Đề tài Áp dụng dịch vụ hỗ trợ sau cho vay nhằm nâng cao khả năng thu nợ của Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - VPBank

LỜI MỞ ĐẦU Cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động kinh doanh của NHTM, cho vay là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu của NHTM đặc biệt là các NHTMVN và VPBank không phải là một ngoại lệ, song cho vay mới chỉ là “điều kiện cần”, “điều kiện đủ” là phải thu hồi nợ. Chỉ thu đủ nợ - cả gốc và lãi - thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng mới có thể được coi là hiệu quả. Muốn vậy, các khâu của hoạt động cho vay phải được thực hiện một cách trôi chảy theo những nguyên tắc nhất định để bảo đảm cho NHTM thu hồi được cả gốc và lãi khi hết thời hạn cho vay. Thực trạng hoạt động cho vay hiện nay cho thấy khả năng thu nợ chưa cao: nợ quá hạn, khó đòi, mất vốn và xoá nợ luôn và là một trong những nguy cơ đe doạ hiệu quả kinh doanh của các NHTM. Áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng tăng, đặc biệt sau khi hội nhập. Trong bối cảnh đó, các NHTM phải nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh, phải có doanh số cho vay cao và khả năng thu nợ tốt. Vì vậy, đây chính là lý do mà tác giả chọn đề tài "Áp dụng dịch vụ hỗ trợ sau cho vay nhằm nâng cao khả năng thu nợ của Ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - VPBank " để nghiên cứu và tìm ra những yêu cầu của thực tiễn hoạt động VPBank cũng như các NHTMVN nói chung hiện nay. Đối tượng nghiên cứu trong bài viết là hoạt động cho vay và dịch vụ hỗ trợ sau cho vay đối với khách hàng của các NHTM. Phạm vi nghiên cứu:Về mặt lý luận, đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu về hoạt động cho vay và dịch vụ hỗ trợ sau cho vay. Các mặt hoạt động khác của NHTM như: tăng cường quản lý hoạt động cho vay, hoàn thiện quy trình nghiệp vụ cho vay, các dịch vụ thanh toán, môi giới, tiện ích, v.v , cũng sẽ được đề cập song không phải là trọng tâm nghiên cứu. Về mặt thực tiễn, đề tài sử dụng số liệu và tài liệu của VPBank từ năm 2003-2006. Bài viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học, bao gồm: - Phương pháp thống kê. - Phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh. - Phương pháp chuyên gia. - Phương pháp quy nạp. Nhằm đạt mục đích nghiên cứu nói trên, kết cấu của bài viết ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung chính sẽ bao gồm 3 Chương như sau: - Chương I: Dịch vụ hỗ trợ sau cho vay và khả năng thu nợ của ngân hàng thương mại. - Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay, thu nợ và cung cấp dịch vụ hỗ trợ sau cho vay của Ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - VPBank - Chương III: Giải pháp áp dụng dịch vụ sau cho vay nhằm tăng cường khả năng thu nợ của Ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - VPBank. Do thời gian và điều kiện tiếp cận với chi nhánh ngân hàng VPBank có giới hạn, hơn nữa kiến thức, kinh nghiệm trong vấn đề nghiên cứu còn hạn chế nên trong phạm vi của luận văn chỉ phản ánh, phân tích một phần nào đó về các hoạt động và dịch vụ hỗ trợ sau cho vay của VPBank qua các năm 2003 – 2006 và một số biện pháp chủ yếu nhằm áp dụng hiệu quả các dịch vụ này.

doc75 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2320 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Áp dụng dịch vụ hỗ trợ sau cho vay nhằm nâng cao khả năng thu nợ của Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - VPBank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cạnh tranh. Trong những năm gần đây, VPBank đã cơ cấu lại Phòng tín dụng của mình thành phòng phục vụ khách hàng cá nhân và Phòng phục vụ khách hàng doanh nghiệp. Đó là điều kiện tốt để Ngân hàng chuyên môn hóa trong việc cho vay đối với các doanh nghiệp và tư nhân. Những kết quả đạt được trong hoạt động cho vay của ngân hàng cụ thể như sau Về dư nợ cho vay: Dư nợ cho vay là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ. Nó phản ánh quy mô cấp tín dụng của Ngân hàng cho nền kinh tế. Dư nợ cho vay theo qui mô doanh nghiệp: Chỉ tiêu 2005 2004 2005/2004 2003 04/ 03 Doanh số Tỷ trọng % Doanh số Tỷ trọng % Tỷ trọng Doanh số Tỷ trọng % Tỷ trọng % Tổng 3.014.131 100 1.865.400 100 61.58% 1.525.661 100 22.27 DN lớn 184.669 6.13 193.467 10.38 - 4,76% 363.390 23.82 - 46.76 DN nhỏ&vừa 1.446.775 48.66 978.029 52.43% 49.97% 751.802 49.23 30.22 CVTD cá nhân 1.362.687 45.21 693.904 37.19 96.38% 289.894 26.95 139.36 Đơn vị tính triệu đồng Dư nợ tín dụng của VPBank chủ yếu là dư nợ cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tiêu dùng cá nhân. Trong khi tỷ trọng dư nợ cho vay của DN vừa và nhỏ, tiêu dùng cá nhân không ngừng tăng lên qua các năm thì dư nợ cho vay các doanh nghiệp lớn lại có xu hướng giảm đi, năm 2003 dư nợ là 363.390 triệu đồng thì năm 2005 chỉ còn 184.669 triệu đồng. Điều này không có nghĩa là VPBank chỉ chú trọng đến cho vay cá nhân và doanh nghiệp nhỏ mà trên thực tế khả năng cho vay của VPBank còn hạn chế nên bước đầu, VPBank chú trọng đến cho vay các doanh nghiệp lớn nhưng với qui mô vừa và nhỏ phù hợp với điều kiện của ngân hàng.. Việc cho vay cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ cho phép ngân hàng tận dụng được các ưu thế của mình cũng như các tiềm năng trong xã hội. Dư nợ cho vay theo thời gian: Chỉ tiêu 2006 2005 2004 05/04 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Tỷ trọng Tổng 5.256.000 100% 3.014.209 100% 1.865.364 100% 62.00% Ngắn hạn 2.850.328 54.23% 1.407.151 46.68% 1.004.349 53.84% 40.00% Trung–dài hạn 2.405.672 45.77% 1.607.058 53.32% 855.303 45.85% 88.00% Đơn vị tính triệu đồng Qua bảng số liêu ta thấy cả dư nợ ngắn hạn và trung hạn đều có xu hướng tăng lên. Năm 2004 dư nợ ngắn hạn đạt 1.004.349 triệu đồng chiếm 53.84% trong tổng dư nợ thì đến năm 2005 là 1.407.151, tăng 40% so với 2004. Trong khi đó, năm 2004,2005, dư nợ trung và dài hạn đã tăng lên gần gấp đôi (88%) tương đương với 751.755 triệu đồng. Năm 2004, tỉ trọng cho vay trung và dài hạn thấp hơn nhiều so với cho vay ngắn hạn, sở dĩ như vậy do khả năng cho vay của ngân hàng còn hạn chế, mặt khác cho vay trung và dài hạn chứa đựng rủi ro cao hơn do thời gian thu hồi vốn dài trong khi nguồn của Ngân hàng chủ yếu là nguồn ngắn hạn… Song, để đáp ứng được điều kiện cạnh tranh khốc liệt của các ngân hàng cũng như mở rộng tín dụng, Ngân hàng đã từng bước nâng cao dư nợ cho vay trung và dài hạn, điều đó được thể hiện ở dư nợ cho vay trung và dài hạn đã tăng lên đáng kể trong năm 2005. Về thu nợ Doanh số thu nợ Chỉ tiêu 2005 2004 2005/2004 2003 2004/2003 Tăng/Giảm % Tăng/giảm % HĐTD 2.840.684 1.923.412 917.272 47.69 1.077.607 845.805 78.49 Tỷ trọng 46.74% 43.16% 39.85% Đơn vị tính triệu đồng Nhìn chung tình hình thu nợ đối với các thành phần kinh tế đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, điều này cho thấy hoạt động cấp tín dụng của chi nhánh có chuyển biến theo hướng tích cực, có thể đánh giá phần nào qua công tác lựa chọn khách hàng cũng như theo dõi việc sử dụng vốn vay và tư vấn cho khách hàng trong những khó khăn mà họ gặp phải, hạn chế việc gia hạn nợ, nhờ vậy mà doanh số thu nợ qua các năm tăng lên đáng kể. Qua bảng trên, ta thấy, doanh số thu nợ từ hoạt động cho vay của ngân hàng liên tục tăng qua các năm. Năm 2003, thu nợ 1.077.607 triệu đồng thì đến năm 2004 đã tăng lên đáng kể 1.923.412 triệu đồng tương đương với 28.49%. Cho đến năm 2005 thì doanh số này vân tiếp tục tăng lên 47.69% so với 2004. Việc tăng doanh số thu nợ qua mỗi năm chứng tỏ hoạt động cho vay của ngân hàng ngày càng hiệu quả, chất lượng tín dụng đảm bảo hơn. Doanh thu cho vay tại VPBank giai đoạn 2003-2005 Chỉ tiêu 2005 2004 2005/2004 2003 04/ 03 Tăng/giảm % Tăng/giảm % Doanh thu từ hoạt động TD 144.902 108.775 36.127 33.21 93.753 15.022 16.03 Tỷ trọng % 37.15 37.56 34.15 Đơn vị tính triệu đồng Doanh thu của hoạt động tín dụng phần lớn chủ yếu là từ lãi của các khoản cho vay. Doanh thu này càng lớn sẽ góp phần làm cho thu nhập của ngân hàng ngày càng tăng, thể hiện sự thành công của ngân hàng. Qua mấy năm qua, doanh thu từ hoạt động cho vay của ngân hàng cũng tăng lên. Do ngân hàng ngày càng mở rộng mạng lưới giao dịch, tiếp cận với dân cư và các doanh nghiệp hơn nhằm đem lại sự thuận lợi nhiều hơn cho khách hàng khi giao dịch với ngân hàng mình đồng thời làm tăng khả năng nhận biết thương hiệu VPBank. Bên cạnh đó thì VPBank không ngừng đào tạo, tuyển dụng nhân sự sao cho có một đội ngũ cán bộ công nhân viên năng động, nhiệt tình trong công việc và nắm vững nghiệp vụ. Chính nhờ vậy nên doanh thu của ngân hàng đã, đang và sẽ tăng lên trong tương lai. 2.3. Dịch vụ hỗ trợ sau cho vay: 2.3.1. Các dịch vụ cung cấp cho khách hàng: Trong mấy năm gần đây, VPBank không ngừng mở rộng, tăng vốn điều lệ và ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống các dịch vụ của ngân hàng mình. Ngoài các dịch vụ Ngân hàng nhà nước qui định như: nhận tiền gửi, thực hiện trao đổi ngoại tệ, chiết khấu thương phiếu, bảo quản vật có giá, cung cấp các tài khoản giao dịch…thì hiện nay, ngân hàng không ngừng đầu tư mở rộng dịch vụ các dịch vụ tư vấn tài chính, dịch vụ thuê mua thiết bị, cho vay tài trợ dự án, bán các dịch vụ bảo hiểm, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán,… Với việc cung cấp một số lượng lớn dịch vụ như vậy, VPBank ngày càng thu hút được nhiều khách hàng hơn. Một số loại hình dịch vụ mới như giao dịch qua internet đang được triển khai và mở rộng, gần đây VBbank ký hợp đồng với đối tác công nghệ tin học TEMENOS – Thụy sỹ để tiếp nhận công nghệ Core Banking mới, với dịch vụ này chắc chắn VPBank sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để phát triển sản phẩm, dịch vụ mới trên nên tảng công nghệ hiện đại. Khách hàng có thể hoàn toàn thỏa mãn tất cả các nhu cầu dịch vụ tài chính của mình thông qua một ngân hàng. Tuy nhiên, chỉ trong mấy năm gần đây, VPBank mới thực sự phát triển vượt trội nên ngoài một số các dịch vụ đã đi vào hoạt động vẫn còn một số dịch vụ cần thiết mà ngân hàng chưa đủ điều kiện đáp ứng được như: dịch vụ hỗ trợ quản lý tài chính, hỗ trợ kỹ thuật công nghệ,… 2.3.2. Các dịch vụ hỗ trợ sau cho vay Dịch vụ hỗ trợ sau cho vay rất cần thiết để nâng cao chất lượng tín dụng cũng như uy tín của ngân hàng.Về cơ bản, VPBank đã cung cấp được một số dịch vụ như: Dịch vụ tư vấn tài chính, dịch vụ thông tin. Tuy nhiên, do còn rất nhiều khó khăn do điều kiện về tài chính, nguồn nhân lực, công nghệ kỹ thuật hiện đại nên những dịch vụ này mới chỉ ở bước đầu sơ khai. Do VPBank chỉ là ngân hàng nhỏ so với các ngân hàng quốc tế, trình độ công nghệ ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho việc cung cấp, giải thích các đặc điểm về hoạt động của các cơ quan Ngân hàng và một phần nào đó về lĩnh vực chuyên môn trong lĩnh vực kinh tế và tài chính. Khi cung ứng các dịch vụ khác nhau cho khách hàng của mình (đặc biệt các dịch vụ liên quan đến cho vay), ngân hàng nhận được đầy đủ các thông tin rất đa dạng và có giá trị. Sự trao đổi thông tin với các ngân hàng khác và các dịch vụ của các hãng thông tấn lớn là nguồn quan trọng để nhận thêm thông tin. Trên cơ sở đó, Ngân hàng có thể xây dựng được các cơ sở dữ liệu phong phú và khách hàng cần phải trả một số tiền nhất định cho ngân hàng để được nhận thông tin. Việc giúp đỡ khách hàng trong dự toán tỷ giá trao đổi của ngoại tệ, dự đoán về sự thay đổi lãi suất là một mảng tư vấn quan trọng vẫn đang được triển khai. Ngoài ra, ngân hàng còn một số các chuyên gia về kinh tế đối ngoại, marketing và luật nhằm hỗ trợ, giải quyết vướng mắc cho khách hàng khi họ yêu cầu. Dịch vụ tư vấn có thể được mở rộng tới cả việc thu xếp theo yêu cầu của khách hàng về việc tính toán, lập báo cáo, lập các chứng từ thanh toán,… Các dịch vụ này cần phải được ngân hàng cung cấp không chỉ vì để thu thêm lợi nhuận mà còn để giải thích cho khách hàng thấy được tính chất tinh vi của ngân hàng, của các loại dịch vụ mới, điều đó mặc nhiên làm tăng số lượng khách hàng. Ngoài ra, dịch vụ thông tin như thường lệ làm tăng đáng kể số lượng khách hàng của ngân hàng, bởi vì điều đó tạo ra sự thuận tiện hơn đối với họ nhận thông tin, thực hiện giao dịch ngay tại ngân hàng mà không phải đi đâu thêm. Việc áp dụng các dịch vụ này đòi hỏi một chi phí khá lớn do , ngân hàng phải thành lập một phòng chuyên môn thu thập và xử lý thông tin kinh tế, chức năng của nó là nghiên cứu các quá trình kinh tế trong và ngoài nước cũng như tình hình các doanh nghiệp trong mỗi ngành kinh tế quốc dân, ngoài ra, các phòng đó còn lập báo cáo tổng kết khác nhau về kinh tế và các công bố khác với nội dung phân tích tương tự nên ngân hàng cần một đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, sự hợp tác với một số tổ chức lớn để thu thập thông tin…. Hơn thế nữa, việc trả tiền về dịch vụ tư vấn phụ thuộc vào thời gian, tính phức tạp của loại tư vấn và trình độ chuyên môn của cán bộ cung ứng dịch vụ đó. Nên để có một chất lượng cung cấp dịch vụ thông tin tốt thì ngân hàng phải có một đội ngũ chuyên gia thông thạo và có kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực về kinh tế, tài chính, luật... Để thực hiện được điều đó, bước đầu ngân hàng cần phải có một khả năng tài chính tương đối và có uy tín trên thị trường. Vì vậy, việc áp dụng các dịch vụ hỗ trợ thông thường chỉ phát triển ở các ngân hàng lớn, có danh tiếng, nơi đã đáp ứng tốt tất cả các dịch vụ truyền thống cho khách hàng và luôn có đủ tiềm lực triển khai nghiên cứu các dịch vụ mới để tăng lợi nhuận của ngân hàng ở mức cao nhất có thể. Ngoài ra, trong khi triển khai dịch vụ, điều quan trọng nhất ngân hàng phải quan tâm là thái độ của khách hàng đối với loại hình mới mẻ này. Vì trên thực tế, một loại hình dịch vụ dù có được đầu tư phát triển đến đâu mà không được khách hàng chấp nhận thì cũng sẽ bị quên lãng. Nên, trước tiên, việc marketing, áp dụng dịch vụ mới thí điểm với những khách hàng lâu năm của ngân hàng là điều rất cần thiết, từ đó lấy ý kiến nhận xét, đưa ra các kết luận về từng loại dịch vụ, rút kinh nghiệm và từng bước hoàn thiện dịch vụ để có thể phù hợp với mọi đối tượng khách hàng. Nhìn chung, một số dịch vụ hỗ trợ cho khách hàng sau khi cho vay đã được triển khai tại ngân hàng nhưng mới trên phạm vi hẹp và chưa có thành tựu gì nổi bật. Qua việc triển khai một số loại hình dịch vụ tư vấn cho khách hàng, việc thu nợ của VPBank đã có thể được cải thiện phần nào nhưng không đáng kể. Tuy nhiên, trong bước đầu triển khai dịch vụ, kết quả cho thấy rất khả quan. Việc áp dụng mở rộng dịch vụ trong tương lai được đánh giá là rất hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, hạn chế tối đa rủi ro tín dụng và đem lại hiệu quả thu nợ cao cho ngân hàng. 2.4. Đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay, thu nợ và cung cấp dịch vụ sau cho vay của VPBank 2.4.1. Kết quả đạt được: Trong bối cảnh có nhiều thuận lợi về môi trường kinh tế, chính trị; tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (tổng sản phẩm trong nước năm 2006 tăng 8,4% so với năm 2005) và môi trường đầu tư có nhiều cải thiển hơn (bằng chứng là trong năm 2006 chúng ta đã thu hút trên 8 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài – FDI. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã gặt hái được khá nhiều thành công. Tuy nhiên, không phải là không có những biến động bất lợi ảnh hưởng đến hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng nói chung và đặt biệt là các NHTM CP nói riêng: chẳng hạn, mức lạm phát trong nền kinh tế khá cao gây ảnh hưởng lớn tới hoạt động huy động vốn của các ngân hàng. Trước tình hình này, ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài Quốc doanh (VPBank) đã vượt qua được khó khăn chung để đạt những thành tựu khá quan trọng. Điều đáng nói ở đây là trong năm vừa qua ngân hàng vừa mới thoát khỏi vòng kiẻm soát đặt biệt của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Như vậy, vượt qua được giai đoạn khủng hoảng kéo dài (1997- 2004), VPBank đã từng bước khẳng định sức mạnh uy tín và thương hiệu của mình. Về doanh số và dư nợ cho vay: Nhìn chung tình hình hoạt động cho vay của ngân hàng trong 3 năm trở lại luôn đạt được sự tăng trưởng cao, bền vững góp phần làm lạnh mạnh hoạt động kinh doanh cũng như đem lại hiệu quả chung trong việc thực hiện các nhiệm vụ của ngân hàng. Những chỉ tiêu ngân hàng đặt ra thì luôn vượt kế hoạch, điều đó chứng tỏ ngân hàng đã có hướng đi đúng trong chiến lược kinh doanh. Về thời hạn cho vay: Song song với việc đưa ra rất nhiều sản phẩm cho vay tiêu dùng cá nhân, ngân hàng cũng không ngừng tìm kiếm các khách hàng doanh nghiệp, mở rộng cho vay trung và dài hạn với đối tượng khách hàng này. Dư nợ cho vay trung và dài hạn ngày càng gia tăng trong năm 2005, 2006. Về công tác đảm bảo tiền vay: Để mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp nói chung, trong việc đánh giá giá trị bảo đảm của tài sản, ngân hàng đã dựa vào giá trị thị trường nhiều hơn thay vì khung giá do nhà nước đưa ra. Điều đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ tiếp cận với nguồn vốn vay hơn đồng thời thu xếp được lượng vốn đủ lớn cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Về công tác thu hồi nợ: Ngân hàng đã tổ chức phòng thu hồi nợ riêng, hoạt động một cách trình tự, liên kết chặt chẽ giữa các khâu và đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ trung, tận tình tư vấn tạo điều kiện cho khách hàng trả nợ đầy đủ, đúng hạn song cũng kiên quyết xử lý đối với những khách hàng có thái độ chây ỳ, thiếu ý thức trả nợ. Vì vậy, tỉ lệ nợ xấu, nợ quá hạn chỉ còn chiếm 0.75% trên tổng dư nợ cho vay. Về đối tượng khách hàng: Cùng với việc mở rộng mạng lưới chi nhánh trên khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước, VPBank cũng đã thành công trong việc thu hút thêm những đối tượng khách hàng mới, mở rộng cho vay với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Về chất lượng khoản vay: Những năm gần đây, chất lượng cho vay của VPBank đối với nền kinh tế ngày càng cao, điều đó thể hiện qua doanh số thu nợ cao, tỷ lệ nợ quá hạn thấp (chỉ chiếm vài %). Về dịch vụ hỗ trợ sau cho vay: Ngân hàng đã triển khai thêm nhiều loại hình dịch vụ mới, tuyển dụng một lượng cán bộ công nhân viên trẻ với trình độ đại học và trên đại học nhằm cung ứng dịch vụ tư vấn cho khách hàng để khách hàng kinh doanh có hiệu quả, tạo điều kiện cho ngân hàng thu hồi khoản cho vay một cách dễ dàng hơn. Công tác quản trị nhân sự, công tác tuyển dụng, đào tạo, đánh giá nhân viên định kỳ, công tác khen thưởng kỷ luật, nâng lương, đề bạt, sắp xếp bố trí nhân sự phù hợp với khả năng và nguyện vọng của mỗi người… luôn là vấn đề được quan tâm kiện toàn và thực hiện khoa học của VPBank. Nhờ vậy, chất lượng đội ngũ nhân viên của VPBank ngày càng cao – là một trong những động lực chính đem lại thành công cho ngân hàng trong những năm vừa qua. Toàn hệ thống tính đến cuối năm 2005 có 782 người – tăng 298 người so với năm 2004. Công tác tuyển dụng được thực hiện nghiêm túc trên tinh thần hợp tác chặt chẽ với các Trường, Học viện để tổ chức giao lưu hàng năm với sinh viên qua đó tiếp nhận các sinh viên có học lực khá, giỏi về thực tập sau đó tuyển chọn những nhân viên tốt nhất về làm việc tại ngân hàng. Nhìn chung tình hình thu nợ đối với các thành phần kinh tế đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, điều này cho thấy hoạt động cấp tín dụng của chi nhánh có chuyển biến theo hướng tích cực, có thể đánh giá phần nào qua công tác lựa chọn khách hàng cũng như theo dõi việc sử dụng vốn vay và động viên khách hàng để khách hàng trả nợ đúng hạn, hạn chế việc gia hạn nợ, nhờ vậy mà doanh số thu nợ qua các năm tăng lên đáng kể. Để đạt được những thành tựu như vậy trước hêt phải kể đến sự lãnh đạo sáng suốt của Hội đồng quản trị và Ban điều hành VPBank. Năm 2000, Hội đồng quản trị đã xác định mục tiêu chiến lược cho VPBank cho đến năm 2010 là xây dựng VPBank thành Ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam và trong khu vực. Khách hàng tiềm năng quan trọng nhất của VPBank sẽ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể và phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của dân cư. Việc xác định lại mục tiêu chiến lược như trên là đúng đắn phù hợp với tình hình thực tế của VPBank nói riêng và nước Việt Nam nói chung khi chúng ta gia nhập WTO. Với phương châm kiểm soát và ngăn ngừa rủi ro để tích cực phòng tránh thay vì giải quyết rủi rui, VPBank đã có một hệ thống quản trị rủi ro chặt chẽ và khoa học từ cấp quản trị bậc cao xuống tới từng nhân viên nghiệp vụ. Cơ cấu quản trị rủi ro gồm Ban Kiểm soát, Hội đồng tín dụng và ban tín dụng, Hội đồng ALCO, hệ thống kiểm tra – kiểm toán nội bộ của VPBank. Ngoài ra, các nhân viên đều có trách nhiệm thường xuyên tự kiểm soát hoạt động của mình để hạn chế thấp nhất rủi ro trong phạm vi nhiệm vụ được phân công. Nhờ có cơ chế kiểm soát rủi ro như trên mà nhiều năm qua VPBank đã hạn chế được rủi ro trong mọi hoạt động của mình và đạt kết quả kinh doanh cao. Trong năm 2005, VPBank cũng đã tìm hiểu, mời một số đối tác tham gia cung cấp gói thầu CORE Banking cho VPBank.Vào tháng 2-2006, VPBank đã chính thức ký hợp đồng với đối tác công nghệ tin học TEMENOS – Thụy sĩ để tiếp nhận công nghệ Core Banking mới. Dự kiến tháng 3/2007, VPBank sẽ triển khai đồng loạt tại tất cả các chi nhánh. Với chương trình Core Banking mới, chắc chắn VPBank sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để phát triển sản phẩm, dịch vụ mới trên nền tảng công nghệ hiện đại. Trong năm qua, VPBank cũng đã thực hiện tài trợ cho một số chương trình truyền hình lớn, đó là chương trình “Khởi nghiệp” trên VTV3, Đài truyền hình Hà Nội, tài trợ cho chương trình “Nhà ngân hàng trẻ” của sinh viên Học viện Ngân hàng… Các hoạt động này đã góp phần quan trọng đưa hình ảnh của VPBank đến gần với công chúng hơn. Thương hiệu VPBank đến nay đã gần quen thuộc với công chúng, góp phần quan trọng vào việc phát triển khách hàng, mở rộng thị phần cũng như nâng cao giá trị thị trường của cổ phiếu VPBank. Hạn chế và nguyên nhân Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì chặng đường phát triển của VPBank cũng còn rất nhiều khó khăn, hạn chế cần giải quyết: Thứ nhất, mặc dù hiện nay thị trường tín dụng khá sôi động, nhưng nhìn chung chưa quán xuyến được toàn bộ nhu cầu vốn thông qua kênh tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế. Khả năng và tính linh hoạt của thị trường tín dụng còn nhiều hạn chế, nhiều nhu cầu vay vốn chưa được đáp ứng, nhất là vốn trung, dài hạn và các nhu cầu vốn nhỏ, lẻ và thời vụ trong nông nghiệp, nông thôn. Qua các số liệu phân tích ở trên, ta thấy doanh số cho vay cũng như dư nợ bình quân của ngân hàng vẫn còn thấp. So với nhu cầu vay vốn thực chất trên các địa bàn chính như: Hà nội, Hải phòng, Đà nẵng TP Hồ Chí Minh… thì khả năng cung ứng của ngân hàng vẫn chưa đáp ứng đủ. Thứ hai: Mức vốn tự có của ngân hàng thấp hơn rất nhiều so với các ngân hàng trong khu vực cũng như trên thế giới. Mức vốn tự có thấp là nguyên nhân làm yếu sức mạnh tài chính và rủi ro kinh doanh lớn. Điều đó gây khó khăn cho ngân hàng trọng việc mở rộng hoạt động tín dụng đồng thời năng lực tài chính yếu kém hạn chế việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ sau cho vay của ngân hàng. Chất lượng tín dụng tuy được cải thiện nhưng nguy cơ rủi ro vẫn rất lớn. Tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ cho vay vốn còn cao so với tiêu chuẩn quốc tế. Thứ ba: Quy trình cho vay doanh nghiệp của Ngân hàng đã được điều chỉnh tương đối phù hợp với đối tượng khách hàng này và tạo tính chủ động cho cán bộ tín dụng. Tuy nhiên, thời gian trung bình để giải ngân một khoản tín dụng cho doanh nghiệp là 5 – 7 ngày kể từ ngày tiếp xúc với khách hàng tới khi cấp tiền vay, khoản thời gian này còn khá dài trong khi quyền quyết định cấp tín dụng là Ban tín dụng hoặc Hội đồng tín dụng (tùy theo qui mô khoản vay) lại nằm ở khâu cuối cùng cho nên nếu Ban tín dụng từ chối thì sẽ gây lãng phí các chi phí thẩm định của cán bộ tín dụng và mất thời gian của khách hàng. Thứ tư: cơ cấu tổ chức của các ngân hàng mặc dù có tiến bộ khá và có nhiều đổi mới nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập. Ngân hàng còn hạn chế trong việc tìm kiếm khách hàng và tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của họ để đưa ra các sản phẩm dịch vụ phù hợp với nhu cầu từng loại khách hàng. Những thông tin về doanh nghiệp mà ngân hàng có được chủ yếu là do khách hàng cung cấp, chưa khai thác hiệu quả các nguồn thông tin khác như: từ đối tác của khách hàng, từ các ngân hàng khác, từ phương tiện thông tin đại chúng. Điều đó làm hạn chế trong việc phát triển dịch vụ tư vấn của ngân hàng. Thứ năm: Ngân hàng đã mở rộng cho vay được đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhưng khi ngân hàng mới chủ yếu cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, công ty TNHH và Công ty cổ phần. Việc cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước còn khá khiêm tốn cả về số tiền và tỷ trọng. Thứ sáu: chế độ kế toán thống kê chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Hiện nay, trong bối cảnh nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập và đặc biệt là chuẩn bị gia nhập WTO thì nhất thiết hệ thống ngân hàng Việt Nam phải từng bước chuyển đổi sang IAS vì hệ thống kế toán này đang được công nhận là một thước đo quốc tế của hầu hết các quốc gia, các tổ chức quốc tế (WB, Uỷ ban châu Âu, Tổ chức hợp tác quốc tế châu Á Thái Bình Dương...). Đặc biệt là WTO cũng khuyến khích việc hoàn thiện các chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực kế hoạch do IASC tiến hành. Chính vì vậy, việc triển khai dịch vụ hỗ trợ của ngân hàng về kế toán, kiểm toán vẫn chưa thể thực hiện. Thứ bẩy: dịch vụ ngân hàng chưa phong phú, chưa tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho các khách hàng thuộc các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng. VPBank nói riêng và các NHTM Việt Nam nói chung còn nặng về các dịch vụ truyền thống. Các NHTM Việt Nam hiện nay mới cung cấp khoảng 30 sản phẩm, trong khi các ngân hàng của các nước trong khu vực đã có hàng trăm, hàng nghìn sản phẩm. Một số ngân hàng của Nhật Bản đã có tới 6.000 sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Thứ tám: Công nghệ ngân hàng tuy đổi mới cơ bản nhưng vẫn còn một khoảng cách khá xa so với hệ thống ngân hàng của các nước trong khu vực. Điều này thể hiện ở các dịch vụ ngân hàng hiện đại đã trở nên quen thuộc và phổ biến đối với các nước trong khu vực, thì đối với Việt Nam hoặc chưa có hoặc mới bắt đầu đưa vào áp dụng mang tính chất thí điểm trong phạm vi hẹp các đối tượng khách hàng sử dụng chưa mang tính phổ biến. Mức ứng dụng này làm người ta lo ngại cho sự yếu kém và tụt hậu của ngành ngân hàng trong bối cảnh sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử và hội nhập toàn cầu.     