sĩ, các nhà phê bình...về sống ở cung điình với một chế độ trợ cấp lương bổng ổn định. Ý thức phục vụ cho sự thống nhất và ổn định là một đặc điểm lớn trong sáng tác của các nhà cổ điển. Cảm hứng về quốc gia đã trở thành nội dung chính của thời đại. Tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống đều được quy định nghiêm ngặt. Nghĩa vụ phụng sự tổ quốc được đề cao. Cái gì không phù hợp với lợi ích quốc gia thì bị coi là không hợp lí. Sau khi cuộc nổi loạn La Phrongdo (từ 1647 đến 1653) bị dập tắt, nước Pháp đi vào thời kì phát triển mạnh mẽ nhất. Đây là thời kì hoàng kim của Lu-i XIV – của Đại thế kỉ. về kinh tế chính trị, J.B.Cônbe – trợ thủ đắc lực của vua đã tích cực bảo hộ các hình thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa, thi hành chủ nghĩa khuyến thương nhằm đem lại lợi nhuận cho công quỹ, tăng thêm sức mạnh quân sự làm áp lực cho các hoạt động kinh tế, kiến thiết nhiều lâu đài nguy nga, đồ sộ. Cônbe đề cao lĩnh vực kĩ nghệ, ông coi “Kĩ nghệ là lĩnh vực kinh tế của nhà nước, là yếu tố quan trọng cho sự phát triển xã hội”. Lợi nhuận ùn ùn đổ về nước Pháp. Nhờ vậy, Lu-i XIV đã có đủ khả năng để xây dụng một đội quân tinh nhuệ thường trực đông đảo. Đồng thời ông cũng cho xây dựng những lâu đài, cung điện tráng lệ mà tiêu biểu là hệ thống cung điện Vecxay, niềm tự hào của nghệ thuật kiến trúc cổ điển Pháp. Về văn hóa nghệ thuật, Sapholanh – cánh tay phải của “Vua mặt trời” đã cho lập thêm hàng loạt Viện hàn lâm nghệ thuật và khoa học, bảo trợ các nhà văn hóa văn nghệ, tổ chức các sinh hoạt văn hóa văn nghệ ở cung đình biến Vecxay trở thành trung tâm văn hóa toàn quốc trong những năm 60 – 70 của thế kỉ. Tất cả đều nhằm đề cao cá nhân Lu-i XIV và triều đại của ông ta, nhưng khách quan có tác dụng phát triển kinh tế, thúc đẩy văn hóa, củng cố quốc phòng, nâng cao được địa vị, uy tín quốc tế của nước Pháp. Đó là lí do khiến thế kỉ XVII ở Pháp được gọi là “Thế kỉ của Lu-i XIV”, là “thế kỉ vĩ đại”. Văn hóa Pháp là một trong những cái nôi văn hóa của Châu Âu, nền văn hóa Pháp được xây dựng và phát triển qua hàng ngàn năm cùng với dòng phát triển lịch sử đất nước từ hàng trăm năm trước công nguyên. Văn hóa Pháp đã tồn tại song song với các thời kì phát triển rực rỡ nhất, mang tính cột mốc của nền văn hóa nhân loại: Thời kì la mã cổ đại, thời kì phong kiến trung đại và thời kì phục hưng, cho đến cuộc cách mạng tư sản vào thời kì hiện đại. Nền văn hóa đồ sộ độc đáo này vẫn tiếp tục được người Pháp bảo tồn và gìn giữ cẩn thận. Đến Pháp để thưởng thức nhiều công trình kiến trúc, nghệ thuật, văn học cổ đại tồn tại ngay trong lòng đất nước hiện đại bậc nhất của Châu Âu. Nước Pháp trở thành trung tâm chính trị, trung tâm của các hoạt động xã hội của các thế lực phong kiến Châu Âu. Nhờ có địa vị độc tôn về quân sự và chính trị, nhờ sự phát triển mạnh về kinh tế, nước Pháp vươn lên chiếm địa vị hàng đầu trong lĩnh cực tư tưởng văn hóa. Nền văn hóa Pháp ở thế kỉ này đã đạt được những thành tựu lớn lao, ảnh hưởng và chi phối mạnh mẽ các nền văn hóa Tây Âu khác. Do đó khi nói tới thế kỉ XVII trong văn học Tây Âu người ta chỉ cần nói đến nền văn học Pháp với đỉnh cao là chủ nghĩa cổ điển. Vào thời đại ấy, các buổi biểu diễn nghệ thuật thực sự đã trở thành những ngày hội lớn được trang hoàng lộng lẫy, được tổ chức quy mô, đời sống xa hoa khiến các nước khác phải thèm khát. Các nhà thơ, nhà văn đông đảo, ra sức đem tài năng và trí tuệ ra để thi thố, phục vụ và kiếm sống. Các tác phẩm lớn bất hủ cũng ra đời. Vì thế nền văn hóa Pháp thế kỉ này còn măng đặc điểm một nền văn hóa cung đình. Năm 1683, Cônbe chết, tạo nên sự chuyễn hướng mới của đời sống vất chất và tinh thần Pháp cuối thế kỉ XVII. Chính sách kinh tế Cônbe bị vứt bỏ, gánh nặng về chi phí quân sự do chiến tranh Hà Lan, Anh dẫn đến sự suy sụp về kinh tế. Còn vua Mặt trời Lu-i XIV ngày càng trở nên độc tài. Với bộ quần áo đi săn Lu-i XIV bước vào Pháp viện và ngang nhiên tuyên bố: “Nhà nước chính là ta đây”. Thế kỉ XVII đi vào giai đoạn suy tàn của nó với đói rét, chiến tranh và thất nghiệp. Cuộc tranh luận giữa phái cũ do Boalo đứng đầu và phái mới do Fongtonen lãnh đạo nổ ra vào cuối thế kỉ và chấm dứt bằng sự thắng thế của phái Fongtonen, đánh dấu một giai đoạn lịch sử mới: Giai đoạn nước Pháp chuyển mình bước vào thời đại Ánh sáng. Nói đến thế kỉ XVII ở Pháp, không thể không nói tới chủ nghĩa duy lí của R.Đecacto – một thành tựu lớn mà giai cấp tư sản đạt được trong lĩnh vực triết học. Rone Đecacto (1596 – 1650) là nhà khoa học tự nhiên nổi tiếng với nhiều công trình nghiên cứu có giá trị và ông cũng là nhà văn, nhà triết học lớn. Ông sáng lập chủ nghĩa duy lí mang tên ông, chỉ thừa nhận nhận thức lí tính là chân lí duy nhất đúng của con đường nhận thức thực tiễn. Ông đề cao lí trí, coi lí trí là sự thẩm định tối cao, mọi việc, mọi nhận xét đều phải đi qua con đường tư duy. Một đóng góp quan trọng nữa của R.Đecacto là nghiên cứu của ông về con người. Ông coi con người như là một bản chất tự nhiên được tạo thành bởi một phần của tự nhiên và một phần của xã hội Chủ nghĩa duy lí thể hiện niềm tin vào sức mạnh của tư duy, của trí tuệ con người, khẳng định con người và làm phá sản uy tín thần học. Nó là ngọn đèn pha, là vũ khí chiến đấu sắc bén của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống lại các tín điều tôn giáo mù quáng, chống lại các thế lực phong kiến thống trị. Như vậy, thế kỉ XVII là một giai đoạn quan trọng trong lịch sử văn học thành văn của nhân dân, dân tộc Pháp. Với nhiều tác giả, nhiều tác phẩm văn học xuất sắc trong thời kì này vẫn sống mãi trong sinh hoạt văn hóa nghệ thuật hiện đại của thế giới. 2. Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Môlie. 2.1. Cuộc đời của Môlie A.Jang Baptixto Pocolanh (Môlie) sinh tại Pari, trong một gia đình tư sản hầu cận nhà vua. Khoảng 1636 – 1639, ông được dạy dỗ chu đáo ở trường trung học Clecmong nổi tiếng. Trong thời gian này, ông tỏ ra đặc biệt yêu thích văn chương, nhiệt thành với triết học và chịu ảnh hưởng của Gaxangdi. Cha ông định cho ông học luật và thừa kế chức vụ hầu cận nhà vua trong cung đình, nhưng Pocolanh lại chọn sân khấu, gắn bó với một thứ nghề nghiệp thấp hèn vào thời đó. Năm 1643 Pocolanh làm quen với nữ diễn viên Madolen Beja và cùng với anh em nhà Beja xây dựng nên “Đoàn kịch Trứ danh”. Thiếu kịch bản, thiếu diễn viên tốt, nên mặc dù đã hết sứs cố gắng nhóm thanh niên mê say sân khấu này vẫn không thu được kết quả gì đáng kể. “Đoàn kịch Trứ danh” tan dã vào năm 1645. Cuối năm đó, Pocolanh – lúc này đã lấy tên là Môlie quyết định cùng anh em nhà Beja rời Pari về các tỉnh nhỏ. Suốt 15 năm trời (1643 – 1658) khó khăn, thiếu thốn, Môlie và các bạn của ông đi lang thang khắp nước Pháp. Dọc đường, sáp nhập với một đoàn khác, đoàn kịch của Môlie đã đi qua và biểu diễn ở nhiều nơi. Mười lăm năm lưu lạc giang hồ chính là thời gian chuẩn bị cho Môlie một sự nghiệp sáng tác lớn. Nó giúp Môlie hiểu biết và tích lũy thêm nhiều thực tế cuộc sống và kinh nghiệm sống trong xã hội Pháp vào lúc đang có vụ nổi loạn La Frongdo. Nó giúp Môlie tiếp xúc rộng rãi với các gánh hát rong ở các địa phương, học tập ở họ, cạnh tranh với họ. Nó giúp Môlie kiểm tra lại mình, nhận thức rõ về mình với tất cả chỗ mạnh, chỗ yếu và hướng đi lâu dài. Môlie – người diễn viên, người đạo diễn, người sáng tác kịch bản, người lãnh đạo đoàn kịch – đã trưởng thành lên từ 15 năm gian khổ không thể thiếu được đó. Từ 1650, Môlie đã trở thành người đứng đầu đoàn kịch và đã có điều kiện để xây dựng dần một số tiết mục sân khấu đặc sắc. Ông bắt đầu viết những kịch hề và hài kịch trong đó vận dụng những kinh nghiệm của kịch mặt nạ Italia về kĩ thuật, về hành động, về tính cách...Những vở kịch đầu tay của Môlie – Chàng ngốc (1655), Ghen (1656) báo hiệu một tài năng xuất sắc. Thành công của đoàn kịch Môlie vang đến tận kinh đô Pháp. Năm 1658, đoàn kịch được nhà vua cho gọi về Pari. Ở đây, Môlie ra mắt triều đình với vở kịch hề Thầy thuốc si tình. Kịch được trình diễn có kết quả, đoàn kịch Môlie được giữ lại ở Pari và được dành cho rạp hát của triều đình là Poti Buocbong để biểu diễn. Sau một năm hoạt động, vừa diễn những vở cũ, vừa tuyển mộ thêm những diễn viên mới có tài, năm 1659 Môlie đưa lên sân khấu vở kịch Những ả kiểu cách rởm. Tác giả bị bọn quý tộc phong kiến căm ghét mặc dù ông chỉ đả kích bọn “giả làm quý tộc”.Từ đây, cuộc đời Môlie bước vào một giai đoạn mới – đấu tranh xây dựng một nền nghệ thuật sân khấu dân tộc, hiện thực, tiến bộ. Những tác phẩm lớn của Môlie ra đời liên tiếp, mỗi vở kịch là một đòn giáng mạnh vào bọn quý tộc, nhà thờ và chế độ chuyên chế. Cũng vì thế, Môlie không ngừng phải chống trả quyết liệt với phản ứng điên cuồng của những lực lượng thù địch. Đồng thời, Môlie lại phải luôn đương đầu với những tác gia, những diễn viên kình địch không ngớt lên án ông là không tôn trọng quy tắc cổ điển, báng bổ tôn giáo, vi phạm quy tắc hợp thức và làm hại khiếu thẩm mĩ. Quá trình đấu tranh đã khiến Môlie trở thành nhà sáng tác vĩ đại, nhà nghệ sĩ lão luyện, nhà tổ chức và nhà giáo dục có tài. Năm 1662, Môlie cho diễn Trường học làm vợ lên án quan điểm phong kiến vô nhân đạo, trái tự nhiên, vô hiệu quả trong việc giáo dục phụ nữ. Vở kịch khiến bọn phản động tức tối, xúm lại chống Môlie. Cả những thành viên của rạp Oten do Buocgonho cũng rất hăng hái trong vụ này. Chỉ có Boalo là người vẫn nhiệt tình bênh vực Môlie. Trả lời những thế thù địch thuộc đủ các loại, Môlie viết hai vở kịch ngắn: Phê bình trường học làm vợ và Kịch ứng tác ở Vecxay (1663) vẽ lên bức tranh châm biếm về các nhà phê bình và giễu cợt một số điển hình xã hội. Trong giai đoạn 1664 – 1666, Môlie viết ba vở hài kịch lớn với những tư tưởng triết học và xã hội phong phú: Tactuyp (1664), Đông Juang (1665), Anh ghét đời (1666). Đây là những đòn trí mạng đối với nhà thờ, giai cấp quý tộc và xã hội Pháp cuối thế kỉ XVII. Những thế lực phản động được triều đình che chở lập tức la ó om xòm, hùa nhau tìm cách đe dọa, hành hung Môlie. Đây là giai đoạn đấu tranh căng thẳng nhất của Môlie. Sau đó cuộc đời hoạt động nghệ thuật của Môlie bớt sôi động hơn với những vở Lão hà tiện (1668), Trưởng giả học làm sang (1670), Những bà thông thái (1672), Người bệnh tưởng (1673)... Nhiều lần tính mạng bị đe dọa và xúc phạm nhưng may mắn thay Môlie luôn được vua Lui-XIV ưu ái và che trở cho ông. Ngày 17/11/1673, trong đêm diễn thứ tư vở Người bệnh tưởng, đóng vai nhân vật chính, Môlie đã kiệt sức trên sân khấu. Ông được đưa ngay về nhà và chỉ hơn một giờ sau thì chết. Nhà thờ vốn thù ghét Môlie, nay ngăn cản việc mai táng ông theo nghi thức của tôn giáo. Vợ ông phải phục xuống chân vua Lui XIV hết lời cầu khẩn nhờ nhà vua giúp đỡ mới được phép chôn ông vào lúc đêm khuya, ở nghĩa địa của nhà thờ. Môlie và vua Lui XIV Đời hoạt động của Môlie là cuộc đời, một mặt thì kiên trì rèn luyện trong thực tế vĩ đại của nhân dân, một mặt thì đấu tranh không khoan nhượng với những lực lượng xã hội đen tối, cống hiến trọn vẹn cho nghệ thuật chân chính. Chỉ riêng cuộc đời ấy cũng khiến Môlie trở nên bất hủ. 2.2. Sự nghiệp sáng tác của Môlie Trong 30 năm hoạt động sân khấu, quá trình sáng tác của Môlie đã hình thành qua bốn giai đoạn chính: * Giai đoạn thứ nhất: 1645 – 1658 Đây là giai đoạn lang thang, phiêu bạt của Môlie. Sáng tác chủ yếu là kịch hề. Phần lớn kịch bản đã thất lạc cả. Một vở còn giữ lại được: Thằng ngốc (1655). Đây là vở kịch 5 màn, sáng tác theo nguyên tắc kịch hề, cốt chuyện mượn được của văn học Italia. Kịch đã chắp vá vụn vặt các sự kiện. Tính cách nhân vật chưa hình thành rõ. Nhiều trò hề được đưa lên sân khấu. Đáng chú ý là nhân vật Maxcarin. Đây là hình ảnh người bình dân có địa vị xã hội thấp, nhưng bản chất tốt, có tài năng có trí tuệ vượt xa các nhân vật thuộc tầng lớp trên. Bằng mưu trí, tính tích cực, năng động, Maxcarin đã giúp cho đôi trai gái yêu nhau vượt qua được những trở ngại do ông bố keo kiệt gây ra, thỏa mãn được nguyện ước riêng. Maxcarin có những nét tâm lí rõ rệt. Vở kịch có khá nhiều câu thơ hay. * Giai đoạn thứ hai: 1659 – 1663 Đây là giai đoạn trưởng thành. Đáng để ý là vở Những ả kiểu rởm (1659). Đến vở này, tính chất hề vẫn còn nhiều (hóa trang, hành động, ngôn ngữ...) nhưng ý nghĩa xã hội đã sâu sắc: đả kích bọn quý tộc ăn bám, nghèo nàn về đạo đức và tâm hồn. Những vở Trường học làm chồng (1661), Trường học làm vợ (1662) có cùng một đề tài nhưng vở trên sơ lược, ý nghĩa xã hội hẹp (đấu tranh giữa hai quan điểm về hôn nhân, gia đình và sự giáo dục con cái), vở dưới mở đầu một thời kì sáng tác mới có nhiều thành công lớn. Nó có màu sắc xã hội rõ rệt qua sự vạch trần nguyên nhân xã hội chủ nghĩa của ngu dân, thói chuyên quyền, độc đoán qua sự lên án suốt lượt, từ nhà thờ đến chế độ chuyên chế, đến bọn tư sản nhiễm thái độ phong kiến. Tính cách của một số nhân vật đã hình thành rõ và có những bước phát triển. Bố cục chặt chẽ. Kịch cũng còn một số yếu tố hề. Được trình diễn liên tiếp trên sân khấu, vở kịch gây một dư luận sôi nổi. Kẻ thù của Môlie kết tội: vở kịch phỉ báng tôn giáo, vô đạo đức, thiếu thẩm mĩ...Có nhà quý tộc đã định hành hung Môlie. Có nhà văn đã đưa Môlie lên sân khấu làm trò cười. Để trả lời và bênh vực quan điểm nghệ thuật của mình, Môlie viết liền hai vở bút chiến: Phê bình trường học làm vợ và Kịch ứng tác ở Vecxay (1663). Những tiếng cười này càng khiến bọn kình địch với tác giả thêm căm giận, tìm cách bới móc bẩn thỉu hòng bôi nhọ ông. Những thủ đoạn đấy dù xấu xa, độc địa vẫn không làm giảm uy tín và tác dụng của Môlie trong triều đình Lu-i XIV. * Giai đoạn thứ ba: 1664 – 1666 Đây là giai đoạn đánh dấu đỉnh cao phát triển của hài kịch Môlie với những kiệt tác: Tactuyp (1664), Đông Juang (1665), Anh ghét đời (1666)...Những tác phẩm này là những đòn tấn công liên tiếp, dữ dội vào hiện thực đen tối của thời đại. Với tiếng cười nhạo báng sâu cay, Tactuyp là lời tuyên chiến công khai với toàn bộ tôn giáo, từ thầy tu đến nhà thờ, đến giáo lí; Đông Juăng là lời kết án đanh thép đối với bọn quý tộc phóng đãng, sa đọa, hư vô chủ nghĩa; Anh ghét đời là sự phủ nhận quyết liệt đối với hết thảy xã hội đạo đức giả cuối thế kỉ XVII dưới triều Lu-i XIV. Thái độ phê phán gay gắt của Môlie khiến hài kịch của ông giai đoạn này mang một số yếu tố không phù hợp với những quy tắc quen thuộc của sân khấu cổ điển chủ nghĩa nhưng lại có sức biểu hiện lớn: văn xuôi, không duy nhất về địa điểm, nhân vật hành khất, kết thúc rùng rợn (Đông Juang), sự xen lẫn bi, hài gây cảm giác buồn thảm, cay đắng (Anh ghét đời). Giá trị hiện thực của các tác phẩm này rất lớn, rất sâu tuy mục tiêu đả kích trước mắt nói chung vẫn là thói đạo đức giả. * Giai đoạn thứ tư: 1667 – 1673 Đây là giai đoạn chuyển hướng, chĩa mũi nhọn vào giai cấp tư sản và những quan hệ của giai cấp này. Môlie phát hiện sự ra đời của bọn tư sản mới làm giàu bằng con đường cho vay nặng lãi ở Pháp qua vở Lão hà tiện (1668). Ông giễu cợt xu hướng ngoi lên quý tộc của những kẻ lắm tiền ở Trưởng giả học làm sang (1670) và Người bệnh tưởng (1673). Trong vở kịch hề Những ngón bịp của Xcapanh (1671), Xcapanh là một kiểu nhân vật mới – xuất thân từ bình dân, có ý thức về vai trò của mình trong đời sống xã hội, báo hiệu sự trỗi dậy của lớp người bậc thang đẳng cấp cuối cùng của xã hội vươn lên làm chủ cuộc đời mình và làm chủ xã hội. Ngoài những hài kịch phong tục và hài kịch tính cách, Môlie còn có một số hài kịch balê nhằm phục vụ những cuộc ăn chơi của vua chúa trong cung đình. Những vở này ít giá trị, và hình như Môlie cũng không chú ý đến chúng nhiều lắm. 3. Phong cách sáng tác. Là nhà văn tiêu biểu của văn học Pháp thế kỉ XVII. Môlie sáng tác theo những nguyên lí mĩ học của chủ nghĩa cổ điển nhưng ông không bằng lòng chịu bó mình trong một khuôn khổ chật hẹp của những nguyên lí mĩ học ấy (tôn sùng lí trí, mô phỏng tự nhiên, học tập cổ đại). Bên cạnh đó, Môlie còn mang tinh thần duy vật, nhận xét, phê phán các hiện tượng xã hội, các tính cách đáng chê cười. Theo ông “Mô tả cái xấu của con người đó là cách tuyệt diệu để giáo dục họ”. Một trong những nguyên lí của mĩ học cổ điển là nguyên tắc mô tả tự nhiên, mượn lời một nhân vật trong “Phê bình trường học làm vợ”, Môlie nói: “Khi anh vẽ, người anh phải vẽ theo tự nhiên. Nếu không làm cho người xem nhận ra được những con người của thời đại mình thì anh chẳng làm được cái gì hết”. Về những quy tắc sáng tác sân khấu cổ điển, Môlie có một cách hiểu rộng rãi phù hợp với yêu cầu cơ bản của thời đại mà vẫn thích hợp với việc phản ánh chân thực hiện thực. Ngoài ra, khi nói đến đặc điểm phong cách hài kịch Môlie thì phải nói đến: * Nghệ thuật xây dựng tính cách Một bộ phận quan trọng trong gia tài hài kịch của Môlie là những hài kịch tính cách. Những hài kịch này phản ánh xu hướng đi vào lòng người, mô tả tâm lí, nghiên cứu của chủ nghĩa cổ điển nói chung. Để làm rõ các tính cách khiến chúng đạt tới mức điển hình trong khuôn khổ của sân khấu cổ điển, Môlie đã chọn con đường riêng. Ông tập trung cao độ vào tính cách, thậm chí vào nét cơ bản nhất trong tính cách. Ông tước bỏ những chi tiết phụ, rắc rối, đối lập, không lợi cho sự chú ý theo dõi và sự xác định tính cách. Trong hài kịch tính cách của Môlie, chỉ còn thấy hiện lên một tính cách cụ thể, dễ nhận, dễ phân biệt. Mỗi nhân vật là hiện thân của một tính cách nhất định: hoặc đạo đức giả, hoặc hà tiện, hoặc thông thái rởm...Những tính cách khác nếu có đều phải lùi xuống hàng dưới nhằm phục vụ cho tính cách chủ yếu. Đặc diểm của những tính cách này là tính hài kịch bộc lộ ở óc chủ quan, ngộ nhận và cố chấp. Nhân vật hài kịch có những sai lầm, những tật xấu hiển nhiên, không nguy hiểm chết người nhưng không sao tránh khỏi thất bại, nhưng nhân vật ấy lại tin chắc rằng mình nghĩ và làm đúng, mình nắm lẽ phải, mình sẽ thắng, và khăng khăng không chịu thừa nhận thực tế khác quan. Đầu óc đầy ảo tưởng, nhân vật trở nên hài hước, lố bịch, đáng bị chê cười. Để khắc họa tính cách, và cũng để tăng cường tính hài kịch, Môlie còn hay dùng một biện pháp quen thuộc – cường điệu tính cách, đẩy tính cách lên tới ranh giới của sự phi lí, khó tin, không “giống như thật”. Nhưng nghệ thuật cường điệu của Môlie hoàn toàn không phải là một sự phóng đại tùy hứng, chủ quan, mà vẫn gắn bó với hiện thực, có cơ sở thực hiện chắc chắn, nên có sức mạnh và được thừa nhận. Trước mắt người xem, sừng sững hiện lên một tính cách cụ thể nào đấy, mạnh mẽ, rắn chắc, có phần quá khích và trào lộng; chỉ mới nhìn thấy nó người ta đã không nhịn được cười. * Nghệ thuật gây cười Môlie là nhà hài kịch vĩ đại không chỉ vì nghệ thuật xây dựng tính cách mà còn vì nghệ thuật gây cười bậc thầy. Sự tinh tế, nhạy cảm của nhà tư tưởng sâu sắc, của người nghệ sĩ tài ba giúp cho ông, trong khi quan sát cuộc sống, đã phát hiện ra các khía cạnh hài hước trong các hiện tượng, tính cách – kể cả những đối tượng có vẻ trang trọng, tôn nghiêm, đáng kính nhất. Đây là điểm ưu việt của Môlie trong một điều kiện mà sự lộng lẫy vàng son của triều đình Lu-i XIV, lối sống phong nhã của tầng lớp quý tộc nhàn du, bộ mặt uy nghi của tôn giáo, ánh lấp lánh của đồng tiền vàng tư bản chủ nghĩa...có thể dễ dàng đánh lừa con mắt. Phải có cái nhìn của quần chúng lao động, của tầng lớp tiên tiến trong giai cấp tư sản đang lên, Môlie mới khám phá ra được những mâu thuẫn kín đáo, những nét kệch cỡm trong xã hội đang lỗi thời dần, đáng cười để mà tống tiễn vào quá khứ. Là một nhà nghệ sĩ trưởng thành từ thực tiễn hoạt động nghệ thuật trong lòng quần chúng nhân dân, Môlie đã tiếp thu và nâng cao các biện pháp gây cười của kịch hề dân gian Pháp. Những cảnh lầm lẫn, đánh lộn huyên náo, những điệu bộ và lời nói nhại tức cười, nhân vật hề quen thuộc của sân khấu dân gian... xuất hiện thường xuyên trong hài kịch của Môlie làm cho sân khấu của ông mang hơi thở nồng nàn của cuộc sống, của nhân dân. Gắn bó với truyền thống của kịch hề là hình ảnh người bình dân, thông minh, nhanh nhẹn, tự tin, luôn luôn vang lên tiếng cười lạc quan khỏe khoắn. Tuy ở địa vị thấp hèn, sống phụ thuộc vào các gia đình quý tộc, tư sản, người bình dân trong hài kịch Môlie là hình ảnh đẹp đẽ, trong sáng của chân lí, chính nghĩa, nói lên tiếng nói tích cực của nhân dân và của bản thân tác giả. Hình ảnh này mang ý nghĩa phê phán rất sâu sắc đối với các tính cách hài kịch mà vẫn làm cho sân khấu của Môlie thêm trẻ trung, tươi tắn. Độc đáo nhất ở hài kịch vô song này là sự phát hiện ra những khía cạnh bi đát của cuộc sống rồi biểu hiện nó dưới hình thức hài kịch. Nhiều vở kịch của Môlie làm người ta cười vỡ bụng, nhưng đằng sau những trận cười lại là một dư vị đắng cay, tê tái đến mức có thể làm rơi nước mắt. Nhà thơ Anfre Đơ Muyxe đã nói đến “sự buồn thảm”, “sự sâu sắc” trong cái hài của sân khấu Môlie. Hài kịch của Môlie không như hài kịch của Secxpia, không cười vì niềm vui của một cuộc sống mới gắn liền với những ấn tượng mạnh mẽ về hòa bình, tự do, ấm no và hạnh phúc. Môlie cười để phê phán, để góp sức chôn vùi những thói tật, “những hình thái lịch sử” đã hết thời, và để sửa chữa những tính cách chủ quan, phi lí, đầy ảo tưởng, mâu thuẫn với chiều hướng phát triển tự nhiên của sự việc. Môlie không dừng lại ở việc tái hiện cái nghịch cảnh ngộ nghĩnh bề ngoài, ở việc gây tiếng cười dễ dãi trong chốc lát. Ông dấu kín ở bên trong tiếng cười những vấn đề nghiêm trang nhất, những vấn đề xã hội lớn, những nỗi đau, những mối lo về cuộc sống trong những năm nghẹt thở dưới nền độc đoán của Lu-i XIV. Tiếng cười của Môlie có ý nghĩa triết lí và xã hội là vì vậy. Dẫu sao, Môlie vẫn là nhà hài kịch. Ông đã dừng lại đúng lúc, khi sân khấu của ông mấp mé sân khấu bi kịch. Chỉ một vài tiểu xảo, một lớp hề cũng đủ xua tan những ám ảnh đen tối, đưa người ta về với cuộc sống trước mắt, dù còn nhiều cái hài hước, lố bịch, nhưng vẫn có khả năng cải tạo vì còn có quần chúng có lương tri. * Nghệ thuật kịch Hài kịch của Môlie rất phong phú tính hiện thực. Chúng thường dựa vào nhiều cốt chuyện sẵn có thuộc nhiều nguồn khác nhau, nhưng đều quen thuộc với đa số công chúng Pháp và được làm sống dậy với vô số những chi tiết đích thực là của cuộc sống trước mắt. Không ít trường hợp, Môlie đưa ngay hiện thực nóng hổi tính thời sự của xã hội Pháp ở nửa sau thế kỉ XVII lên sân khấu và giải quyết vấn đề theo quan điểm tiến bộ nhất của lịch sử. Đề tài và cách xử lí đề tài của Môlie có căn cứ ở cuộc sống và phục vụ cho cuộc sống. Hài kịch Môlie do đó ngẫu nhiên là một bộ phận của cuộc sống, đã tham gia tích cực vào việc thúc đẩy tiển trình của cuộc sống, và trở thành lợi khí đấu tranh xã hội . Tính chiến đấu của hài kịch Môlie nảy sinh từ đó. Điều đó giải thích thái độ thù hằn của các thế lực phản động với Môlie. Điều đó cũng chứng minh vị trí, những giá trị mới của hài kịch Pháp do công sáng tạo của Môlie. Nhân vật trong hài kịch của Môlie thuộc đủ mọi hạng người: bọn quý tộc phong kiến với quan niệm và lối sống dối trá, gàn dở với nền văn hóa, học thuật trống rỗng, kì quái; bọn thầy tu với những âm mưu, thủ đoạn bịt bợm bẩn thỉu, độc ác; bọn tư sản lớp trên tham lam, ích kỉ, độc đoán, học đòi; bọn đại diện cho nhà nước chuyên chế huyên hoang, bất nhân, bất nghĩa... Tất cả làm nên bộ mặt tinh thần của cái xã hội giả dối, trái tự nhiên. Cống hiến xuất sắc của Môlie là ở sự miêu tả tài tình thói giả đạo đức – nét đặc trưng của xã hội Pháp thời đó. Với hài kịch Môlie sự giả dối ấy, tinh vi đến đâu cũng vẫn để lộ những chỗ đáng ngờ. Nó hé ra cái bên trong nếu không rỗng tuếch thì cũng xấu xa bệnh hoạn. Nó gây ngộ nhận về một xã hội đã cạn sức sống, cạn tâm hồn, do đó đáng ghê sợ. Có ý nghĩa, tác dụng lớn nhất là những người bình dân thuộc tuyến nhân vật tích cực, đối lập với các nhân vật hài kịch, đại diện cho lương tri sáng suốt, phát triển theo tự nhiên, nắm được chân lí và luôn luôn chiến thắng. Hành động trong sân khấu của Môlie khá đơn giản. Kịch thường bắt đàu bằng xu thế mỗi lúc một tập trung hơn, mạnh mẽ hơn của những thói giả dối, kệch cỡm. Sự thái quá ấy vi phạm “tự nhiên”, làm cho những đầu óc lành mạnh, tỉnh táo, gần với cuộc sống bình thường, không sao chịu đựng nổi. Thế là xảy ra xung đột giữa tự nhiên và trái tự nhiên. Những xung đột này không phức tạp, gay gắt, đòi hỏi những giải pháp quyết liệt. Chỉ một biện pháp nhỏ, khéo léo tổ chức là đủ để bắt cái hài phải hiện nguyên hình và làm cho nó xấu hổ đến chết với những tiếng cười giễu sâu cay. Màn chót của xung đột cũng vì thế nhẹ, thường phụ thuộc vào những yếu tố bất ngờ bên ngoài. 4. Tác phẩm lớn: Hài kịch “Trưởng giả học làm sang” 4.1. Cách hiểu chung về tác phẩm hài kịch “Trưởng giả học làm sang” Vở kịch “Trưởng giả học làm sang” (có bản dịch là “Gã tư sản quý tộc”) của Môlie gồm 5 hồi có xen những màn ca vũ nên gọi là vũ khúc hài kịch (gọi là màn vì mỗi hồi lại có mở màn và hạ màn). Căn cứ vào số lượng nhân vật ra sân khấu thêm hoặc bớt, mỗi hồi lại chia thành nhiều lớp, trong mỗi lớp lại có thể có nhiều cảnh. Trưởng giả học làm sang (1670) là một vở kịch tiêu biểu trong giai đoạn sáng tác thứ tư của Môlie (1667 - 1673). Trong giai đoạn này, hài kịch của ông có sự chuyển hướng. Ông chĩa ngòi bút sắc nhọn của mình vào giai cấp tư sản và những quan hệ của giai cấp này, phát hiện ra bản chất lố bịch, xấu xa của một giai cấp mới trong giai đoạn đầu của sự phát triển. Cùng với Lão hà tiện (1668), Người mắc bệnh lí tưởng (1673), “Trưởng giả học làm sang” tấn công mạnh mẽ vào những gã tư sản lắm tiền, dốt nát, học đòi, trở nên lố bịch và kệch cỡm. 4.2. Tóm tắt hài kịch “Trưởng giả học làm sang” Nhân vật chính trong tác phẩm là ông Giuốc-đanh, tuổi ngoài bốn mươi, là một người giàu có nhờ bố mẹ ngày trước làm nghề buôn dạ nên tấp tễnh, khát khao muốn trở thành quý tộc. Ông Giuốc-đanh tìm mọi cách len chân vào xã hội thượng lưu. Y bỏ tiền thuê hai người hầu nhưng chẳng có việc cho chúng làm. Tuy dốt nát, quê kệch nhưng ông muốn học đòi những người cao sang nên thuê thầy về dạy đủ các môn như âm nhạc, kiếm thuật, triết học và tìm cách thay đổi cả lối ăn mặc...Hàng tuần, lão bỏ tiền túi ra tổ chức một buổi hòa nhạc tại nhà riêng cho giống những người sang trọng. Ông ngớ ngẩn để cho mọi người lừa bịp một cách dễ dàng, từ các ông thầy rởm cho đến bác phó may và gã bá tước sa sút, suy đồi Đôrangto. Có tiền, lão nảy sinh những ham muốn kệch cỡm, lão muốn tỏ tình với nữ hầu tước Dôrimen xinh đẹp, quyền quý nên ông muốn nhờ Đôrangto thực hiện giấc mộng quý tộc lại còn nhờ gã để bắt mối nhân tình với Dôrimen, mà bà ta chẳng phải ai khác lại chính là tình nhân của Đôrangto. Đôrangto đã lợi dụng sự ngờ nghệch của Giuốc-đanh để vay tiền của y, để lấy tiền của y làm vừa lòng nhân tình của mình trong những bữa tiệc sang trọng tại nhà Giuôcđanh. Càng cố gắng trở thành quý tộc, ông Giuốc-đanh càng mê muội. Ông không tán thành tình yêu của con giá là Luyxin với chàng Cleông chỉ vì chàng chẳng phải là quý tộc. Cuối cùng, nhờ mưu mẹo của Côvien là đầy tớ của mình, Cleông đã cải trang làm hoàng tử Thổ Nhĩ Kì đến hỏi Luyxin làm vợ trong bộ quần áo sang trọng, lạ lẫm và được ông Giuốc-đanh ưng thuận, chấp nhận ngay. Thế là Cleông lấy được con gái của Giuốc-đanh. 4.3. Đoạn trích “Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục”. Đoạn trích là lớp kịch kết thúc hồi II của vở kịch “Trưởng giả học làm sang” (gồm 5 hồi). Tên của lớp kịch này do người biên soạn sách giáo khoa đặt. Cùng với việc mời thầy về dạy các môn học như triết học, kiếm thuật,... Giuốc-đanh học đòi may lễ phục hy vọng quần áo sẽ biến hắn trở nên sang trọng hơn. Đoạn trích được chia làm hai cảnh. Cảnh thứ nhất là màn đối đáp giữa lão Giuốc-đanh và phó may xung quanh chuyện bộ lễ phục vừa được may. Cảnh thứ hai là đối thoại giữa Giuốc-đanh và thợ phụ khi ông ta đã mặc lễ phục. Đoạn trích hướng tới đối tượng rất cụ thể là gã tư sản Giuốc-đanh và bộ lễ phục. Hành động kịch trong đoạn trích này tập trung, thống nhất để làm nổi bật tính cách dốt nát, quê kệch mà thích học đòi của Giuốc-đanh. CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC 1. Thiết kế bài giảng. Tiết 117 + 118: Bài 29 – Văn bản: ÔNG GIUỐC-ĐANH MẶC LỄ PHỤC (Trích “Trưởng giả học làm sang”) ---Môlie--- I. Mục tiêu cần đạt 1. Kiến thức - HS hình dung được lớp kịch này trên sân khấu - Hiểu được Môlie là nhà soạn kịch tài ba, đã xây dựng lớp kịch rất sinh động, khắc họa tài tình tính cách lố lăng của một tay trưởng giả học làm sang, gây được tiếng cười sảng khoái cho khán giả. 2. Kĩ năng Rèn kĩ năng đọc phân vai, kĩ năng phân tích kịch, biết cảm thụ hài kịch nước ngoài. 3. Thái độ Bồi dưỡng cho học sinh tình cảm yêu mến văn học nước ngoài, có thái độ phê phán trước những nhân vật lố lăng, quê kệch, không có kiến thức nhưng lại thích thể hiện, thích làm sang. Rèn luyện lối sống giản dị trong sáng. II. Chuẩn bị 1. Giáo viên - Sách giáo khoa, sách giáo viên, giáo án - Tranh ảnh về tác giả Môlie, về đoạn trích, bảng phụ - Phương pháp: nêu – giải quyết vấn đề, gợi tìm, phân tích, so sánh, thuyết trình... 2. Học sinh - Vở ghi, vở soạn văn. - Sách giáo khoa, sách bài tập, bài chuẩn bị. III. Tiến trình tổ chức các hoạt động dạy và học. 1. Ổn định lớp. 2. Kiểm tra bài cũ: (Không). 3. Bài mới: Hoạt động 1: Khởi động – Giới thiệu bài mới. Trải qua sự thẩm định và sáng tạo của lòng người, của thời gian, có nhiều tác phẩm không còn giá trị như lúc nó chào đời mà đã trở thành lạc hậu và bị trả về quá vãng nhưng cũng có những tác phẩm vượt qua được sự thử thách khắc nghiệt của thời gian. Đó là những tác phẩm của Môlie. Môlie và những sáng tác của ông đã làm được điều đó. Ông đã góp phần sáng tạo ra một tính cách học đòi bất hủ, để lại cho nhân loại một chuỗi cười vô giá qua hài kịch Trưởng giả học làm sang. Tác phẩm đã trở thành kiệt tác trong kho tàng văn học thế giới luôn luôn được chiêm ngưỡng và hâm mộ. Và giờ học ngày hôm nay cô và các em sẽ cùng đi tìm hiểu về vở kịch này qua trích đoạn Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục. Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh Nội dung Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác giả, tác phẩm. ? Qua sự chuẩn bị ở nhà em hãy nêu những nét chính về Môlie? GV: Giới thiệu tranh về Môlie GV: Cha của ông là một nhà buôn dạ giàu có, sau làm hầu cận nhà vua. Ông không theo nghề của cha mà bước vào nghệ thuật sân khấu. Ông cùng các nghệ sĩ khác thành lập đoàn kịch, ra mắt công chúng vào năm 1664 tại Pari nhưng không thành công. Đoàn kịch phải đóng cửa một thời gian. Về sau đoàn kịch của ông đã đi diễn ở các tỉnh nhỏ trong mười lăm năm liên tục. Trong thời gian đó Môlie vừa tham gia diễn kịch, vừa sáng tác kịch bản. Sau một thời gian, đoàn kịch do Môlie phụ trách trở về Pari, ông cho diễn vở kịch ngắn “Những bà kiểu cách rởm” và được công chúng hoan nghênh nhiệt liệt. Sau đó, đoàn liên tiếp diễn nhiều vở kịch khác nữa và cũng rất thành công. “Người bệnh tưởng” là tác phẩm cuối cùng của ông. Ông biểu diễn lần thứ tư vở kịch này đóng vai nhân vật chính và sau buổi diễn ông lên cơn đau nặng, về đến nhà ông khạc ra máu và chết lúc 10 giờ đêm. Đó là những nét chính về tác giả. ? Em hãy nêu những hiểu biết của mình về tác phẩm? Hoạt động 3: Hướng dẫn học sinh đọc, tìm hiểu chung. GV: Giọng đọc các vai cần chú ý phù hợp với công việc, vị trí và tính cách của họ. Chú ý nhấn mạnh một số từ ngữ, câu văn bộc lộ cảm xúc. GV: HS đọc xong GV gọi HS nhận xét rồi kết luận ? Em hãy kể lại tóm tắt đoạn trích này? GV: Cho HS tìm hiểu chú thích: 2, 4, 7, 8, 9, 11. - Chú ý phân biệt: Trưởng giả là xuất thân bình dân, nhờ làm ăn, buôn bán mà trở nên giàu có khác hẳn với: + Địa chủ: có nhiều ruộng đất. + Quý tộc: dòng họ cao quý. + Tăng lữ: được vua phong chức. ? Văn bản này thuộc thể loại gì? ? Em hiểu hài kịch là một thể loại như thế nào? GV: Hài kịch là một thể loại kịch trong đó tính cách, tình huống và hành động được thể hiện dưới dạng buồn cười hoặc ẩn chứa cái hài nhằm chế giễu cái xấu, cái lố bịch, cái lỗi thời để tống tiễn nó một cách vui vẻ ra khỏi đời sống xã hội. Hài kịch nhất thiết kết thúc phải có hậu. ? Căn cứ vào nội dung em có thể chia văn bản thành mấy phần? Nội dung của từng phần? ? Em có nhận xét gì về hai cảnh này? Hoạt động 4: Hướng dẫn học sinh phân tích văn bản. GV: HS chú ý phần đầu văn bản. ? Ông Giuốc-đanh và bác phó may trò chuyện xung quanh những vấn đề gì? ? Trong những sự việc đó, thì sự việc nào được ông Giuốc-đanh quan tâm hơn cả? GV: Chúng ta sẽ tìm hiểu tuần tự các trang phục mà bác phó may chuẩn bị cho ông ta. ? Đôi tất mà bác phó may chuẩn bị cho ông Giuốc-đanh đang ở trong tình trạng như thế nào? ? Bác phó may đã biện hộ ra sao? ? Còn đôi giày có gì khác so với đôi bít tất không? ? Bác phó may có ý kiến gì về đôi giày này? GV: Nhưng niềm quan tâm duy nhất của ông Giuốc-đanh và cũng là của chúng ta đó là bộ lễ phục. Mở đầu màn kịch ta thấy một tiếng reo vui sung sướng của ông Giuốc-đanh “A!... Vì bác đây” -> Vừa sốt sắng vì có áo mới, vừa phát khùng vì sự chờ đợi quá lâu bộ trang phục bị mang đến chậm. ? Em hãy tả lại bộ lễ phục cho các bạn cùng theo dõi? GV: Thời bấy giờ ở Pháp, bộ lễ phục sang trọng phải may bằng màu đen. Nhưng bộ lễ phục này lại được may bằng vải hoa, đã thế hoa lại ngược nữa chứ. Vậy trước bộ lễ phục “có một không hai”, phản ứng của từng người ra sao? Câu chuyện sẽ còn tiếp tục gây cười cho chúng ta ở những chi tiết nào? Tiết học sau chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu. Tiết 118 GV: Bác phó may đã làm cho ông Giuôc – đanh bộ lễ phục không phải màu đen, may hoa ngược. Thật không còn gì buồn cười hơn nữa. ? Ban đầu, khi tiếp xúc với bộ trang phục ông Giuốc–đanh có phản ứng gì không? ? Ông Giuốc–đanh đã thể hiện điều đó qua câu thoại nào? ? Nhưng, theo dõi tiếp cuộc thoại em thấy về sau thái độ của ông ta lại thay đổi như thế nào? GV: Bác phó may đã “vụng chèo” lại “khéo chống” bịa ra lý do: Những người quý phái đều mặc áo hoa ngược cả. Vì vậy ông Giuốc–đanh ưng thuận ngay. Đoạn này có kịch tính rất cao vì bác phó may đã “tấn công” lại ông Giuốc–đanh bằng hai đề nghị liên tiếp. - Nếu ngài muốn, thì tôi sẽ xin may hoa xuôi lại thôi mà. - Xin ngài cứ việc bảo. -> Bác phó may đã không bị trách phạt lại còn làm cho chủ lúng túng. Còn chủ thì cứ giật lùi mãi “Không, không, tôi đã bảo không mà, bác may thế được rồi” ? Đến đây, thế chủ động của ông Giuốc – đanh khi tham gia cuộc thoại đã thay đổi như thế nào? ? Tại sao tiếng cười lại bật ra ở đây? GV: Tiếng cười bật ra ở chi tiết này. Sau đó, Giuốc–đanh lại phát hiện ra bác phó may đã ăn bớt vải của mình. ? Ông Giuốc–đanh đã có phản ứng gì trước việc mình bị ăn bớt vải? ? Thái độ của bác phó may như thế nào? ? Bác phó may đã “gỡ bí” bằng cách nào? GV: Nước cờ này khá cao tay, vì nó đánh trúng tâm lý thích ăn diện của ông Giuốc–đanh. Ông ta muốn trở nên sang trọng nên đã rất chờ đợi giây phút đó. Kết quả là ông đòi mặc luôn. -> Kịch tính lại phát triển sang một sự việc mới, một tình tiết gây cười mới. GV : Bác phó may cho gọi thợ phụ vào mặc quần áo cho Giuốc–đanh theo điệu nhạc. ? Hình ảnh ông Giuốc–đanh bị lột hết quần áo, mặc bộ lễ phục vào, đi lại trên sân khấu, chân bước, miệng nói đã phụ họa cho bản chất gì của ông ta? GV: Tác giả Môlie đã chuyển tiếp từ cảnh trước sang cảnh sau của lớp kịch này rất khéo léo. Vậy kịch tính còn tăng lên như thế nào ở lớp kịch tiếp theo? Chúng ta cùng tìm hiểu. ? Sau khi ông Giuốc – đanh mặc lễ phục xong tay thợ phụ đã tôn xưng Giuốc đanh là gì? ? Có phải hắn thực lòng kính trọng Giuốc–đanh không? Mục đích của tay thợ phụ này là gì? ? Phản ứng của Giuốc–đanh sau những lời xu nịnh đó? ? Điều này đã chứng minh cho tính cách nào của ông Giuốc–đanh? GV: Điều đáng cười, đáng mỉa mai ở đây là sau mỗi lần được gọi bằng cái tên khác nhau, Giuốc–đanh lại thích thú, lại hỏi lại, lại hồ hởi và cho tiền tay thợ phụ. Khác với bác phó may “vụng chèo khéo chống”, tay thợ phụ này còn ranh mãnh hơn. Bởi anh ta đã “gãi đúng chỗ ngứa”, đã nắm bắt được tâm lý thích học đòi làm sang của ông Giuốc–đanh. Thấy bở anh ta cứ đào mãi. Mỗi lần được cho tiền, chức danh của ông Giuốc–đanh lại tăng lên một bậc -.