Đề tài Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đó đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm

Chương I. Những cơ sở lý luận chung của doanh nghiệp vừa và nhỏ 1. Khái niệm của doanh nghiệp vừa và nhỏ 2. Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ 3. Ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ 4. Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ 5. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ 6. Pháp luật chi phối doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam Chương II. Thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam I. Quá trình hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam 1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực công nghiệp 2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực thương mại dịch vụ 3. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn II. Tác động của các chính sách vĩ mô đến sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ 1. Tác động của chính sách thương mại 2. Tác động cảu chính sách tài chính tiền tệ 3. Tác động của chính sách đất đai 4. Tác động của chính sách công nghệ, giáo dục đào tạo 5. Tác động của chính sách hợp tác quốc tế về các doanh nghiệp vừa và nhỏ III. Thực trạng và những tồn tại của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam 1. Vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ 2. Tình hình thiết bị công nghệ 3. Trình độ nhân lực, lao động và quản lý 4. Tình hình và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ về sản phẩm, thị trường KẾT LUẬN Trong thời gian qua với những chủ trương, chính sách đầu tư phát triển của nhà nước các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta phát triển nhanh chóng và có những đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên sự phát triển của các doanh nghiệp này trong thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế. Điều này chứng tỏ tiềm năng của chúng ta vẫn còn chưa được khai thác triệt để chính vì vậy trong thời gian qua em đã tập trung vào nghiên cứu những khó khăn, tồn đọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ đó đưa ra một số giải pháp hỗ trợ nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta hiện nay. Tuy chưa phải là tất cả nhưng em hy vọng rằng với những giải pháp đó phần nào hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam trong thời gian tới. Tuy đã gắng nhiều, nhưng do trình độ của bản thân, cùng với thời gian có hạn và kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên không thể không mắc phải những sai sót. Em rất mong được sự góp ý của thầy và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.

doc55 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2458 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đó đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ững thông tin cần thiết, đầy đủ, cập nhật phục vụ các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đặc biệt, địa chỉ này còn cung cấp phương tiện xin phép đầu tư qua mạng. Nhưng thực tế cần xét tới ở đây là bên góp vốn liên doanh với các công ty liên doanh nước ngoài chủ yếu vẫn là nhà nước và rất ít các DNVVN góp vốn liên doanh. Thành phần kinh tế tư nhân-phần lớn là các DNVVN-chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong vốn liên doanh với bên ngoài và vẫn chưa có chính sách tích cực khuyến khích khu vực các DNVVN tham gia nhiều hơn vào các dự án liên doanh nước ngoài. b. Chính sách tín dụng Hoạt động hỗ trợ tín dụng của nhà nước đối với các DNVVN được quy định cụ thể tại Nghị định 43/1999/ND-CP ngày 29/6/1999 về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, đây chính là một bước tiến quan trọng trong việc thống nhất cơ chế, thể lệ tín dụng và đầu mối cho vay đầu tư phát triển Nhà nước, theo Nghị định này, tín dụng đầu tư phát triển cho DNVVN của nhà nước được thực hiện thông qua Qũy hỗ trợ phát triển( được Chính phủ thành lập theo Nghị định 50/1999/ND-CP ngày 8/7/1999) dưới ba hình thức đầu tư hỗ trợ DNVVN là : Cho vay đầu tư : Đối tượng được vay là các dự án phát triển có khả năng thu hồi vốn trực