Cuối cùng, rủi ro "đạo đức" trong ngân hàng cũng  cần được thực sự quan tâm. Những rủi ro trong giao dịch một cửa, thanh toán thẻ, chuyển tiền điện tử, kinh doanh hối đoái, ngân quỹ... đã xuất hiện những tiềm ẩn cho ngân hàng. Nguyên nhân: Có rất nhiều những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác đang làm cho chất lượng tín dụng của ngân hàng không cao, tiềm ẩn và chứa đựng nhiều rủi ro đối với cả tín dụng khu vực kinh tế nhà nước cũng như khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn hạn chế, mà nguyên nhân có từ hai phía: các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thiếu các điều kiện vay vốn, Ngân hàng do chưa phát triển dịch vụ hỗ trợ sau cho vay lo sợ vấn đề an toàn vốn vay. Cơ cấu nguồn vốn cũng như cơ cấu đầu tư chưa phù hợp và đáp ứng yêu cầu đầu tư trung dài hạn cho các công trình hạ tầng cơ sở có tính chất nền tảng cho CNH, HĐH, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Năng lực giám sát cho vay và quản trị rủi ro của ngân hàng mặc dù đã được đầu tư phát triển song chưa đáp ứng các chuẩn mực quốc tế. Ngân hàng còn quá coi trọng tài sản đảm bảo mà hơi xem nhẹ yếu tố đồng tiền trả nợ của khách hàng. Nhiều khách hàng có tình hình tài chính tốt, có khả năng trả nợ nhưng tài sản đảm bảo lại có giá trị nhỏ hoặc chưa đủ về mặt pháp lý cũng bị loại ra khỏi danh sách những người được vay vốn. Mặc dù đã tăng cường các biện pháp huy động, nhưng khả năng huy động vốn trung, dài hạn của ngân hàng vẫn còn thấp so với nhu cầu vốn vốn đầu tư dài hạn của nền kinh tế. Hơn nữa vốn huy động chủ yếu vẫn là hình thức tiết kiệm truyền thống, chiếm khoảng 80% tổng huy động tiền gửi từ dân cư. Sự mất cân đối về kỳ hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, trong khi vốn huy động ngắn hạn chiếm đến 70% tổng nguồn vốn, thì dư nợ cho vay trung dài hạn lại chiếm đến 45% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu ngân hàng không đảm bảo duy trì ổn định việc huy động vốn theo kế hoạch, cũng như khả năng thu nợ không phù hợp với yêu cầu chi trả các khoản tiền gửi do chênh lệch về thời hạn, có thể dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán là điều dễ xảy ra đối với bất cứ ngân hàng nào có quy mô nhỏ, hệ số an toàn vốn thấp và sử dụng nhiều vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn. Chính vì hoạt động của ngân hàng chưa đem lại hiệu quả cao nên khả năng tài chính của ngân hàng chưa thể đáp ứng cho việc phát triển các dịch vụ hỗ trợ sau cho vay. Đa phần các nhân viên của Ngân hàng là trẻ, năng động và sáng tạo nhưng ít kinh nghiệm thực tế, sự hiểu biết về các doanh nghiệp còn hạn chế. Thông thường, các doanh nghiệp đều có những đặc điểm cổ hũ như: chiến lược kinh doanh kém, thông tin tài chính không rõ ràng… nên đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải có một số kỹ năng đặc biệt khi thẩm định nhu cầu vay vốn hoặc khi tư vấn cho các doanh nghiệp về tài chính, kế toán, chiến lược kinh doanh… Tuy nhiên, những kỹ năng này phần lớn còn thiếu đối với các cán bộ tín dụng. Đối với hầu hết tất cả ngân hàng trong nước thì dịch vụ hỗ trợ sau cho vay vẫn còn mới mẻ, chưa được triển khai áp dụng nhiều trong khi VPBank mới chỉ là một ngân hàng cỡ nhỏ nên việc phát triển dịch vụ này còn ở mức hạn chế. Trong điều kiện vốn của ngân hàng mới đủ để mở rộng phát triển mạng lưới ngân hàng và những dịch vụ ngân hàng nhà nước qui định, cán bộ trong ngân hàng chưa có đủ trình độ chuyên môn về lĩnh vực kinh tế tài chính, việc phát triển được các dịch vụ hỗ trợ khách hàng đòi hỏi thêm một lượng vốn lớn nữa cho đầu tư công nghệ hiện đại, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giỏi thật sự thì vẫn còn khó khăn đối với ngân hàng. Trong năm 2007, với cam kết mở cửa của Việt Nam khi gia nhập WTO, khi các ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam thì các ngân hàng nhỏ trong nước phải đối mặt với sự cạnh tranh hết sức gay gắt để cung cấp các sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao ở mức giá hợp lý cho khách hàng. Vì vậy VPBank cũng như các ngân hàng khác cần phải tạo ra các loại hình dịch vụ mới mà thị trường có nhu cầu trong đó dịch vụ hỗ trợ khách hàng sau cho vay được xem là cần thiết. Tóm lại, qua ba năm trở lại đây, mặc dù gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của kinh tế, xã hội, chính trị trong nước và quốc tế, được sự ủng hộ và giúp đỡ nhiệt tình của Chính phủ, các cơ quan Bộ, ngành, các Tổ chức quốc tế, khắc phục những mặt hạn chế, tồn tại do cơ chế chính sách, VPBank đã có những bước phát triển vượt bậc, hoàn thành xuất sắc những mục tiêu đề ra, liên tục tăng vốn điều lệ mở rộng mạng lưới chi nhánh, tăng cường đạo tạo đội ngũ nhân viên, nâng cao, triển khai áp dụng khoa học công nghệ, hoàn thiện các dịch vụ để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài. Đồng thời thương hiệu VPBank cũng được nhiều người biết đến qua chiến lược marketing của mình. Doanh số cho vay của ngân hàng cũng liên tục tăng qua các năm thể hiện qua thu nhập của ngân hàng cũng tăng lên đáng kể. Công tác đối ngoại đã mở rộng quan hệ hợp tác, hỗ trợ đối với nhiều cơquan bộ, ngành, tổ chức quốc tế, học tập kinh nghiệm và nâng cao vị thế của Ngân hàng trong hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ÁP DỤNG DỊCH VỤ HỖ TRỢ SAU CHO VAY NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA VPBANK Bước sang năm 2006, dự báo tại Hội nghị Ngân hàng Trung ương nhóm G-10 là nền kinh tế thế giới sẽ tiếp tục phát triển mạnh, tốc độ tăng trưởng có thể cao hơn năm 2005. Nhận định của Chính phủ về nền kinh tế Việt nam năm 2006 cũng lạc quan với tỷ lệ tăng trưởng cao, lạm phát giảm, tốc độ hội nhập sẽ được đẩy nhanh. Năm nay, Việt nam sẽ chính thức tiếp nhận vị trí Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Kinh doanh APEC(ABAC). Lãnh đạo 500 doanh nghiệp lớn nhất thế giới sẽ đến Việt nam trong khuôn khổ chủ đề hoạt động của ABAC “Vươn tới với cộng đồng APEC thịnh vượng và hài hoà”. Chương trình hành động cụ thể của Chính phủ Việt nam gồm 06 nhiệm vụ trọng tâm và những giải pháp thực hiện nhằm phát triển kinh tế, xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao chất lượng phát triển, hiệu quả sản xuất và khả năng cạnh tranh của sản phẩm; Xây dựng thể chế, đảm bảo thời gian số lượng và chất lượng; Nâng cao chất lượng sản phẩm, huy động mạnh nội lực và thu hút đầu tư nước ngoài; đổi mới về giáo dục, y tế, văn hoá, thực hiện chuẩn mới về giảm nghèo; quán triệt thực hiện Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và triển khai Luật phòng, chống tham nhũng, luật doanh nghiệp có hiệu lực. Trong lĩnh vực Ngân hàng, năm 2006, NHNNVN sẽ tăng cường hơn nữa việc xử lý các vấn đề trọng tâm trong điều hành chính sách tiền tệ, góp phần kiểm soát lạm phát ở mức dưới 8% như Quốc hội đề ra; Xây dựng và triển khai các biện pháp đổi mới hoạt động thanh tra giám sát theo các chuẩn mực quốc tế; Triển khai soạn thảo xây dựng 2 luật ngân hàng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế; Hoạt động tín dụng, huy động vốn, cổ phần hoá NHTM theo mục tiêu phát triển kinh tế phù hợp với tiến trình tự do hoá thị trường tài chính và gia nhập WTO. 3.1. Định hướng và mục tiêu của phát triển của VPBank 3.1.1. Định hướng và mục tiêu của hoạt động cho vay của VPBank Mục tiêu chiến lược của VPBank trong những năm sắp tới: Đưa VPBank vào vị trí đứng trong top 5 ngân hàng cổ phần lớn mạnh nhất của Việt Nam và trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam. Xây dựng văn hóa ngân hàng đặc trưng. Bảo đảm lợi ích cổ đông: duy trì mức ổn định từ 12 – 20%/năm. Bảo đảm lợi ích người lao động: thu nhập ổn định ở mức cao so với thị trường lao động trong ngành tài chính. Trách nhiệm với xã hội: thực hiện nghiêm chỉnh chính sách thuế đối với Nhà nước, dành một phần chi phí và quỹ phúc lợi để đóng góp từ thiện cũng như tham gia các chương trình phúc lợi xã hội khác. Mục tiêu hoạt động chủ yếu trong năm 2006 STT Chỉ tiêu 2006 Tăng thêm Tỷ lệ tăng 1 Vốn điều lệ cuối năm (tối thiểu) 1.000 700 148% 2 Tổng tài sản 8.500 2.407 40% 3 Lợi nhuận ròng trước thuế 100 23.8 31% 4 Số lượng điểm giao dịch 45 15 50% 5 Số công ty trực thuộc 2 2 6 Số lượng CBNV 1.000 218 28% Để thực hiện được mục tiêu trên, VPBank sẽ tập trung vào nhóm các giải pháp tổng thể và trọng yếu sau: Tăng cường năng lực tài chính của ngân hàng trên cơ sở tăng vốn điều lệ, đẩy mạnh nguồn vốn huy động, tăng cường phát triển cho vay đầu tư. Mở rộng mạng lưới nhằm mở rộng thì trường và tăng thị phần. Tiếp thu, khai thác có hiệu quả hệ thống Core Banking và công nghệ Thẻ. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực đảm bảo đủ sức cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập. Tăng cường quản trị rủi ro, chuẩn hóa các qui trình nghiệp vụ, nâng cao năng lực quản trị điều hành theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2006: Triển khai hệ thống phần mềm ngân hàng lõi (core banking) đúng tiến độ dự kiến. Triển khai hoạt động Thẻ, cung cấp các dịch vụ thẻ ngân hàng tới khách hàng. Nghiên cứu phát triển các sản phẩm dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ ngân hàng hiện đại, đồng thời tiếp tục cải tiến các sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống theo định hướng ngân hàng bán lẻ. Thành lập và đưa vào hoạt đọng Công ty chứng khoán, Công ty Quản lý tài sản NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam. Tiếp tục tăng cường hơn nữa công tác phát triển thương hiệu. Phát triển mạng lưới chi nhánh VPBank đến các đô thị lớn như Đồng Nai, Bình Dương, Khánh Hòa, Nghệ An, Lạng Sơn, Vũng Tàu… Mở thêm các phòng giao dịch mới, ưu tiên mở thêm các điểm giao dịch tại 2 đô thị lớn nhất Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Tăng cường đào tạo nhân viên, nâng cao chất lượng tuyển dụng đối với nhân viên mới, bảo đảm đủ trình độ để tiếp thu công nghệ mới và đáp ứng yêu cầu hội nhập. Tiếp tục tăng vốn điều lệ của VPBank để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng số lượng chi nhánh mới, và đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu trong điều kiện tài sản có rủi ro sẽ không ngừng tăng lên. Lựa chọn đối tác chiến lược là ngân hàng nước ngoài để bán cổ phần theo tỷ lệ tối đa được phép bán. Thông qua việc này, VPbank có thể tận dụng được sự hỗ trợ về đào tạo, tư vấn về công nghệ của các cổ đông là ngân hàng nước ngoài. 3.1.2. Yêu cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh của VPBank: Phát triển công nghệ: Ngày 1/4/2007, các ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam, vì vậy, sự cạnh tranh của các ngân hàng trong nước càng gay go quyết liệt. Ngân hàng phấn đấu từng bước hiện đại hóa công nghệ ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng và đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng với mục tiêu đến 2007 trình độ công nghệ của ngân hàng phải phấn đấu phát triển tương đương với các ngân hàng thương mại lớn trong nước, đủ khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài. Hệ thống kế toán, kiểm toán Hiện nay, hệ thống kế toán ngân hàng cũ của Việt Nam được đánh giá là không phù hợp với tình hình kinh tế quốc tế, vì vậy các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và VPBank nói riêng đã và đang chuyển đổi hệ thống kế toán của ngân hàng sang hệ thống kế toán quốc tế, làm cho hệ thống kế toán phù hợp với chuẩn mực quốc tế, đánh giá đúng thực trạng tài chính ngân hàng, đồng thời xây dựng các thiết chế an toàn, bảo mật cho hoạt động của ngân hàng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế Xây dựng chiến lược đào tạo và sử dụng cán bộ tạo động lực khuyến khích người lao động: Đào tạo cán bộ là vấn đề được coi là có tính nền tảng trong chiến lược phát triển ngân hàng. Yêu cầu của công tác quản lý nhân lực và đào tạo là xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và viên chức ngân hàng có đủ đạo đức và kỹ năng cần thiết để thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới. Để đáp ứng đòi hỏi đó cần thực hiện một số biện pháp chủ yếu sau: + Ngân hàng cần rà soát lại, bổ sung, sửa đổi các quy chế về tuyển dụng, bố trí và sa thải viên chức theo yêu cầu quản lý mới, trên cơ sở đó có những kiến nghị cụ thể với NHNN và Chính phủ sửa đổi, bổ sung các quy định pháp lý nhằm nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhân sự, tiền lương của các ngân hàng. + Xây dựng hệ thống khuyến khích vật chất và tinh thần phù hợp với yêu cầu kinh doanh, cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận. + Xây dựng kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cán bộ, tập trung trước hết vào các lĩnh vực chính yếu của tái cơ cấu như : nghiệp vụ quản lý chiến lược, quản lý rủi ro, kế toán, kiểm toán, quản lý tín dụng và dịch vụ mới. 3.2. Giải pháp áp dụng dịch vụ hỗ trợ sau cho vay của VPBank Bên cạnh những kết quả đạt được, việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trong thời gian qua còn có những hạn chế. Trước hết, ngân hàng cung cấp dịch vụ phát triển khá, nhưng năng lực tài chính còn yếu (vốn tự có nhỏ, khả năng sinh lời thấp, nợ xấu vẫn còn) nên hạn chế khả năng huy động vốn, cho vay và phát triển sản phẩm mới, tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro trong kinh doanh. Các dịch vụ của ngân hàng chưa tạo dựng được thương hiệu riêng, qui mô của từng dịch vụ còn nhỏ, chất lượng dịch vụ thấp, sức cạnh tranh yếu, đặc biệt tính tiện ích của một số dịch vụ đối với khách hàng chưa cao, trong khi đó hoạt động marketing ngân hàng còn hạn chế, nên tỷ lệ khách hàng là cá nhân tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng còn ít. Để khắc phục những hạn chế của ngân hàng, đồng thời phát triển dịch vụ hỗ trợ sau cho vay cần phải thực hiện hàng loạt các giải pháp phát bao gồm: Thống nhất quan điểm về dịch vụ hỗ trợ sau cho vay: Dịch vụ hỗ trợ sau cho vay đã và đang được áp dụng rộng rãi ở một số nước phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, dịch vụ này còn khá mới mẻ, một số ngân hàng lớn đã áp dụng dịch vụ nhưng chỉ dưới mức độ đơn lẻ, chưa thành một qui trình và hệ thống rộng rãi. Dịch vụ hỗ trợ sau cho vay là một dịch vụ tiên tiến, nó giúp cho các doanh nghiệp giải quyết các vướng mắc trong quá trình sản xuất kinh doanh từ đó, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn vay ngân hàng của các doanh nghiệp, nâng cao khả năng thu nợ của ngân hàng. Vì vậy, việc áp dụng dịch này là cần thiết và việc thống nhất quan điểm dịch vụ này trên thị trường là bước đầu tiên đặt ra để đưa dịch vụ đến các doanh nghiệp và người vay vốn. Xây dựng bộ máy tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ sau cho vay Sau khi dịch vụ đã được khách hàng biết đến và chấp nhận theo đúng khái niệm của nó, nhiệm vụ đặt ra với các ngân hàng là phải xây dựng một bộ máy kiện toàn, một mặt giúp cho việc giải quyết các nhu cầu một cách nhanh chóng, chính xác mặt khác, giúp ngân hàng có thể kiểm soát các dịch vụ một cách tốt nhất. Xây dựng quy trình và phương thức cung cấp dịch vụ hỗ trợ sau cho vay: Ngân hàng cung cấp cho khách hàng dịch vụ hỗ trợ sau cho vay về rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Chính do việc yêu cầu tính chặt chẽ và chính xác của các dịch vụ mà đòi hỏi ngân hàng phải xây dựng quy trình và phương thức cung cấp dịch vụ sao cho giúp đỡ khách hàng kịp thời và thỏa mãn được những nhu cầu khách hàng mong muốn. Ngân hàng phải điều chỉnh mức lãi suất và phí phù hợp với thị trường dịch vụ ngân hàng Việt Nam; hoàn thiện môi trường pháp luật theo hướng minh bạch, thông thoáng, ổn định, đảm bảo bình đẳng và an toàn cho các doanh nghiệp tham gia thị trường hoạt động có hiệu quả Triển khai dự án thí điểm đối với một số khách hàng: Để cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài trong quá trình hội nhập, yêu cầu đề ra với các ngân hàng trong nước là phải nghiên cứu thường xuyên, tìm ra nhiều loại hình dịch vụ mới có ích cho khách hàng. Thực tế hiện nay không phải doanh nghiệp nào vay vốn kinh doanh cũng đạt được lợi nhuận theo dự tính, họ luôn có nhu cầu về những dịch vụ hỗ trợ của ngân hàng và sẵn sàng bỏ chi phí ra để nhận nó. Do mới là bước đầu áp dụng dịch vụ, ngân hàng cần lựa chọn ra một số khách hàng mục tiêu, quan hệ lâu năm với ngân hàng để triển khai dự án thí điểm. Đánh giá rút kinh nghiệm: Sau khi dịch vụ đã được đưa đến tay người tiêu dùng, ngân hàng dựa vào tình hình hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá hiệu quả kinh doanh trước và sau khi sử dụng dịch vụ nhằm đưa ra kết luận về bước đầu triển khai dịch vụ này. Lấy ý kiến khách hàng để tìm ra những ưu, khuyết điểm của dịch vụ, từ đó phát huy những mặt tốt và rút kinh nghiệm về những mặt hạn chế đối với các khách hàng sau. Xử lý vấn đề chi phí: Vấn đề chi phí được xem là rất quan trọng đối với việc triển khai các dịch vụ này. Bước đầu tiên là cần phải nâng cao khả năng tài chính của VPBank, đa dạng các sản phẩm dịch vụ cung cấp trên thị trường theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ truyền thống, từ đó thu hút ngày càng nhiều khách hàng, khẳng định thương hiệu ngân hàng, tăng khả năng huy động vốn, giúp ngân hàng tăng cường khả năng phát triển các dịch vụ mới. Cụ thể, để tăng năng lực tài chính cho các ngân hàng thương mại và tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại mở rộng qui mô hoạt động và nâng cao khả năng cung ứng dịch vụ thì phải giải quyết 3 vấn đề: tăng vốn tự có; tăng khả năng sinh lời và tháo gỡ những khó khăn để xử lý dứt điểm nợ tồn đọng, làm sạch bảng cân đối tài sản. Xử lý vấn đề nguồn nhân lực: Quan tâm đến công tác đào tạo và nâng cao nghiệp vụ, tay nghề cho cán bộ về chuyên môn, ngoại ngữ, tin học để có thể tư vấn cho khách hàng và thực hiện các yêu cầu của khách hàng về các nghiệp vụ ngân hàng, tạo được uy tín cho ngân hàng. Đồng thời không ngừng cải tiến phong cách giao tiếp, phục vụ văn minh, lịch sự, tận tình và nhanh chóng tạo cho khách hàng cảm nhận được sự tự tin và cần thiết khi đến với ngân hàng. Tổ chức áp dụng trên diện rộng : Sau khi dịch vụ đã được đưa ra phân tích đánh giá và rút kinh nghiệm qua những lần thí điểm, ngân hàng cần triển trai dịch vụ, áp dụng trên diện rộng nhằm tăng số lượng khách hàng đồng thời Marketing rộng rãi cho những dịch vụ mới của mình. Để làm được điều đó, ngân hàng phải thường xuyên nâng cao khả năng dự báo thị trường để có thể vừa mở rộng khả năng kinh doanh, vừa đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động cho vay: Ngân hàng thường xuyên có chính sách gửi cán bộ, nhân viên đi đào tạo huấn luyện để nâng cao thêm trình độ chuyên môn cho họ. Nhằm hạn chế đến mức tối đa những sai phạm của cán bộ, nhân viên trong hoạt động của mình cũng như phân tích đánh giá sai khách hàng. Làm việc này, cán bộ nhân viên chi nhánh sẽ nâng cao được hiệu quả trong phân tích, đánh giá đúng đắn đối tượng khách hàng trước, trong và sau khi vay vốn. Từ đó hiệu quả cấp tín dụng được nâng cao, khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả nên hoàn trả nợ đúng hạn cho ngân hàng và giảm được nợ quá hạn. Ngân hàng phải thường xuyên kiểm tra, kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng từ khi vay đến khi thu được nợ, không để xảy ra tình trạng khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng từ đó ngân mới nắm được những khó khăn mà khách hàng đang gặp phải để biện pháp tư vấn hỗ trợ giúp khách hàng vượt qua khó khăn. 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước: Ngành NH được coi là đội quân tiên phong của các ngành nghề trong nước bước vào hội nhập, bởi lẽ trên thực tế NH là ngành chịu áp lực và thách thức lớn nhất khi các NH nước ngoài được phép hoạt động bình đẳng với các NH Việt Nam. Tuy nhiên, áp lực và thách thức đó sẽ đem đến cho ngành NH một cơ hội phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ. Trong tình hình hiện nay, một số kiến với NHNN đã được đưa ra: Thứ nhất là việc tăng vốn điều lệ của các NHTMCP để nâng cao khả năng an toàn là rất cần thiết. Tuy nhiên, NHNN cần sớm ban hành quy chế kiểm soát để tránh hiện tượng "vốn ảo" trong trào lưu tăng vốn điều lệ đang diễn ra quá nóng ở các NHTMCP hiện nay, đặc biệt là từ các NH nhỏ nên các NH có quy mô vốn điều lệ trung bình (500 tỷ) và lớn (trên 1000 tỷ). Thứ hai là sớm ban hành quy chế sáp nhập các NHTM , quy chế mua lại các NHTM và lộ trình cho việc sáp nhập, mua lại các NHTM từ nay đến 2015 để làm cơ sở pháp lý cho các NHTM Việt Nam nghiên cứu và thực hiện nhanh chóng và thuận lợi khi cần thiết. Sẽ rất tốt để thúc đẩy các NHTM Việt Nam tự nguyện sáp nhập lại nếu có những chính sách ưu đãi cho các NH thực hiện việc sáp nhập này, ví dụ: ưu đãi về thuế thu nhập, hỗ trợ của nhà nước về công nghệ, nguồn vốn, đào tạo... Thứ ba cần bảo hộ tối đa trong lộ trình WTO đối với các NHTM vốn còn rất non trẻ và yếu kém như hiện nay. Đặc biệt tỷ lệ % NH nước ngoài được phép mua của các NHCP Việt Nam cần phải mở rộng thận trọng. Việc mở rộng quá nhanh sẽ dẫn đến nguy cơ các NHCP Việt Nam mất vào tay các NH nước ngoài cũng rất nhanh làm cho hệ thông NH Việt Nam nhanh chóng suy yếu. Chú ý đến NH nước ngoài 100% vốn vào Việt Nam với chính sách chấp nhận lỗ giai đoạn đầu để thu khách hàng thông qua biện pháp cạnh tranh lãi suất tiền gửi, tiền vay không lành mạnh. Thứ tư là xem xét việc thành lập các NHTMCP mới trong nước: liệu các NH mới có thực sự làm mạnh thêm hệ thống NHTM hiện nay không? Trong khi các NHTM hiện có đang còn yếu, cần tập trung củng cố để cạnh tranh với NH nước ngoài trong tương lai gần thì các NH mới thành lập có sức để cạnh tranh với NH nước ngoài không hay chỉ tìm cách ăn vào miếng bánh thị phần của