> Càng vui sướng, tính cách học đòi làm sang càng rõ, càng mãnh liệt. Giuốc–đanh sẵn sàng cho hết tiền nếu tay thợ vẫn tiếp tục tôn xưng. ? Qua màn đối thoại với tay thợ phụ con người Giuốc–đanh càng ngày càng lộ rõ bản chất gì? GV: Xuất thân là một gã nhà quê, ít học, nhưng do buôn bán mà trở nên giàu có, Giuốc–đanh cố tình muốn học đòi làm sang để bước chân vào giới thượng lưu. Và kết quả là càng cố gắng làm sang bao nhiêu, ông ta lại càng trở nên lố lăng bấy nhiêu. ? Em có nhận xét gì về ngôn ngữ của tác giả trong văn bản này? GV: Trong lòng công chúng Pháp, và nhân dân khắp nơi trên thế giới, ông Giuốc–đanh cùng với Ácpagông (một nhân vật hài kịch của Môlie) đã trở thành những nhân vật hài kịch bất hủ. Giuốc–đanh gây ấn tượng với người đọc bởi bản tính quê mùa, ngu dốt nhưng lại thích học đòi làm sang để người khác lợi dụng cơ hội kiếm chác, bòn rút...Tất cả đã tạo ra cho chúng ta những nụ cười sảng khoái, thú vị, không bao giờ tắt. ? Nh©n vËt «ng Giu«c-®anh mÆc lÔ phôc trªn s©n khÊu khiÕn em liªn tëng ®Õn c©u chuyÖn nµo cña An-®ec-xen? Hoạt động 5: Hướng dẫn học sinh phần tổng kết, ghi nhớ. ? Nghệ thuật của văn bản? GV kết luận ? Văn bản giúp em hiểu những nội dung nào? - Gọi HS đọc ghi nhớ. Hoạt động 6: Hướng dẫn học sinh luyện tập. GV gọi HS đọc, sau đó hướng dẫn HS làm phần luyện tập. -> Môlie (1622 – 1673) là nhà soạn kịch lớn của nước Pháp thế kỉ XVII, chuyên viết và diễn hài kịch. Là người sáng lập ra hài kịch cổ điển Pháp. -> HS nghe. -> “Trưởng giả học làm sang” là vở kịch gồm 5 hồi. Đoạn trích “Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục” thuộc lớp 5 của hồi 2. -> HS đọc theo phân vai. -> HS kể tóm tắt đoạn trích. -> Trả lời và theo dõi sách giáo khoa. -> Hài kịch -> Kịch vui, gây cười -> Hs nghe. -> + Phần 1: Từ đầu ... theo nhịp của dàn nhạc: Ông Giuốc-đanh và bác phó may. + Phần 2: Tiếp theo ... đến hết: Ông Giuốc-đanh và tay thợ phụ. -> Mặc dù hai cảnh chỉ có lời đối thoại của ông Giuốc-đanh với hai nhân vật. Nhưng nhìn chung toàn bộ sân khấu có cả sự theo dõi của các nhân vật khác, có âm nhạc phụ họa nên cả hai cảnh cũng rất sôi động, vui vẻ, náo nhiệt. -> Cuộc đối thoại xoay quanh những sự việc: đôi bít tất, đôi giày, bộ lễ phục, tóc giả, lông đính mũ. -> Bộ lễ phục. -> Đôi tất chật đến nỗi đã đứt hai mắt. -> Rồi nó giãn ra ... rộng quá ấy chứ. -> Cũng chật khiến chân đau ghê gớm. -> Ngài cứ tưởng tượng ra thế. -> Hs nghe. -> Bộ lễ phục: + Không phải màu đen. + May hoa ngược -> Hs nghe. -> Ban đầu: đã lờ mờ nhận ra sự vô lý. -> HS tìm trong SGK. -> Về sau: Ưng thuận ngay. -> Hs nghe. -> Chuyển từ thế chủ động sang thế bị động. -> Bởi vì bác phó may đã lợi dụng sự ngờ nghệch về ăn mặc của ông Giuốc–đanh để “bắt nạt” ông ta. Kết quả ông Giuốc–đanh hoàn toàn tin tưởng. -> Hs nghe. -> Chỉ trích “đành là đẹp... ”. -> Bác phó may chống đỡ yếu đuối. -> Bằng cách lảng qua chuyện khác, hỏi ông Giuốc–đanh có muốn mặc lễ phục không. -> Hs nghe. -> Không biết phép lịch sự, thích khoe khoang. -> Hs nghe. -> Ông lớn, cụ lớn, đức ông. -> Muốn moi tiền của Giuốc – đanh -> Yêu cầu nhắc lại, xung sướng, cười lớn, thưởng tiền. -> Háo danh, ưa nịnh -> Hs nghe. -> Lố lăng, quê kệch, ngu dốt. -> Hs nghe. -> Trào phúng, mỉa mai, đả kích, phê phán. -> Hs nghe. -> Hs trả lời - HS trả lời - HS trả lời - HS nghe và làm I. Tác giả, tác phẩm 1. Tác giả - Môlie (1622 – 1673) sinh ra ở Pari. - Là nhà soạn kịch nổi tiếng của nước Pháp ở thế kỉ XVII, là người sáng lập ra hài kịch cổ điển Pháp. 2. Tác phẩm “Trưởng giả học làm sang” (1670) là vở hài kịch gồm 5 hồi. Đoạn trích “Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục” thuộc lớp 5 của hồi 2. II. Đọc, tìm hiểu chung 1. Đọc – kể tóm tắt 2. Giải thích từ khó (Sách giáo khoa) 3. Thể loại: Hài kịch (Kịch vui, kịch cười) 4. Bố cục 2 phần III. Phân tích 1. Ông Giuốc-đanh và bác phó may Ông Giuốc-đanh nhiều tiền thích ăn diện, muốn có vể bề ngoài sang trọng nhưng lại không có chút kiến thức nào về ăn mặc. 2. Ông Giuốc-đanh và tay thợ phụ Ông Giuốc-đanh là kẻ háo danh, ưa nịnh, lố lăng, quê kệch, ngu dốt. IV. Tổng kết, ghi nhớ 1. Nghệ thuật Ngôn ngữ trào phúng, mỉa mai, đả kích, phê phán. 2. Nội dung 3. Ghi nhớ (SGK) V. Luyện tập Hoạt động 7: Củng cố, dặn dò. 1. Củng cố. - Em hãy nhắc lại nội dung chính của tác phẩm “Trưởng giả học làm sang” và vị trí của đoạn trích này? - Những chi tiết nào gây cười cho em? 2. Dặn dò. - Đọc lại văn bản, học bài theo quá trình tìm hiểu, làm bài tập. - Học thuộc ghi nhớ. - Soạn bài: Lựa chọn trật tự từ trong câu (Luyện tập). * Rút kinh nghiệm: .................................................................................................................................................................................................................................................................. 2. Khảo sát kết quả. 2.1. Câu hỏi khảo sát. (10 câu hỏi) Đọc kĩ các câu hỏi sau và trả lời bằng cách khoanh tròn vào chữ cái đúng nhất Câu 1: Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục được trích từ tác phẩm nào? A. Trưởng giả học làm sang B. Táctuyp C. Trường học làm vợ D. Người bệnh tưởng Câu 2: Ông Giuốc-đanh là người thế nào A. Ông Giuốc-đanh là con một nhà buôn giàu có B. Ông Giuốc-đanh là một kẻ dốt nát, quê kệch C. Ông Giuốc-đanh học đòi làm sang nên bị nhiều kẻ lợi dụng moi tiền D. Cả A, B, C đều đúng Câu 3: Lớp kịch Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục có mấy cảnh A. Một cảnh B. Hai cảnh C. Ba cảnh D. Bốn cảnh Câu 4: Trong lớp kịch Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục xuất hiện những kiểu ngôn ngữ A. Ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật thể hiện qua đối thoại và độc thoại B. Ngôn ngữ trần thuật của tác giả C. Cả A, B đều đúng D. Cả A, B đều sai Câu 5: Kiểu ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật xuất hiện khi nào A. Khi các nhân vật đối đáp nhau B. Khi các nhân vật tự nói với mình C. Cả A, B đều đúng D. Cả A, B đều sai Câu 6: Khi nào tác giả dùng ngôn ngữ trần thuật A. Khi muốn cho các nhân vật đối thoại với nhau B. Khi muốn cho nhân vật tự sự nói với mình C. Khi muốn thông báo sự việc diễn ra trên sân khấu D. Cả A, B, C đều đúng Câu 7: Ông Giuốc-đanh đã sắp phát khùng lên vì những lí do nào A. Bộ lễ phục bị mang đến chậm B. Đôi bít tất lụa bị chật quá dễ rách C. Đôi giày khiến ông ta đau chân ghê gớm D. Cả A, B, C đều đúng Câu 8: Trạng thái Giuốc-đanh sắp phát khùng cho thấy ông ta là người thế nào A. Thích ăn diện nhưng không hề có kinh nghiệm ăn diện B. Nông nổi dễ bị lừa C. Cả A, B đều đúng D. Cả A, B đều sai Câu 9: Cảnh nào dưới đây có thể tạo nên tiếng cười của khán giả A. Ông Giuốc-đanh phát hiện ra bác phó may ăn bớt vải của mình nhưng bác phó may chỉ cần lảng sang chuyện khác là xong. B. Áo may hoa ngược nhưng chỉ cần bác phó may bịa ra lí lẽ là những người quý phái đều mặc áo hoa ngược là được. C. Giuốc-đanh bị bốn tay thợ phụ lột quần áo ra mặc cho bộ lễ phục lố lăng, áo ngược hoa để tỏ ra quý phái. D. Giuốc-đanh bị bốn tay thợ phụ ranh mãnh nịnh hót tôn lên ông lớn, cụ lớn, đức ông để moi tiền. Câu 10: Giá trị nghệ thuật của văn bản: Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục được tạo nên từ những điểm nào A. Xây dựng nhân vật điển hình. B. Giọng điệu dí dỏm, trào phúng, sâu sắc tạo nên tiếng cười sảng khoái cho khán giả. C. Chuyển tiếp từ cảnh trước sang cảnh sau hết sức tự nhiên và khéo léo. D. Cả A, B, C đều đúng. 2.2. Kết quả khảo sát. Với 10 câu hỏi như trên chúng tôi đã cho học sinh làm ngay sau khi giờ giảng kết thúc tại lớp 8 A,B Trường THCS Đồng Tiến – Hữu Lũng – Lạng Sơn, năm học 2010 – 2011. Kết quả khảo sát như sau: Môn Lớp Tổng số HS Giỏi Khá Trung bình Yếu Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % Văn 8A 23 3 13,1 13 56,5 7 30,4 0 0 Văn 8B 22 2 9,1 14 63,6 6 27,3 0 0 Văn 8A,B 45 5 11,1 27 60 13 28,9 0 0 KẾT LUẬN Dạy học kịch bản là một phần khó trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn các cấp nói chung và lớp 8 nói riêng. Tiểu luận này là sự thể nghiệm những kiến thức của người viết về phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại vào hướng dẫn học sinh tiếp nhận vở kịch “Trưởng giả học làm sang” của Môlie trong chương trình Ngữ văn 8 – Tập 2. Để đưa ra được những phương pháp và biện pháp dạy học vở kịch “Trưởng giả học làm sang” cụ thể là trích đoạn “Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục”, chúng tôi đã vận dụng kiến thức văn học sử để khái quát lên vài nét về thời đại, văn hóa nước Pháp, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Môlie. Đây chính là bối cảnh ra đời vở kịch này. Đặt vở kịch trong bối cảnh đó, những giá trị của vở kịch sẽ được khẳng định một cách khách quan, toàn diện theo chiều đồng đại và lịch đại. Sau đó, chúng tôi đi trình bày những nét chính về vở kịch. Đây chính là cơ sở để xác định những kiến thức của giờ dạy học kịch. Trên cơ sở xác định những giá trị tiến bộ của vở kịch, những khó khăn, thuận lợi và nguyên tắc dạy học vở kịch, chúng tôi đã đưa ra những phương pháp và biện pháp chủ yếu để dạy học vở kịch, bao gồm phương pháp đọc sáng tạo; gợi tìm; phân tích, cắt nghĩa, bình giá; nghiên cứu; tái tạo. Từ đó chúng tôi tiến hành thiết kế giáo án thể nghiệm để giảng dạy. Đóng góp lớn nhất của tiêu luận đó là đã đi xác định được phương pháp khi dạy học vở kịch “Trưởng giả học làm sang” với trích đoạn “Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục”. Đó là cơ sở chủ yếu để người giáo viên xác định cho mình được những phương pháp và biện pháp dạy học vở kịch có hiệu quả nhất. Vở kịch “Trưởng giả học làm sang” và trích đoạn “Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục” được đưa vào chương trình Ngữ văn 8 – Tập 2 là rất hợp lí. Dạy học vở kịch sẽ giúp học sinh tiếp nhận được kiến thức về thể loại kịch, một thể loại mà hiện nay chưa được chú ý trong dạy học văn. Đồng thời giúp học sinh nhận thức được một vở kịch xuất sắc của nước Pháp thế kỉ XVII. Trong quá trình dạy học hài kịch “Trưởng giả học làm sang”, chúng tôi mạo muội có một góp ý nhỏ đó là nên đưa thêm những câu hỏi nhỏ vào phần đọc – hiểu văn bản. Và có phần đọc thêm bên dưới để học sinh có thể hiểu hơn về nội dung bài này. Hoặc văn bản này có thể đưa vào hoạt động ngoại khóa trong nhà trường để học sinh có thể phát huy hết khả năng học của mình cũng như là cách diễn xuất của học sinh khi nhập vai nhân vật trong đoạn trích. Như thế học sinh sẽ được hoạt động nhiều hơn về mặt thời gian... Tầm quan trọng của tiểu luận này là rất lớn. Nhưng do thời gian và kinh nghiệm còn hạn chế của người viết, chắc chắn tiểu luận này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy chúng tôi mong có sự bổ sung và đóng góp ý kiến từ phía thầy cô, bạn đọc để bản tiểu luận này được hoàn chỉnh hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Lê Nguyên Cẩn, Hợp tuyển văn học châu Âu – tập 2 (tuyển chọn và giới thiệu), NXB ĐHQG Hà Nội, 2002. Nguyễn Viết Chữ, Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể, NXB ĐHQG Hà Nội, 2001. Trần Thanh Đạm, Vấn đề giảng dạy văn chương theo loại thể, NXB Giáo dục, 1978. Lê Bá Hàn, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG Hà Nội, 1997. Lê Bá Hàn – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB văn học, 2007. Phan Trọng Luận, Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương, NXB Giáo dục, 2000. Đức Nam – Hoàng Oanh – Hải Dương (dịch), Lịch sử sân khấu thế giới tập 2, NXB văn hóa Hà Nội, 1977. Nhiều tác giả, Lý luận văn học, NXB Giáo dục, 1998. Nhiều tác giả, Phương pháp dạy học văn, NXB ĐHQG Hà Nội, 2003. Nhiều tác giả, Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học văn – Tiếng việt, NXB Giáo dục, 2001. Nhiều tác giả, Văn học phương Tây, NXB Giáo dục, 2006. Hoàng Phê, Từ điển tiếng việt, NXB Đà Nẵng, 2006. Phan Quý – Đỗ Đức Hiểu (Chủ biên), Lịch sử văn học Pháp trung cổ từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII, NXB ĐHQG Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDạy học kịch Trưởng giả học làm sang.doc
Luận văn liên quan