tiếp bao gồm những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn theo danh mục ban hành kèm theo, các dự án nuôi trồng thủy sản, dự án về xã hội hoá y tế, giáo dục, văn hoá, các dự án có sử dụng vốn ODA.Thời hạn vay tối đa là 10 năm Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư : Là hình thức Nhà nước thông qua quỹ hỗ trợ phát triển hỗ trợ một phần lãi suất cho chủ đầu tư vay vốn để đầu tư dự án sau khi dự án đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đối tượng được hỗ trợ là các dự án được hưởng ưu đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Bảo lãnh tín dụng đầu tư : Là cam kết của quỹ hỗ trợ phát triển với tổ chức tín dụng cho vay vốn về việc trả nợ đầy đủ, đúng hạn của bên đi vay. Quỹ hỗ trợ sẽ có trách nhiệm khi bên đi vay không trả được nợ. Đối tượng được bảo lãnh là các chủ đầu tư có dự án đầu tư thuộc diện được hưởng ưu đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước nhưng không được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, không được vay hoặc mới chỉ được vay một phần vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Tiếp cận của DNVVN với tín dụng cũng được cải thiện hơn thông qua việc tự do hoá lãi suất trong năm 2001. Vao tháng 6/2001, trần lãi suất cho vay đã được xoá bỏ và được phép vay trên mức lãi suất cơ bản áp dụng đã cải thiện việc tiếp cận tín dụng của các DNVVN. Dưới 3 hình thức đó, nhiều các DNVVN đã tận dụng có hiệu quả và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.Tuy nhiên một thực tế là dẫu rằng các DNVVN được quyền vay vốn tín dụng phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của mình nhưng trên thực tế thì các DNVVN ngoài quốc doanh có rất ít cơ hội để tiếp cận với những nguồn vốn tín dụng cho giai đoạn đầu mới thành lập vì theo các điều kiện, các thể lệ tín dụng thì họ phải có những tài sản cầm cố hoặc thế chấp cho những khoản vay này. Các DNVVN vẫn gặp những khó khăn trong việc chứng nhận quyền sử dụng đất, thủ tục định giá tài sản cầm cố, thế chấp. Trong khi đó những doanh nghiệp quốc doanh không hề phải ký quỹ cho những khoản vay tín dụng tương tự. Những thể lệ tín dụng này tạo sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh. Hơn nữa, khả năng đáp ứng nhu cầu tín dụng của ngân hàng còn hạn chế, hoạt động tín dụng của họ rất khó mở rộng trong khi các khoản nợ xấu đang ngày càng tăng lên. DNVVN cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng từ bên ngoài trong khi mà thị trường chứng khoán ở Việt nam còn chưa hoạt động. Các nguồn vốn hỗ trợ như khoản hỗ trợ từ Dự án hỗ trợ tài chính cho các DNVVN của Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật bản(JBIC), Dự án hỗ trợ DNVVN do phía Italy, Dự án UNDP rõ ràng là có hiệu quả nhưng chưa có nhiều. Khả năng huy động vốn trong nước còn hạn chế, các khoản tín dụng trung và dài hạn dường như nằm ngoài tầm với của các DNVVN ngoài quốc doanh, các nguồn vốn tín dụng ngắn hạn cũng không hoàn toàn thuận lợi. Chính vì lí do đó mà nguồn vốn của các DNVVN chủ yếu lại đến từ các nguồn tín dụng không chính thức. c. Chính sách thuế. Sự đổi mới trong chính sách thuế của Chính phủ đối với doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng thể hiện rõ nhất ở việc thay thuế doanh thu bằng thuế giá trị gia tăng (VAT) kể từ ngày 1/1/1999. Theo đó, 1/3 số lượng hàng hoá dịch vụ chịu mức thuế suất 5%, 62% chịu mức thuế suất 10%, 5% chịu mức thuế suất 20%, tính bình quân trung bình thì mức thuế trung bình như vậy là khá hợp lý. Tại 2 kỳ họp của Quốc hội( kỳ họp 10-1998 và kỳ họp 4-1999), đã ra đời những nghị quyết xử lí kịp thời, tháo gỡ khó khăn cho các DNVVN là giảm 50% mức thuế suất cho ngành du lịch, khách sạn, ăn uống và 7 nhóm hàng hoá cơ bản khác và một số mặt hàng cơ khí phục vụ nông nghiệp. Việc áp dụng thuế VAT là cần thiết nhưng thời điểm bắt đầu áp dụng lại là lúc nền kinh tế đang chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoẳng tài chính khu vực 1997-1998, các doanh nghiệp nói chung lúc đó đang gặp khó khăn. Như vậy chưa hợp lý lắm và chưa tận dụng hiệu qủa triệt để của thuế VAT. