Đề tài Ảnh hưởng của lãi suất đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam hiện nay

- Cho đến thời điểm hiện nay, có thể thấy hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc về nhiều mặt, đặc biệt trong việc ứng dụng các công nghệ ngân hàng mới. Tuy nhiên, năng lực tài chính, năng lực quản trị, khả năng cạnh tranh của các thành viên trên thị trường tài chính không đồng đều, tính bền vững trong phát triển chưa cao: Xét trong hệ thống các tổ chức tín dụng với 73 ngân hàng và 08 tổ chức tín dụng phi ngân hàng chỉ có một số ít các ngân hàng thương mại có vốn điều lệ và tài sản có lớn. Riêng khối NHTM nhà nước (3 NHTM nhà nước, 2 NHTM mà trong đó Nhà nước chiếm cổ phần chi phối, 1 Ngân hàng Chính sách xã hội) vốn điều lệ đã chiếm 27,28% tổng vốn điều lệ của cả khối, thị phần huy động vốn và cung cấp tín dụng khoảng 60% (xem Biểu đồ 3); mức chênh lệch trong chiếm lĩnh thị phần của một ngân hàng lớn nhất với một ngân hàng lớn kế tiếp là tương đối lớn. Mức độ lớn về vốn điều lệ và tài sản có quyết định khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Đối với những ngân hàng có vốn nhỏ vẫn có sức mạnh trong cạnh tranh thị trường, song với một cấu trúc thị trường có tồn tại nhiều các NHTM có vốn và thị phần thấp thường nảy sinh những hành vi hạn chế cạnh tranh hay cạnh tranh không lành mạnh. Mặt khác, đối với nhóm ngân hàng lớn, thông qua vị thế mạnh của mình trong hệ thống, những hành vi chi phối thị trường của các ngân hàng này có thể gây ảnh hưởng tới tác động tổng thể của chính sách NHNN nói chung và chính sách lãi suất nói riêng.

doc51 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3774 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của lãi suất đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thuế TNCN, mức giảm trừ gia cảnh là 3,6 triệu đồng/người/tháng. Những thay đổi trong đời sống xã hội Ngoài những yếu tố trên, sự thay đổi của lãi suất còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về đời sống xã hội, ví dụ như: Sự phát triển của thị trường tài chính với các công cụ tài chính đa dạng phong phú. Các công cụ này khác nhau không chỉ ở thời gian, phương pháp tính và trả lãi, khả năng tiêu thụ mà cả về độ co giãn của giá cả theo lượng cầu của chúng. Chính vì vậy những thay đổi trong cơ cấu chứng khoán, sự xuất hiện các chứng khoán mới, cũng như sự phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu của thị trường sơ cấp sẽ tác động làm thay đổi lãi suất trên thị trường thứ cấp. Mức độ phát triển của các thể chế tài chính trung gian gắn liền theo đó là sự cạnh tranh trong hoạt động cung cấp dịch vụ của các tổ chức này. Hiệu suất sử dụng vốn hay tỷ suất đầu tư cận biên trong nền kinh tế trong các thời kỳ khác nhau do những thay đổi trong công nghệ Tình hình kinh tế, chính trị cũng như những biến động tài chính quốc tế như các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới; các luồng vốn đầu tư ra, vào đối với các nước,..đều ít nhiều tác động đến lãi suất của các nước khác. à Đòi hỏi các nhà nghiên cứu, soạn thảo và điều hành chính sách lãi suất phải có những sự nhìn nhận tổng thế trước khi đưa ra bất kỳ một kết luận hoặc quyết định nào Ví dụ: Từ cuối năm 2000, nền kinh tế Mỹ rơi vào tình trạng suy thoái. Các nền kinh tế lớn khác trên thế giới : Tây Âu, Nhật Bản,... cũng rơi vào tình trạng trì trệ. Để cứu vãn xu thế đó, từ ngày 4-1-2001, Cục dự trữ liên bang Mỹ - FED (Ngân hàng trung ương của nước này) đó 11 lần hạ lãi suất chủ đạo của mình, từ 6,5%/năm (trước tháng 1-2001) lần lượt xuống còn 1,75%/tháng (từ 12-12-2001), thấp nhất trong vòng hơn 30 năm qua trong lịch sử nền kinh tế Mỹ. Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) hạ lãi suất của mình xuống bằng 0. Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) cũng nhiều lần hạ lãi suất của mình... Tác động dây chuyền của lãi suất trên các thị trường chủ chốt của thế giới: Thị trường liên ngân hàng Luân Đôn (LIBOR), thị trường liên ngân hàng Singapore (SIBOR),...cũng liên tục giảm. Ở Việt Nam, để hạn chế tác động tiêu cực của xu hướng suy giảm nền kinh tế toàn cầu từ đầu năm 2001 đến nay, Ngân hàng Nhà nước VN đã cắt giảm lãi suất cơ bản đối với đồng Việt Nam (VND) tới 4 lần, từ mức 0,75%/tháng, xuống còn 0,725%, 0,65% và 0,60%/tháng (từ 1-11-2001); đồng thời, 2 lần cắt giảm lãi suất tái cấp vốn, từ mức 0,50% xuống 0,45%/tháng rồi 0,40%, 2 lần cắt giảm lãi suất tái chiết khấu từ 0,45%/tháng xuống 0,40% rồi 0,35%. Vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế Đối với quá trình huy động vốn Lãi suất là chi phí huy động vốn của doanh nghiệp và ngân hàng. Các doanh nghiệp phải xem xét khả năng thu được lợi nhuận so với chi phí huy động bỏ ra để quyết định huy động vốn từ nguồn nào và đầu tư vào đâu để có lợi cho doanh nghiệp nhất. Còn ngân hàng phải xem xét giữa lãi suất huy động vốn với khả năng cho vay ở mức lãi suất cao hơn để đưa ra phương án hoạt động đảm bảo mục tiêu ngân hàng tồn tại và phát triển Cơ cấu huy động vốn của Ngân Hàng Bắc Á (2008-2011) Nguồn: Báo cáo NASB (2008-2011) Thay đổi lãi suất cơ bản, lãi suất huy động, lãi suất cho vay Nguồn: Báo tuổi trẻ ngày 30/1/2010 à Từ năm 2008 đến 2009, lãi suất huy động giảm đáng kể từ 18% xuống còn 9,9%, lượng vốn huy động được của các Ngân Hàng cũng tăng lên đáng kể ( Ngân Hàng Bắc Á là một ví dụ). Đến năm 2010 lãi suất tăng nhẹ và ở mức 10,5% không ảnh hưởng nhiều đến nguồn vốn huy động được của các Ngân Hàng. Việc giảm lãi suất huy động giúp các Ngân Hàng huy động được nhiều vốn hơn cũng đồng nghĩa với việc Ngân Hàng có thể cho vay nhiều hơn, làm tăng khối lượng tiền cần thiết cho chi tiêu của người dân và các doanh nghiệp. Điều này cũng có nghĩa là doanh nghiệp có thể dễ dàng hơn trong việc vay vốn để mở rộng và duy trì hoạt động kinh doanh Một ví dụ gần đây nhất cho thấy vai trò của lãi suất đối với quá trình huy dộng vốn là đã có rất nhiều doanh nghiệp phá sản cũng như đứng trên bờ vực phá sản vì khó tiếp cận vốn. Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê công bố ngày 29/6 thì số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh trong 6 tháng đầu năm 2012 là 26.324, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước mà nguyên nhân chủ yếu là do lãi suất huy động vốn quá cao Tại thời điểm đầu tháng 5/2012, trong số 57,8% doanh nghiệp đang vay vốn cho sản xuất - kinh doanh, thì có tới 33,5% phải vay với lãi suất bình quân trên 19%/năm và 86,3% số doanh nghiệp cho rằng, mức lãi suất bình quân năm chấp nhận được không quá 15%; 72,7% doanh nghiệp cho rằng, mức lãi suất bình quân năm chấp nhận được không quá 14%. Nhiều DN đã phải chấp nhận bán cổ phiếu với giá rẻ hơn mớ rau (trường hợp KSD bán với giá 1.500 đồng/CP), nhưng vẫn chưa có lối thoát và nếu tình trạng này không sớm được cải thiện trong năm 2013 sẽ gây nên những hệ lụy khó lường. à Từ thực tiễn DN khó tiếp cận tín dụng ngân hàng kéo dài như hiện tại, việc phát triển hiệu quả hơn TTCK nói chung, thị trường trái phiếu nói riêng để hỗ trợ DN huy động vốn tốt hơn đang đặt ra bức bách. 2.2 Đối với quá trình đầu tư Quá trình đầu tư của 1 doanh nghiệp được thực hiện khi mà họ dự tính lợi nhuận thu về từ các khoản đầu tư nhiều hơn số lãi phải trả cho các khoản đi vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất xuống thấp các hãng kinh doanh có điều kiện mở rộng đầu tư và ngược lại. Lãi suất Đầu tư Tình hình lãi suất cơ bản giai đoạn 2008-2011 Nguồn: Tính toán từ tổng cục thống kê Hình 2: Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội/GDP giai đoạn 2006-2011 Đơn vị: % Nguồn: TCTK. Trong giai đoạn 2006 đến nay, mặc dù nền kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng Việt Nam tiếp tục huy động được lượng vốn đầu tư lớn, góp phần vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức khá cao. Theo số liệu của TCTK, vốn đầu tư toàn xã hội có xu hướng tăng nhanh qua các năm. Năm 2011, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 877,9 nghìn tỷ đồng, tăng gấp 2,2 lần so với năm 2006 (398,9 nghìn tỷ đồng) . Với tốc độ tăng cao như vậy, tỷ lệ vốn đầu tư/GDP tiếp tục duy trì ở mức cao (trên 40%) trong cả giai đoạn 2006-2010; tuy nhiên, cùng với sự giảm tốc đầu tư theo tinh thần Nghị quyết 11 về giảm tổng cầu nhằm kiểm soát lạm phát, tỷ lệ này đã giảm mạnh xuống còn 34,6% năm 2011. Vốn đầu tư phân theo ngành kinh tế giai đoạn 2008-2011 Tổng số Chia ra Kinh tế Nhà nước Kinh tế ngoài nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài Giá thực tế Tỷ đồng 2008 616735 209031 217034 190670 2009 708826 287534 240109 181183 2010 830278 316285 299487 214506 Sơ bộ 2011 877850 341555 309390 226905 Nguồn: Tổng cục thống kê à Từ biểu đồ về lãi suất và số liệu trên có thể thấy từ 2008 đến 2011 lãi suất giảm mạnh từ 13% xuống còn ở mức 9% năm 2011 kéo theo tổng vốn đầu tư cũng tăng từ 616735 tỷ đồng lên 877850 tỷ đồng. Đây là minh chứng rõ ràng cho sự ảnh hưởng của lãi suất đến đầu tư Hình 3: Tỷ trọng đầu tư của các khu vực kinh tế trong tổng đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2006-2011 Đơn vị: % Nguồn: Tính toán từ số liệu của TCTK. Về tỷ trọng, mặc dù có xu hướng giảm nhưng khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội (từ mức trung bình 54,1% trong giai đoạn 2000-2005 xuống 39,1% trong giai đoạn 2006-2010; năm 2011 tỷ trọng này là 38,9%). Đáng chú ý, tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài nhà nước cũng có xu hướng giảm qua các năm (từ mức 38,1% năm 2006 xuống còn 36,1% năm 2010 và 35,2% năm 2011); trong khi đó, tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lại có xu hướng tăng (từ mức 16,2% năm 2006 lên mức 25,9% năm 2011). 2.3. Vai trò của lãi suất đối với tiêu dùng và tiết kiệm: Thu nhập của một hộ gia đình được chia thành 2 bộ phận: tiêu dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thu nhập,vấn đề hàng hóa lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả tiết kiệm, trong đó lãi suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó. Khi lãi suất thấp, chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều cho việc tiêu dùng hàng hóa nghĩa là tiêu dung nhiều hơn. Khi lãi suất cao đem lại từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng Biểu đồ tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ giai đoạn 2004-2011 Nguồn: Tổng cục thống kê Tuy nhiên nhìn vào biểu đồ trên ta lại thấy, năm 2008 lãi suất đạt đỉnh ở mức 13% thì mức tăng bán lẻ hàng hóa, dịch vụ lại đạt đỉnh. Nguyên nhân ở đây là lạm phát năm 2008 đạt mức cao, gần 22% nên lãi suất danh nghĩa cao nhưng không đủ bù đắp cho lạm phát nên người dân có xu hướng tiêu dùng nhiều hơn. Vì vậy, khi xét đến ảnh hưởng của lãi suất đến tiết kiệm và tiêu dùng cần chú ý đến cả tỉ lệ lạm phát! Hay nói cách khác là lãi suất thực tế chính là yếu tố tác động trực tiếp tới tiết kiệm và tiêu dùng. Ngoài ra thì tiết kiệm và tiêu dùng còn chịu tác động của nhiều nhân tố khác nên các đánh giá chỉ mang tính tương đối. Năm 2010: Trong tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, kinh doanh thương nghiệp đạt 1229,3 nghìn tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2009; khách sạn, nhà hàng đạt 172,4 nghìn tỷ đồng, tăng 21,8%; dịch vụ đạt 144,6 nghìn tỷ đồng, tăng 23,8%; du lịch đạt 15,3 nghìn tỷ đồng, tăng 28,5%. Năm 2011: Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 2.004,4 nghìn tỷ đồng, tăng 24,2% so với năm trước, nhưng nếu loại trừ yếu tố giá thì chỉ tăng 4,7%, thấp hơn rất nhiều so với các mức tăng tương ứng 24,5% và 14% của năm 2010 Nguồn: Tổng cục thống kê à1 trong những nguyên nhân của sự khác biệt giữa 2 năm trên là do trong khi lãi suất huy động của các NH năm 2010 chỉ là 8% thì năm 2011 ở mức 13,5 đến 14% trong khi sự chênh lệch giữa lạm phát của 2 năm này không cao hay nói cách khác là lãi suất thực tế năm 2011 cao hơn năm 2010 -> Tiêu dùng năm 2011 thấp hơn và ngược lại tiết kiệm sẽ cao hơn 2.4 Vai trò của lãi suất tới tỷ giá hối đoái và quá trình xuất nhập khẩu - Tỷ giá chịu ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi trong lãi do suất danh nghĩa. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát tăng (lãi suất thực không đổi) thì tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa tang do lãi suất thực tế tăng (tỷ lệ lạm phát không đổi) thì tỷ giá tăng. Khi tỷ giá đồng ngoại tệ tăng thì đồng nội tệ sẽ giảm giá (tỷ giá giảm) và ngược lại. Xét trường hợp đồng VND và USD (các yếu tố khác không đổi) Khi lựa chọn nắm giữ đồng tiền nội tệ và đồng ngoại tệ (cụ thể là USD) người ta sẽ xem xét mức lãi suất thực tế của 2 đồng tiền này Khi lãi suất của VND cao hơn lãi suất của USD (lãi suất thực), người ta sẽ có xu hướng chuyển từ nắm giữ USD sang nắm giữ VND. Điều này làm cho nhu cầu VND tăng lên, cầu về USD giảm đi, từ đó giá USD sẽ giảm đi so với VND, hay tỷ giá giảm tới 1 mức tỷ giá mới mà cung cầu USD/VND trở nên cân bằng. Khi đó, lãi suất thực tế của VND và USD tương đương nhau (điều kiện ngang bằng lãi suất ko tính tới lạm phát) Khi có ảnh hưởng của lạm phát, mặc dù lãi suất danh nghĩa tăng, nhưng lãi suất thực tế giảm, lúc này ngược lại VND sẽ giảm giá so với USD dẫn tới tỷ giá tăng Ngược lại, khi đồng USD tăng giá, để tạo cân bằng trên thị trường ngoại hối, NHTW sẽ chủ động tăng lãi suất đồng nội tệ VND thông qua đẩy mạnh lượng cung ngoại tệ ra nền kinh tế đồng thời hút bớt đồng nội tệ về. Điều này làm cho