các NH trong nước với những biện pháp cạnh tranh hỗn loạn về lãi suất, nguồn nhân lực làm cho hệ thống NH hiện tại đang yếu lại yếu thêm? Điều gì sẽ xảy ra với hệ thống NH Việt Nam nếu các NH mới thành lập bị khủng hoảng như thời kỳ 1997-2000? Thứ năm là cần xây dựng và ban hành sớm những quy định cụ thể về mô hình tập đoàn TC-NH quy mô tập đoàn về vốn điều lệ, tổng tài sản, số lượng chi nhánh, số lượng tối thiểu của các công ty con trong tập đoàn: Đặc biệt cần có những thông tư liên bộ ngành cho phép các Cty con được thành lập và hoạt động một cách thống nhất và thông thoáng, ít đầu mối xem xét để khắc phục hiện tượng "chuyền bóng" lẫn nhau giữa các cơ quan quản lý. Ngoài ra, NHNN cần bổ sung vào danh mục các dịch vụ NH – TC của mình nhằm phục vụ nhu cầu của khách hàng trong mọi lĩnh vực kinh tế. 3.3.2 Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan chức năng Về thể chế, cần tích cực hoàn thiện môi trường pháp lý theo các nguyên tắc thị trường, sớm ban hành và áp dụng các quy định về hoạt động ngân hàng theo các tiêu chuẩn quốc tế đồng thời phù hợp với tập quán và thông lệ kinh doanh của Việt Nam. Cần nhanh chóng thiết lập một thị trường tài chính hoàn chỉnh và hiệu quả. Cần thiết phải có biện pháp bảo vệ và bảo hộ hoặc một lộ trình thực hiện cam kết hội nhập phù hợp để giúp hệ thống các định chế tài chính trong nước có thêm thời gian chuyển đổi và thích nghi. Mặt khác, cần nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống và nâng cao quyền tự chủ kinh doanh của ngân hàng. Đến năm 2010, thực hiện mở cửa hoàn toàn thị trường dịch vụ ngân hàng loại bỏ căn bản các hạn chế tiếp cận thị trường dịch vụ ngân hàng trong nước, các giới hạn hoạt động ngân hàng (qui mô, tổng số dịch vụ ngân hàng được phép...) đối với các tổ chức tín dụng nước ngoài, thực hiện đối xử công bằng giữa tổ chức tín dụng trong nước và tổ chức tín dụng nước ngoài; giữa các tổ chức tín dụng nước ngoài với nhau theo các nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia và các nguyên tắc khác trong Thoả thuận GATS/WTO và các thoả thuận quốc tế khác không mâu thuẫn với thoả thuận GATS/WTO". -      Khuyến khích các NHTM tích cực tận thu hồi các khoản nợ đã khoanh để bổ sung vốn tự có. -     Cho phép tăng vốn bằng phương thức bán cổ phần ưu đãi (không tham gia quản lý) cho cán bộ công nhân viên với cổ tức cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm. 3.3.3 Kiến nghị đối với bản thân ngân hàng: Bất kỳ ngành kinh doanh nào cũng đòi hỏi phải có sự thoả mãn giữa cung và cầu. Do vậy, muốn có được khách hàng, Ngân hàng cần thông báo và quảng cáo để nhiều người biết dưới nhiều hình thức và bằng nhiều phương tiện khác nhau về các dịch vụ của ngân hàng nhằm tạo thêm uy tín cho ngân hàng. Hoạt động cho vay tuy mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng nhưng đây là hoạt động có nhiều rủi ro. Do vậy, bên cạnh việc không ngừng nâng cao hiệu quả cấp tín dụng như hiện nay, chi nhánh cần quan tâm đẩy mạnh và nâng cao chất lượng các dịch vụ hỗ trợ sau cho vay để đảm bảo an toàn cho nguồn vốn của ngân hàng. KẾT LUẬN Các dịch vụ của ngân hàng hiện nay ngày càng đa dạng, phong phú và phát triển. Đặc biệt, đối với nghiệp vụ cho vay, các ngân hàng đang nghiên cứu và triển khai loại hình dịch vụ mới – dịch vụ hỗ trợ sau cho vay nhằm hạn chế rủi ro của khoản tín dụng. Vì không phải tất cả những người đi vay đều biết sử dụng khoản vốn của mình một cách hiệu quả nên yêu cầu đặt ra của dịch vụ này nhằm giúp cho khách hàng mang lại lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh và nâng cao khả năng thu nợ cho ngân hàng. Chính vì vậy, “dịch vụ hỗ trợ khách hàng sau cho vay” đã được một số ngân hàng lớn áp dụng và được đánh giá là rất quan trọng trong xu hướng phát triển của hệ thống ngân hàng hiện nay. Năm 2007 là một năm hứa hẹn nhiều cơ hội, thách thức và khó khăn cho nền kinh tế VN nói chung và ngành TC – NH nói riêng nhất là sau khi VN chính thức gia nhập WTO vào 23/11/06. Nền kinh tế nước ta vẫn đang trên đà tăng trưởng, hành lang pháp lý vẫn tiếp tục mở rộng và ngày một hoàn thiện, đặc biệt là trong lĩnh vực TC - NH. Năm qua, cùng với hoạt động của các NH, hoạt động của VPBank cũng diễn ra vô cùng sôi động. Thực tế vài năm qua vốn của ngân hàng đã giúp cho người dân đẩy mạnh sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, từ đó đã tạo ra sự thay đổi đáng kể bộ mặt kinh tế đất nước. Việc tăng vốn điều lệ trong năng 2007 lên 1500 tỷ động đã giúp cho ngân hàng có một nguồn tài chính dồi dào hơn để cung ứng các loại dịch vụ, tạo đà thuận lợi cho ngân hàng để bước vào giai đoạn tăng trưởng mới 2007 – 2010. Năm 2007 cũng sẽ là năm hứa hẹn kết quả kinh doanh tốt đẹp với vốn điều lệ tăng cao, điều kiện làm việc được cải thiện đáng kể… tuy nhiên vẫn gặp một số khó khăn thách thức: chi phí hoạt động cao, phần mềm tin học còn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của hoạt động ngân hàng, các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng chưa mang tính ổn định, vững chắc đòi hỏi mỗi cán bộ, nhân viên không ngừng học tập, nâng cao trình độ để đáp ứng với yêu cầu mới cả về nghiệp vụ, trình độ chuyên môn,… Trong phạm vi chuyên đề của mình, em đã đưa ra một số loại hình dịch vụ hỗ trợ sau cho vay và những khó khăn, giải pháp để tiến đến việc thực hiện loại dịch vụ đó. Tuy nhiên, những giải pháp đó vẫn chỉ là trên lý thuyết. Để đánh giá mức độ ứng dụng của những giải pháp này thì điều cần thiết là chúng phải được ngân hàng lên kế hoạch, triển khai chi tiết các việc cần làm, hay áp dụng thử để nhận biết kết quả. Điều quan trọng nhất là ngân hàng phải được phép gỡ bỏ một số qui tắc cứng nhắc, chủ động áp dụng linh hoạt những qui định chung của VPBank sao cho phù hợp với nhu cầu thị trường. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Nhà xuất bản Thống kê – 2005. PGS.TS Nguyễn Văn Tiên. Ngân hàng thương mại – Eward W.Reed PH.D, Edward K.Gill PH.D. Nhà xuất bản Thống kê – 2004. Quản trị Ngân hàng thương mại. PGS.TS Nguyễn Thị Mùi. Nhà xuất bản Tài Chính – 2006. Quản trị ngân hàng thương mại. Peter S.Rose. Nhà xuất bản Tài Chính – 2004. Báo cáo của Ban điều hành VPBank 2005. Giáo trình Ngân hàng thương mai. TS Phan Thị Thu Hà (chủ biên). Nhà xuất bản Thống Kê – 2004. Báo điện tử Thời báo kinh tế (www.vneconomy.com.vn) Luận văn tốt nghiệp khóa 43, 44 Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân. Báo điện tử www.vietnamnet.vn. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại. PGS.TS Nguyễn Thị Mùi (chủ biên). Nhà xuất bản Thống kê – 2004. Nghiệp vụ ngân hàng quốc tê. PGS.TS Lê Văn Tư. Nhà xuất bản Thống Kê – 2005. Quản trị Ngân hàng thương mại. PGS.TS Lê Văn Tư. Nhà xuất bản tài chính – 2005. XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docÁp dụng dịch vụ hỗ trợ sau cho vay nhằm nâng cao khả năng thu nợ của Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - VPBank.doc
Luận văn liên quan