cung cầu ngoại hối trở nên cân bằng. Tỷ giá VND/USD theo ngày và biên độ giai đoạn 2008-2011 Nguồn: NHNN và vietcombank - Lãi suất trong nước với quá trình xuất nhập khẩu: khi lãi suất thực tế tăng lên làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên. Tỷ giá hối đoái cao hơn sẽ làm cho hàng hóa nước đó ở nước ngoài sẽ trở nên đắt hơn và hàng hóa nước ngoài nước ngoài ở nước đó sẽ trở nên rẻ hơn, dẫn đến giảm xuất khẩu ròng. Mối quan hệ này đc thể hiện ở đồ thị sau: - Vai trò của lãi suất nước ngoài đối với xuất khẩu ròng: khi lãi suất tiền gửi bằnng ngoại tệ tăng, đường lợi tức dự tính đồng ngoại tệ sẽ dịch chuyển sang phải làm giảm tỷ giá hối đoái. Hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn so với các quốc gia khác. Ta có đồ thị: Biểu đồ kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu, nhập siêu các năm (2008-2011) Nguồn: Năm 2012 xuất siêu 284 triệu USD và là năm đầu tiên Việt Nam xuất siêu hàng hóa kể từ năm 1993, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với mức xuất siêu đạt gần 12 tỷ USD, tập trung ở nhóm hàng gia công lắp ráp. Ngược lại, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 11,7 tỷ USD. à Điều này cho thấy sự ảnh hưởng của lãi suất đến xuất khẩu chỉ mang tính tương đối mà chủ yếu phụ thuộc vào cơ cấu xuất nhập khẩu của nước ta. 2.5 Vai trò của lãi suất với lạm phát Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất và lạm phát. Theo Fisher: lãi suất tăng cao trong quá trình lạm phát, do đó lãi suất được sử dụng để điều chỉnh lạm phát, cụ thể đó là tăng lãi suất à thu hẹp lượng tiền trong lưu thông à lạm phát được kìm chế. Nguồn: vietbao.vn Lạm phát của Việt Nam đat đỉnh trong giai đoạn này với mức lạm phát 18,13%, với mức này Việt Nam đã nằm trong top những nước có lạm phát cao nhất thế giới. Đối phó với tình trạng này, NHNN đã duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt tới năm 2012 và các mức lãi suất cao để chống lạm phát trong năm 2011 cũng như để khôi phục cân bằng kinh tế trong dài hạn, trong đó có niềm tin vào tiền đồng. à Như trên biểu đồ ta thấy lãi suất huy động của năm 2011 luôn ở mức cao hơn năm 2010 và tác động rõ ràng tới lạm phát làm cho lạm phát năm 2011 là 18,13% cao hơn năm 2010 là 11,75% Vai trò lãi suất đối với quá trình phân bổ nguồn lực Tất cả các nguồn lực đều có tính khan hiếm. Vấn đề là xã hội phải phân bổ và sử dụng các nguồn lực sao cho hiệu quả. Nghiên cứu trong nền kinh tế thị trường cho thấy giá cả đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phân bổ các nguồn lực giữa các ngành kinh tế. Như ta đã biết, lãi suất là một loại giá cả, nghĩa là lãi suất có vai trò phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội. Để quyết định đầu tư vào một ngành kinh tế một dự án hay một tài sản nào đó chúng ta đều phải quan tâm đến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ suất lợi tức thu được với chi phí ban đầu. Điều này có nghĩa là phải xem việc đầu tư này có mang lại lợi nhuận hay không và có đảm bảo hiệu quả kinh doanh để trả khoản tiền lãi của số tiền vay cho chi phí ban đầu hay không. Khi quyết định đầu tư vào một ngành kinh tế, một dự án hay một tài sản ta phải quan tâm tới chênh lệch giữa lợi nhuận đem lại và số tiền vay phải trả. Khi chênh lệch này là dương, thì nguồn lực sẽ được phân bổ tới đó và là sự phân bổ hiệu quả. Hình 7: Đóng góp của các nhân tố vốn, lao động và TFP vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2000-2005 và 2006-2010 Đơn vị: % Nguồn: Bùi Trinh (2011). à Giai đoạn 2006-2011 nguồn lực về vốn được sử dụng nhiều hơn và chiếm hơn 70% trong đóng góp vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong khi giai đoạn trước 2000-2005 vốn chỉ đóng góp hơn 50% vào sự tăng trưởng kinh tế. Từ đây có thể rút ra được hướng đi đúng đắn trong việc phân bổ các nguồn lực. Bên cạnh đó cũng cần quan tâm đến sự chênh lêch giữa lợi nhuận thu được so với tiền vay phải trả để có được ngồn vốn đó. 2.7 Vai trò của lãi suất đối với các ngân hàng thương mại NHTM với hai nghiệp vụ chính trong hoạt động kinh doanh của mình là huy động vốn và sử dụng vốn đã phản ánh quy mô hoạt động của các NHTM. Với phương châm “đi vay để cho vay”, NHTM huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong các doanh nghiệp và dân cư để cho vay phát triển kinh tế và các nhu cầu tiêu dùng khác của nhân dân. Để huy động vốn và cho vay có hiệu quả, NHTM phải xác định lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách hợp lý. Do vậy, khi huy động tiền gửi mà với lãi suất thấp thì không khuyến khích doanh nghiệp và dân cư gửi tiền nhàn rỗi vào ngân hàng, sẽ dẫn đến hậu quả là NHTM không đủ vốn để cho vay đáp ứng yêu cầu vay vốn của khách hàng. Ngược lại, nếu lãi suất cho vay cao, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không có lãi hoặc lãi quá thấp sẽ thu hẹp sản xuất hoặc ngừng hoạt động để gửi vốn vào ngân hàng. Tình hình lãi suất giai đoạn 2007-2011 Nguồn: sbv.gov.vn Tình hình tăng trưởng tín dụng của vietinbank trong giai đoạn trên Nguồn: báo cáo tài chính thường niên của vietinbank các năm 2008 và 2011 à Nhìn trên biểu đồ ta có thể thấy lãi suất năm 2008 đạt đỉnh cao nhất thì tốc độ tăng trưởng tín dụng của Ngân hàng thương mại ( Vietinbank) năm 2008 chạm đáy và ngược lại lãi suất năm 2010 ở mức thấp nhất thì quy mô và tốc độ tăng trưởng tín dụng lại ở mức cao nhất. Các chính sách về lãi suất thực hiện ở Việt Nam thời gian qua Các chính sách thực hiện qua các giai đoạn Giai đoạn 1986-1994 1986-1988 Trong hệ thống kế hoạch hóa tập trung ở Việt Nam, mọi hoạt động giao dịch tài chính chính thức đều do Nhà nước độc quyền thực hiện thông qua Ngân hàng Nhà nước (SBV). Hệ thống ngân hàng trước năm 1988 là một hệ thống đơn cấp với NHNN thực hiện chức năng của cả NHTM và NHNN. Bên cạnh đó, Nhà nước sở hữu và trực tiếp kiểm soát hai ngân hàng chuyên doanh là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV). Bên cạnh việc cùng hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), Vietcombank có chức năng cụ thể là tài trợ cho hoạt động ngoại thương và quản lý ngoại hối, còn BIDV thực hiện cấp vốn dài hạn cho các dự án cơ sở hạ tầng và công trình công cộng. Toàn bộ hệ thống ngân hàng chỉ là một công cụ để thực hiện các chính sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu tài chính của ngân sách và của các DNNN. Tín dụng chỉ định với lãi suất danh nghĩa thấp và lạm phát cao tạo ra lãi suất thực âm. Hơn thế nữa, lãi suất cho vay còn thấp hơn lãi suất tiền gửi, thể hiện chính sách trợ cấp lãi suất của chính phủ. 1988-1990 Năm 1988 đánh dấu đợt cải cách mạnh mẽ đầu tiên trong hệ thống tài chính ngân hàng của Việt Nam. Nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 do Hội Đồng Bộ Trưởng ban hành mở đầu cho công cuộc cải tổ hệ thống ngân hàng ở Việt Nam, với ba nội dung cải tổ quan trọng: Thứ nhất là tách bộ phận quản lý quỹ ngân sách ra khỏi Ngân hàng Nhà nước để hình thành nên hệ thống Kho Bạc Nhà nước. Thứ hai là tách chức năng kinh doanh ra khỏi hệ thống Ngân hàng Nhà nước giao cho các ngân hàng chuyên doanh. Thứ ba là thành lập hai ngân hàng chuyên doanh mới đó là Ngân hàng Công Thương Việt Nam và Ngân hàng Phát triển Nông Nghiệp Việt Nam (sau này đổi tên thành Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn) cùng với hai ngân hàng có trước đó là Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam đảm nhận chức năng kinh doanh thay cho hệ thống Ngân hàng Nhà nước. 1990-1994 Pháp lệnh NHNN và Pháp lệnh các tổ chức tín dụng năm 1990 ra đời hình thành nên hệ thống NHTM( từ các NHCD trên) Theo pháp lệnh, lãi suất tiền gửi và cho vay của các ngân hàng TMQD đều do NHNN quy định. Cũng theo quy định của NHNN, các NHTM duy trì các mức lãi suất cho vay khác nhau đối với cho vay nông nghiệp, công nghiệp và thương mại. Mức biến thiên lãi suất này thể hiện ưu tiên đầu tư vào những lĩnh vực cụ thể, thay vì phản ánh rủi ro tương đối của các dự án đầu tư. Năm 1988 cũng đánh dấu nỗ lực tự do hóa tài chính đầu tiên của Việt Nam bằng quyết định của Hội đồng Bộ trưởng (9/3/1988) cho phép tất cả các tổ chức kinh tế, bao gồm cả các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh, được vay tiền và huy động vốn từ công chúng. Trong thời gian này, các quỹ và hợp tác xã tín dụng mọc lên rất nhiều. Đến cuối thập niên 80, tổng số quỹ và hợp tác xã tín dụng lên tới 7.180, trong khi vào năm 1983 thì hợp tác xã tín dụng đầu tiên mới được thành lập ở miền Nam. Cho đến cuối năm 1990, tổng số quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng chỉ còn 160. Bên cạnh sự mất mát về tiền, cuộc khủng hoảng tín dụng năm 1990 còn tạo ra một tác động tâm lý sâu rộng với sự sụt giảm lòng tin nghiêm trọng của người dân đối với hệ thống ngân hàng. Một số nghiên cứu lúc đó cho rằng sự mất niềm tin này cùng với lãi suất thực âm vào lúc đó khiến rất nhiều người dân rút tiền tiết kiệm của mình và chuyển sang vàng hay đô-la Mỹ. 1994-1997 Sau khi ban hành pháp lệnh (và các nghị định, thông tư hướng dẫn) để điều tiết hoạt động của các tổ chức tín dụng, các NHTM cổ phần (TMCP), ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng được phép thành lập và tham gia cung cấp dịch vụ tài chính. Các ngân hàng TMQD đã chuyển đổi từ những tổ chức cho vay chính sách chuyên doanh cho từng khu vực kinh tế cụ thể sang các tổ chức trung gian tài chính theo hướng thương mại hơn. NHNN đã có những phản ứng tương đối tích cực sau cuộc đổ vỡ tín dụng bằng cách đưa ra các quy định quản lý hoạt động của ngân hàng, trao thêm quyền tự chủ cho các ngân hàng TMQD và tăng cường công tác giám sát. Lạm phát giảm mạnh xuống mức trong phạm vi kiểm soát được, khi NHNN không còn phải in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách. Trên lý thuyết, NHNN sử dụng một loạt các công cụ chính sách tiền tệ bao gồm lãi suất, trần tín dụng, dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn và đấu thầu tín phiếu kho bạc. Tuy nhiên, trên thực tế, mức cung tiền được kiểm soát chủ yếu bằng trần tín dụng áp đặt cho từng NHNN (bắt đầu từ năm 1994). Nói một cách khác, ngân hàng trung ương áp dụng cơ chế kiểm soát cung tiền một cách trực tiếp thay vì sử dụng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ như ở nhiều nền kinh tế thị trường. Thực tế là việc sử dụng các công cụ gián tiếp không phát huy tác dụng trong bối cảnh của hệ thống tài chính Việt Nam lúc đó. Công cụ lãi suất là một phần không thể thiếu của hệ thống áp chế tài chính, thay vì là một công cụ để kiểm soát cung tiền. Từ năm 1990, NHNN đưa ra trần lãi suất cho vay tối đa đối với cả nội tệ và ngoại tệ, phân biệt theo khu vực kinh tế. Tức là các mức trần lãi suất khác nhau được áp dụng cho vay nông nghiệp, công nghiệp và thương mại - dịch vụ. Lãi suất tiền gửi cũng được phân biệt giữa hộ gia đình và doanh nghiệp. Tuy vậy, theo thời gian việc điều hành chính sách lãi suất đã được cải thiện đáng kể. NHNN gắn lãi suất danh nghĩa với chỉ số giá để đảm bảo lãi suất thực dương từ năm 1992. Bắt đầu từ năm 1992, lãi suất cho vay đã được nâng lên cao hơn lãi suất tiền gửi - một yêu cầu thiết yếu cho sự hoạt động thông thường của các ngân hàng. Vào năm 1993, việc phân biệt lãi suất cho vay theo khu vực kinh tế được loại bỏ và chỉ còn được phân biệt theo cho vay đầu tư cố định và cho vay vốn lưu động. Tuy vậy, lãi suất cho vay đầu tư vốn cố định lại thấp hơn lãi suất cho vay vốn lưu động, tạo ra một cơ cấu lãi suất ngược không phù hợp. Tức là, lãi suất dài hạn thấp hơn lãi suất ngắn hạn. Chính sách này làm cho các ngân hàng không hề có động cơ khuyến khích cho vay dài hạn. Mãi cho đến năm 1996, lãi suất cho vay ngắn hạn mới giảm xuống thấp hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn. NHNN tiếp dục duy trì trần lãi suất cho vay. Từ năm 1995, NHNN cho phép các ngân hàng thương mại được tự do định mức lãi suất tiền gửi với mục tiêu tăng cường cạnh tranh trong huy động vốn. Tuy nhiên, mức chệnh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi tối đa được phép là 0,35%/tháng. Như vậy, về một khía cạnh nào đó, các ngân hàng vẫn phải chịu cả trần lãi suất tiền gửi và cho vay, cho dù mức chênh lệch lãi suất thực tế có thể khác nhau giữa các ngân hàng tùy thuộc vào cơ cấu chi phí cụ thể. Chính sách này giúp các NHTM có thể duy trì một tỷ lệ lợi nhuận, nhưng không có lợi cho người gửi tiền. NHTG (1995) lập luận rằng đó chính là nguyên nhân giải thích cho sự tăng trưởng chậm chạp của tiền gửi ngân hàng và tỷ lệ tiền mặt cao trong tổng cung tiền. Lý do căn bản của trần lãi suất là để hạn chế vấn đề lựa chọn bất lợi; tức là hạn chế xu hướng các ngân hàng nâng lãi suất để cạnh tranh huy động vốn rồi cho vay rủi ro, một tình trạng đã xảy ra trong cuộc đổ vỡ quỹ tín dụng vào năm 1990. Tuy vậy, trong trường hợp của Việt Nam, chính sách trần lãi suất là một bộ phận không thể thiếu của hệ thống áp chế tài chính (ít nhất là trong đầu thập niên 90) và kết hợp với sự chỉ định tín dụng nhằm đảm bảo các khu vực ưu tiên của chính phủ nhận được vốn vay với lãi suất vừa phải. Một minh chứng cho nhận định này là các ngân hàng có thể huy động và cho vay với lãi suất vượt trần đối với vốn huy động cho mục tiêu cụ thể. Tức là đối với những dự án đã xác định, ngân hàng có thể huy động tiền gửi với lãi suất cao hơn trần lãi suất tiền gửi, rồi cho dự án vay toàn bộ với lãi suất cho vay cao hơn lãi suất trần. Nếu ngăn chặn lựa chọn bất lợi là lý do chính yếu để áp đặt trần lãi suất thì kiểu .vốn huy động cho mục tiêu cụ thể. không bao giờ được phép. Thập niên 90 cũng chứng kiến nỗ lực phát triển thị trường cho vay liên ngân hàng. Thị trường này được thiết lập vào năm 1993. Mục tiêu là để Ngân hàng Nhà nước có thể dựa vào đó làm căn cứ định các mức lãi suất. Tuy nhiên, lượng giao dịch trên thị trường cho vay liên ngân hàng không có xu hướng tăng ổn định do thiếu niềm tin giữa các ngân hàng Thị trường tiền tệ mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc cũng bắt đầu được phát triển. Cũng như những nỗ lực phát triển thị trường khác, các đợt đấu thầu tín phiếu kho bạc không tạo ra lãi suất phản ánh tín hiệu thị trường do Chính phủ đưa ra lãi suất chỉ đạo (tức là trần lãi suất) trong mỗi đợt đấu thầu. 1998-1999 Hệ thống ngân hàng của Việt Nam không phải chịu các tác động trực tiếp từ cuộc khủng hoảng châu Á. Chính vì vậy, trong năm 1997 và đầu năm 1998, NHNN đã không xiết chặt kiểm soát lãi suất mà thậm chí còn nới lỏng. Trần lãi suất được nâng lên để các NHTM (đặc biệt là các ngân hàng cổ phần) có thể tăng lãi suất tiền gửi để huy động vốn trong năm 1997. Trong bối cảnh bắt đầu có sự cạnh tranh lãi suất giữa các ngân hàng, quy định giới hạn chênh lệch lãi suất cho vay và tiền gửi trong khoảng 0,35%/tháng dần dần không còn tác dụng và cuối cùng được hủy bỏ. Tuy nhiên, trái với nhiều dự đoán của chính phủ, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu chịu tác động khá mạnh (mặc dù là gián tiếp) của cuộc khủng hoảng từ giữa năm 1997. Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, chất lượng tài sản có của các ngân hàng suy giảm khi các doanh nghiệp vay nợ gặp khó khăn do tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài suy giảm. Nhiều khoản cho vay DNNN của các ngân hàng thương mại quốc doanh trở thành nợ khó đòi. Đặc biệt, các doanh nghiệp nhập khẩu mở một khối lượng tín dụng thư trả chậm lớn trong hai năm 1995, 1996 và đáo hạn vào cuối năm 1997, đầu 1998. Việc nhiều doanh nghiệp trong số này không có khả năng thanh toán (mà tình hình còn trầm trọng hơn sau khi đồng nội tệ được phá giá 10% vào tháng 8 năm 1998) buộc các ngân hàng phải chịu gánh nặng chi trả cho phía nước ngoài. Một số ngân hàng cổ phần vì thế rơi vào tình trạng gần như phá sản Từ cuối năm 1998, Chính phủ đã đưa ra một loạt các biện pháp nhằm giảm nhẹ khó khăn tài chính cho các DNNN, trong đó bao gồm: giãn nợ từ 1-3 năm tới 1-5 năm cho các DNNN khó khăn; các DNNN có thể vay vốn mà không cần tài sản thế chấp (nhưng không áp dụng cho các doanh nghiệp tư nhân) và giảm lãi suất cho vay. Đồng thời tín dụng nội địa được hệ thống ngân hàng bơm mạnh vào nền kinh tế. Việc hạ lãi suất và nới lỏng tín dụng đã có tác động gì? Thứ nhất, lãi suất giảm nhưng lượng tiền gửi tại ngân hàng vẫn ổn định. Thứ hai, tín dụng nội địa tăng không hoàn toàn do lãi suất giảm. Hầu hết sự gia tăng tín dụng nằm ở hạng mục tín dụng chỉ đạo bao gồm tín dụng cho các DNNN, chương trình mía đường, cơ sở hạ tầng, nông nghiệp và khắc phục hậu quả thiên tai. Thứ ba, gia tăng tín dụng cho khu vực nhà nước trong khi tiền gửi không tăng, nên các NHTM giảm dự trữ phụ trội cũng như tăng vay vốn từ NHNN. Đặc biệt, khi dự trữ phụ trội cạn kiệt, NHNN đã ra quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng từ 10% xuống 7% lượng tiền gửi ngắn hạn vào tháng 2/1999. 1999-2000 Thị trường tiền tệ của Việt Nam từ cuối thập niên 80 đã trải qua một quá trình đô-la hóa mạnh mẽ, trong đó đồng đô-la Mỹ và một số đồng ngoại tệ khác ngày càng được sử dụng làm phương tiện thanh toán và phương tiện lưu trữ giá trị tài sản. Có hai thời điểm là năm 1991 và năm 1999, ở đó tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ tăng mạnh. Nhiều ý kiến cho rằng tình trạng siêu lạm phát vào cuối thập niên 80 là nguyên nhân dẫn tới việc đô-la bắt đầu được thay thế cho tiền đồng trong giao dịch và trong tiền gửi tiết kiệm. Lượng tiền gửi ngoại tệ tăng mạnh vào năm 1991 và chiếm tới 60,1% tổng lượng tiền gửi các loại. Sau năm 1991, chính sách ổn định hóa kinh tế và lạm phát giảm mạnh đã diễn ra cùng với việc tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trong tổng lượng tiền gửi giảm xuống rồi ổn định ở mức 32-33% cho tới trước năm 1999. Báo cáo của IMF về kinh tế Việt Nam năm 2002 còn nhận định rằng hoạt động .tái trung gian hóa. lượng ngoại tệ trước đây nằm ngoài hệ thống ngân hàng, động cơ đa dạng hóa rủi ro của người tiết kiệm và tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cũng là những yếu tố dẫn tới gia tăng tiền gửi ngoại tệ và tình trạng đô-la hóa trong nền kinh tế. Tác động của khủng hoảng tài chính trong khu vực và sự phá giá đồng nội tệ trong năm 1997 và 1998 đã tạo ra đợt gia tăng tiền gửi ngoại tệ thứ hai vào năm 1999. Giảm lãi suất trong năm 1999 Nguồn: Về hoạt động cho vay, chênh lệch lãi suất cho vay ngoại tệ và nội tệ vẫn được duy trì, mặc dù đã giảm xuống cùng với tỷ lệ lạm phát. Một tình trạng xảy ra trong năm 1999 là trong khi tiền gửi ngoại tệ tăng cao thì tăng trưởng dư nợ cho vay ngoại tệ lại không theo kịp. Theo quy định của NHNN, các doanh nghiệp chỉ được vay ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị hay chi trả dịch vụ phí mua từ các tổ chức nước ngoài. Hạn chế này đến tháng 9 năm 2000 mới được tháo bỏ, từ đó cho phép các ngân hàng thương mại mở rộng đối tượng khách hàng vay ngoại tệ. Tiền gửi ngoại tệ gia tăng và các NHTM chuyển số tiền này vào các tài khoản tiền gửi ở nước ngoài để hưởng chênh lệch lãi suất. Về hoạt động cho vay, chênh lệch lãi suất cho vay ngoại tệ và nội tệ vẫn được duy trì, mặc dù đã giảm xuống cùng với tỷ lệ lạm phát. Một tình trạng xảy ra trong năm 1999 là trong khi tiền gửi ngoại tệ tăng cao thì tăng trưởng dư nợ cho vay ngoại tệ lại không theo kịp. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, các doanh nghiệp chỉ được vay ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị hay chi trả dịch vụ phí mua từ các tổ chức nước ngoài. Hạn chế này đến tháng 9 năm 2000 mới được tháo bỏ, từ đó cho phép các ngân hàng thương mại mở rộng đối tượng khách hàng vay ngoại tệ. Tiền gửi ngoại tệ gia tăng và các ngân hàng thương mại chuyển số tiền này vào các tài khoản tiền gửi ở nước ngoài để hưởng chênh lệch lãi suất. Tài sản ngoại tệ của hệ thống ngân hàng Việt Nam (tỷ USD) 2000- nay Trước đây NHNN ấn định một trần lãi suất cho vay, ví dụ như trần 0,85%/tháng vào thời điểm trước tháng 8/2000. Thực tế là trong năm 1999, các NHTM không theo kịp năm đợt hạ trần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, và kết quả là lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân vượt trên trần. Tháng 8/2000, Ngân hàng Nhà nước thay thế trần lãi suất bằng một cơ chế mới trong đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố. Các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản cộng biên độ 0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với vốn trung, dài hạn. Cơ chế lãi suất cơ bản về bản chất không khác gì so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế lãi suất cơ bản cộng biên độ đã trở nên cao hơn trần lãi suất cũ rất nhiều. Như vậy, từ lúc này các ngân hàng đã bắt đầu ấn định lãi suất trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng. Một điểm đáng chú ý nữa là lãi suất cho vay của các NHTM, mặc dù luôn cao hơn lãi suất cơ bản, nhưng thay đổi theo lãi suất cơ bản. Trong năm 2000 và 2001, cả hai mức lãi suất này đều giảm. Nhưng trong thời gian đó, lãi suất tiền gửi lại tăng lên. Cạnh tranh giữa các ngân hàng đã làm giảm đi rõ rệt chênh lệch giữa lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay. Nói chung, có ba ý kiến khác nhau về cơ chế lãi suất cơ bản: Ý kiến thứ nhất cho cơ chế mới không có gì khác với trần lãi suất trước đây. Đặc biệt, chính sách này cũng như trần lãi suất, hoàn toàn loại bỏ những người vay vốn nhỏ (như tiểu thương, hộ sản xuất nhỏ và cá nhân) ra khỏi thị trường tài chính chính thức. Lý do là chi phí cho vay đối với các đối tượng này thường lớn nên không thể cho họ vay nếu không áp dụng lãi suất cao. Ý kiến thứ hai nhấn mạnh tính tích cực của cơ chế lãi suất cơ bản. Trong phạm vi biên độ cho phép (0,3%/tháng đối với vay ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với vay dài hạn) các ngân hàng có thể định mức lãi suất cho mỗi hợp đồng tùy theo mức độ rủi ro, chứ không còn áp dụng một mức chung cho tất cả các khách hàng như trước đây. Cạnh tranh trong hệ thống các tổ chức tín dụng sẽ gia tăng và hiệu quả phân bổ vốn cũng sẽ được cải thiện. Hơn thế nữa, NHNN trong nhiều trường hợp đã thay đổi lãi suất cơ bản theo tình hình lãi suất trên thị trường. Đây là tín hiệu để có thế tiến tới tự do hóa hoàn toàn lãi suất. Ý kiến thứ ba lại mang tính bi quan trước cơ chế mới. Theo ý kiến này, việc các ngân hàng được tự do định đoạt lãi suất trong khi các doanh nghiệp nhà nước chậm đổi mới sẽ chỉ làm trầm trọng thêm quan hệ tài chính vốn không được lành mạnh giữa hai thực thể này. Đối với các doanh nghiệp nhà nước ngầm hiểu là được chính phủ bảo lãnh, ngân hàng sẽ sẵn sàng cho vay với lãi suất trong khoảng 0,6-0,65%/tháng, trong khi khu vực tư nhân có thể phải trả lãi suất tới 0,75-0,8%/tháng vì các ngân hàng coi việc cho khu vực này vay là rủi ro hơn. Tháng 11/2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ, cho phép người vay có thể thương lượng lãi suất với các ngân hàng nội địa cũng như nước ngoài. Đến tháng 6/2002, lãi suất được tự do hóa hoàn toàn với việc các ngân hàng được phép xác định lãi suất cho vay trên cơ sở tự thẩm định và thương lượng với khách hàng. Như đã trình bày, thực tế là các ngân hàng đã chủ động xác định lãi suất tiền gửi và cho vay từ thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản. Với việc chính thức tự do hóa lãi suất thì lãi suất cơ bản do NHNN công bố chỉ còn tính chất tham khảo. Lãi suất tiền gửi tiếp tục gia tăng. Đồng thời, ngay sau khi ra quyết định tự do hóa, lãi suất cho vay của các ngân hàng đã lập tức nhích lên. Quan điểm hoài nghi về tự do hóa lãi suất cho rằng, nếu không kiểm soát lãi suất sẽ dẫn tới tình trạng “cá lớn nuốt cá bé” do các ngân hàng nhỏ khó có khả năng giảm lãi suất cho vay để cạnh tranh với các ngân hàng lớn. Một số ngân hàng đề xuất thực hiện một sàn lãi suất cho vay, tuy nhiên kinh nghiệm cho thấy trước đây bốn ngân hàng thương mại quốc doanh đã từng thống nhất lãi suất sàn nhưng cuối cùng không thực hiện nổi. Đặc biệt, các ngân hàng thương mại cổ phần dường như không thể giảm lãi suất huy động tiền gửi để giảm lãi suất cho vay vì sẽ ngay lập tức bị người tiết kiệm rút tiền. Ngược lại, họ có thể có xu hướng tăng lãi suất huy động để rồi thực hiện những khoản đầu tư rủi ro cao. Đây là hiện tượng lựa chọn bất lợi khi ngân hàng chỉ có thể cho vay lãi suất cao nên cuối cùng chỉ còn khách hàng là các dự án rủi ro cao.  Sự gia tăng lãi suất tiền gửi và cho vay sau quyết định tự do hóa minh chứng cho lập luận này. Trái ngược với những ý kiến phản đối tự do hóa lãi suất ở trên, những người ủng hộ đưa ra các lập luận tương tự như các lý lẽ ủng hộ cơ chế lãi suất cơ bản trước đây. Khi lãi suất giờ đây phản ánh cung cầu trên thị trường vốn vay, các ngân hàng sẽ hoạt động theo cơ chế thị trường và sẽ phải đẩy mạnh cải cách để tăng cường khả năng cạnh tranh. Hơn thế nữa, khi lãi suất cơ bản chỉ còn tính chất tham khảo thì các ngân hàng hoàn toàn có thể cho với các lãi suất khác nhau tùy theo mức độ rủi ro của khách hàng và chi phí cho vay. Các đối tượng vay như hộ kinh doanh nhỏ hay nông dân không còn bị loại ra ngoài cuộc chơi như trước đây. Những người ủng hộ tự do hóa lãi suất không nhìn nhận hiện tượng gia tăng lãi suất là kết quả của việc bỏ quy định về biên độ lãi suất cho vay. Theo họ, thực tế là lãi suất đã tăng nhiều tháng trước khi có quyết định tự do hóa lãi suất. Sự gia tăng lãi suất phản ánh tình trạng khan hiếm vốn trong năm 2001 và 2002, khi nguồn vốn của các ngân hàng không đáp ứng đủ nhu cầu vay, đặc biệt là vay trung và dài hạn. Đáng lưu ý là trong khi lãi suất nội tệ tăng lên, thì lãi suất ngoại tệ (cả tiền gửi và cho vay) lại hầu như không nhúc nhích cho dù lãi suất cho vay ngoại tệ đã được tự do hóa trước cả lãi suất cho vay nội tệ. Có ý kiến cho rằng việc Quỹ Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cắt giảm lãi suất liên tục đã giữ cho lãi suất cho vay đô-la Mỹ tại Việt Nam ở vào mức thấp. Thực tế là lượng tiền gửi nội tệ đã tăng nhanh hơn lượng tiền gửi bằng ngoại tệ trong năm 2002, trong khi lãi suất cho vay USD chỉ có 2,85-3%/năm (vào đầu năm 2003) đang hấp dẫn các doanh nghiệp vay bằng ngoại tệ. Rõ ràng là tự do hóa lãi suất cho vay đã có tác động tích cực làm cho hệ thống tín dụng ngân hàng sôi động hẳn lên. Khi hoạt động trong một môi trường có giá cả hoàn toàn dựa vào cân đối cung và cầu, các ngân hàng đã phải chủ động tích cực thẩm định để quyết định lãi suất cho vay, phải cạnh tranh để thu hút vốn vay, và phải tìm mọi biện pháp nâng cao hiệu quả khi chênh lệch lãi suất giữa đầu vào và đầu ra giảm xuống. Đây là những bước đi rất tích cực của toàn bộ hệ thống trong quá trình hội nhập quốc tế.  Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận một nguy cơ là ngân hàng có thể cho vay quá nhiều vào những dự án tuy rủi ro cao nhưng chấp nhận được lãi suất cao, đặc biệt là đối với các ngân hàng thương mại cổ phần có lãi suất đầu vào cao hơn lãi suất đầu vào của ngân hàng quốc doanh. Do vậy, kinh nghiệm của nhiều nước đã cho thấy tự do hóa lãi suất phải đi kèm với việc Ngân hàng Nhà nước tăng cường các quy định về kinh doanh thận trọng, đồng thời giám sát hệ thống quản lý rủi ro của các ngân hàng. Cần phải tăng cường cơ chế giám sát truyền thống, trong đó tập trung đánh giá chất lượng bảng cân đối kế toán của ngân hàng tại một thời điểm và kiểm tra việc tuân thủ các quy định về vốn và giới hạn trong đầu tư. Hơn thế nữa, NHNN nên bắt đầu chuyển hướng sang việc đánh giá quy trình quản lý rủi ro, chất lượng giám sát của hội đồng quản trị, ban giám đốc ngân hàng và hệ thống kiểm soát nội bộ. 2. Những hạn chế của chính sách lãi suất ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới - Từ trước đến nay, NHNN vẫn xem lãi suất là một công cụ của chính sách tiền tệ, nhưng thật ra, lãi suất là mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ. Do đó, NHNN vẫn điều hành chính sách lãi suất theo cơ chế kiểm soát trực tiếp. Đây là hạn chế lớn nhất trong việc điều hành chính sách lãi suất từ trước cho đến nay. - NHNN vẫn còn ban hành nhiều loại lãi suất khác nhau như lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu… Nhưng thực tế hiện nay, lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng thoát ly dần với các loại lãi suất do NHNN công bố, đặc biệt đối với lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản đã xơ cứng trong một thời gian tương đối dài, trong khi lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng luôn luôn thay đổi. Do vậy, chúng ta có thể nói rằng lãi suất cơ bản hầu như không còn được dùng “làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh” như Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam qui định (Điều 9, khoản 12). Và cũng do vậy, Điều 18 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam qui định “Ngân hàng Nhà nước xác định và công bố lãi suất cơ bản” gần như không còn cần thiết. - Các loại lãi suất nói trên thường mang tính hình thức do NHNN chưa thực hiện hoàn toàn chức năng người cho vay cuối cùng. Hơn nữa, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu chỉ được thực hiện một cách hạn chế do lượng tiền cung ứng không được điều hành bởi NHNN mà bởi Chính phủ; đồng thời các giấy tờ có giá chưa nhiều nên cánh cửa tái chiết khấu khó có thể mở rộng. - Việc điều hành chính sách lãi suất chưa phù hợp với các công cụ khác của chính sách tiền tệ như thị trường mở, tái chiết khấu… do các công cụ của thị trường tiền tệ này hoạt động quá yếu ớt và các tổ chức tín dụng tham gia cũng không nhiều. Mức độ phù hợp giữa lãi suất với tỷ lệ lạm phát cũng vậy. Trong nhiều năm qua, lãi suất có xu hướng hạ thấp, nhưng diễn biến của lạm phát thay đổi bất thường khiến cho lãi suất thực thiếu ổn định. Mặt khác, việc điều hành chính sách lãi suất hầu như không tác động nhiều đến mục tiêu kiềm chế lạm phát hoặc ngăn chặn giảm phát. Thành tựu Các chính sách lãi suất có xu hướng mởi rộng sự tự chủ của các NH, điều này là một điều rất tích cực, đặc biệt là trong giai đoạn mở cửa, hội nhập kinh tế. Trong mỗi thời kì, NHTW đã đưa ra được các chính sách phù hợp về lãi suất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. mặc dù các chính sách này còn nhiều bất cập nhưng cũng phần nào giải quyết được một số vấn đề về tăng trưởng NHNN có sự kiểm soát cần thiết đối với hệ thống NHTM, giúp cho việc thực hiện các chính sách lãi suất tương đối thuận lợi Các giải pháp điểu chỉnh lãi suất để phục vụ cho phát triển kinh tế . Mục tiêu hướng tới Ôn định lạm phát, bảo vệ đồng tiền quốc gia: Về phương diện lý thuyết, lãi suấtdanh nghĩa và lạm phát có mối quan hệ cùng chiều. Khi lạm phát tăng thì lãi suất danh nghĩa tăng để đảm bảo mức lãi suất thực được chấp nhận bởi các chủ thể trong nền kinh tế. Triển vọng của lãi suất thực có ảnh hưởng đến các kỳ vọng và hoạt động chi tiêu và đầu tư. Sau khi xác định được các kỳ vọng lạm phát, nếu người tiêu dùng tin rằng lãi suất tiết kiệm sẽ không thay đổi hoặc tăng rất thấp, nghĩa là lãi suất thực sẽ âm thì họ sẽ có khuynh hướng rút tiền gửi tiết kiệm và đầu tư vào bất động sản hoặc chứng khoán để bảo vệ sức mua. Điều này sẽ tạo nên bong bóng trên thị trường bất động sản và ngay lập tức sẽ làm cho CPI có xu hướng gia tăng, vì thế, lãi suất thực sẽ là một biến số quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định tiêu dùng, đầu tư của các chủ thể trong nền kinh tế, đồng thời cũng là biến số tác động đến kỳ vọng lạm phát. Do vậy, NHTƯ các nước thường kiểm soát kỳ vọng lạm phát thông qua xu hướng của lãi suất thực. Thông thường, NHTƯ sẽ bắt đầu tăng tỷ lệ lãi suất dần dần khi lạm phát tiến gần tới lãi suất tiền gửi danh nghĩa. Điều này phát đi một tín hiệu là NHTƯ sẽ có khuynh hướng duy trì chính sách lãi suất thực dương. Dấu hiệu này cũng sẽ làm suy yếu các kỳ vọng của thị trường về lãi suất thực âm và tăng giá của tài sản. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: lãi suất tác động đến đầu tư thông qua hoạt động cho vay và đi vay. Vì vậy, một chính sách lãi suất tốt phải thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách hợp lí . Các điều kiện thực tế trong việc điều chỉnh - Thực trạng của nền kinh tế nước ta hiện nay đang phải đối mặt với áp lực lạm phát và với sức phục hồi nền kinh tế còn thiếu vững chắc: Mặc dù tăng trưởng kinh tế quí I/2010 đạt 5,83%, cao hơn nhiều mức tăng trưởng quí I/2009, vốn đầu tư toàn xã hội tăng 26,23%, cao hơn rất nhiều mức tăng 9% của quý I/2009, song nhập siêu vẫn ở mức đáng lo ngại (xuất khẩu đạt 14 tỷ USD, nhập khẩu đạt 17,5 tỷ USD, nhập siêu đạt 3,5 tỷ USD), lạm phát tuy vẫn trong tầm kiểm soát nhưng đang có xu hướng tăng trở lại. - Cho đến thời điểm hiện nay, có thể thấy hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc về nhiều mặt, đặc biệt trong việc ứng dụng các công nghệ ngân hàng mới. Tuy nhiên, năng lực tài chính, năng lực quản trị, khả năng cạnh tranh của các thành viên trên thị trường tài chính không đồng đều, tính bền vững trong phát triển chưa cao: Xét trong hệ thống các tổ chức tín dụng với 73 ngân hàng và 08 tổ chức tín dụng phi ngân hàng chỉ có một số ít các ngân hàng thương mại có vốn điều lệ và tài sản có lớn. Riêng khối NHTM nhà nước (3 NHTM nhà nước, 2 NHTM mà trong đó Nhà nước chiếm cổ phần chi phối, 1 Ngân hàng Chính sách xã hội) vốn điều lệ đã chiếm 27,28% tổng vốn điều lệ của cả khối, thị phần huy động vốn và cung cấp tín dụng khoảng 60% (xem Biểu đồ 3); mức chênh lệch trong chiếm lĩnh thị phần của một ngân hàng lớn nhất với một ngân hàng lớn kế tiếp là tương đối lớn. Mức độ lớn về vốn điều lệ và tài sản có quyết định khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Đối với những ngân hàng có vốn nhỏ vẫn có sức mạnh trong cạnh tranh thị trường, song với một cấu trúc thị trường có tồn tại nhiều các NHTM có vốn và thị phần thấp thường nảy sinh những hành vi hạn chế cạnh tranh hay cạnh tranh không lành mạnh. Mặt khác, đối với nhóm ngân hàng lớn, thông qua vị thế mạnh của mình trong hệ thống, những hành vi chi phối thị trường của các ngân hàng này có thể gây ảnh hưởng tới tác động tổng thể của chính sách NHNN nói chung và chính sách lãi suất nói riêng. Tình trạng đua nhau tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động trong năm 2008 và những biểu hiện của thị trường những tháng đầu năm 2010 là sự biểu hiện rõ nét của tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh. Khi NHNN thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với cho vay trung hạn, các NHTM đã đẩy mức lãi suất cho vay rất cao, khoảng 18%. Mức lãi suất này đã hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của các NHTM (mức tăng trưởng tín dụng quí I chỉ đạt 3,34%). Trong quí I/2010, tăng trưởng tín dụng không cao, nguồn vốn vay của các NHTM từ NHNN để đáp ứng thanh khoản tăng lên, điều đó cho thấy vốn của các NHTM là không khan hiếm. Do vậy, với mức lãi suất huy động mà NHNN đã khuyến cáo các NHTM cần thực hiện theo thỏa thuận của Hiệp hội Ngân hàng là 10,5% và lạm phát mục tiêu của Chính phủ là 7% thì đã đảm bảo một mức lãi suất thực hợp lý cho người gửi tiền, nhưng phản ứng của các NHTM là vẫn đua nhau tăng mức lãi suất huy động cao hơn dưới nhiều hình thức. Những hiện tượng này biểu hiện sự bất cập lớn của thị trường, nếu không có những biện pháp ngăn chặn sẽ gây ra những bất ổn của hệ thống ngân hàng, từ đó có thể gây ra khủng hoảng ngân hàng. Trong cấu trúc thị trường hiện nay, còn có một đặc điểm ảnh hưởng không nhỏ đến tính hiệu quả của tự do hóa lãi suất, đó là thị phần tín dụng áp dụng mức lãi suất chính sách là không nhỏNgoài các khoản vay áp dụng cơ chế hỗ trợ lãi suất trong thời gian qua, thì chúng ta cũng có không ít các dự án, các lĩnh vực sản xuất được áp dụng lãi suất ưu đãi được thực hiện thông qua Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách xã hội, các dự án đầu tư phát triển được sử dụng các nguồn vốn ưu đãi ODA khác nữa... Các chính sách ưu đãi này là cần thiết trong quá trình phát triển nền kinh tế hiện nay, nhưng ở chừng mực nào đó nó làm giảm hiệu quả của chính sách tự do hóa lãi suất, vì khi đó lãi suất hình thành trên thị trường chưa phản ánh đúng cung cầu vốn nên việc phân bổ nguồn vốn qua công cụ lãi suất cũng bị méo mó. - Các nhà đầu tư nắm bắt thông tin thị trường không đầy đủ, dẫn đến phản ứng theo “bầy đàn” - là đặc điểm nổi bật của thị trường tài chính của Việt Nam hiện nay. Đặc điểm này dễ gây nên những kỳ vọng về lạm phát trước bất cứ một động thái chính sách kinh tế vĩ mô nào tạo tín hiệu áp lực lạm phát, nhất là chính sách tiền tệ - một chính sách theo đuổi mục tiêu lạm phát là trụ cột. - Về lý thuyết, khi cân nhắc lợi ích thu được từ các quyết định đầu tư, kinh doanh, các chủ thể trong nền kinh tế  thường sẽ quan tâm đến mức lãi suất thực mà mình được nhận được là bao nhiêu. Nhìn vào thực tế của Việt Nam, hiện tại, mức lãi suất thực mà người gửi tiền nhận được là mức lãi suất thực dương, trung bình trong 3 tháng đầu năm 2010  khoảng 2,8% - chưa kể đến các hình thức khuyến mại khác. Tuy nhiên, lãi suất thực đang có xu hướng giảm xuống bắt đầu từ tháng 2 do ảnh hưởng của tốc độ gia tăng CPI. Và trong trường hợp này, thường để theo đuổi mục tiêu lãi suất thực dương thì lãi suất danh nghĩa sẽ được tăng dần lên. Như vậy có nghĩa là các NHTM sẽ vẫn có thể tăng lãi suất huy động để cạnh tranh thu hút vốn nếu như NHNN dỡ bỏ trần lãi suất huy động vào thời điểm này. Hơn nữa, với xu hướng này, một tín hiệu nâng lãi suất chính sách có thể tạo ra kỳ vọng về lạm phát. Mặt khác, xét về góc độ lãi suất thực tác động đến tăng trưởng kinh tế, thì hiện nay, các nhà đầu tư vay vốn ngân hàng đang chịu một mức lãi suất thực tương đối cao. Đánh giá tác động của lãi suất thực đến tăng trưởng kinh tế, theo kết quả ước lượng mô hình đánh giá tác động của lãi suất thực lên tăng trưởng kinh tế theo phương pháp OLS (41 quan sát từ quý I/2000 đến tháng 3/2010 với mức ý nghĩa 10%) cho thấy khi lãi suất thực cho vay ngắn hạn tăng 1% sẽ làm tăng trưởng kinh tế giảm 0,04% so với quý trước. Điều này là hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về mối quan hệ ngược chiều giữa lãi suất, đầu tư và tổng sản lượng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, ngoài lãi suất thực còn nhiều yếu tố khác tác động lên tăng trưởng kinh tế, vì vậy, mức độ biến động của lãi suất thực mới chỉ giải thích được 12,3% biến động của tăng trưởng kinh tế. (Xem Đồ thị 3) - Là một nền kinh tế đôla hóa, lãi suất đồng nội tệ, lãi suất ngoại tệ và tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, với mức chênh lệch quá lớn giữa lãi suất nội tệ với lãi suất đồng ngoại tệ cộng với mức kỳ vọng về tỷ giá sẽ làm dịch chuyển sự nắm giữ giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ của các thành viên trong thị trường, điều này sẽ gây ra những rối loạn thị trường, tạo áp lực lên tỷ giá. Do vậy, chính sách lãi suất tiền đồng cũng phải giải quyết hài hòa mối quan hệ này. Trong năm 2009, vấn đề tỷ giá nổi lên như một điểm nhấn của sự ổn định, chính sách lãi suất của NHNN cùng hàng loạt các chính sách khác (như yêu cầu các tổng công ty lớn bán ngoại tệ cho NHNN, điều chỉnh tỷ giá công bố, điều chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, qui định trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các doanh nghiệp...) đã phải hướng tới sự ổn định này. (Tài liệu tham khảo: Chính sách lãi suất: Cơ sở lý luận và thực tiễn TS. Nguyễn Thị Kim Thanh-Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng – NHNN) Một số quan điểm cá nhân Hiện tại, NHNN đang áp dụng chính sách kiểm soát lãi suất, nhưng về lâu về dài thì nhất định phải thực hiện tự do hóa lãi suất. vì vậy, mặc dù thực hiện kiểm soát LS như hiện nay là cần thiết, nhưng cũng phải chú ý tạo điều kiện cho tự do hóa lãi suất sau này Cần thiết phải quy định lãi suất trần, xử lí nghiêm các NH có biểu hiện vượt trần lãi suất. điều này gây nên bởi tình trạng cạnh tranh không lành mạnh về lãi suất, tạo nên các áp lực về lãi suất trần, ảnh hưởng lớn đến đầu tư và tăng trưởng Phải nhanh chóng có những khung pháp lí, các biện pháp và chính sách lãi suất mang tính dài hạn, thay cho các chính sách còn mang nhiều tính đối phó hiện nay

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docanh_huong_cua_lai_suat_den_kinh_te_viet_nam__8448.doc
Luận văn liên quan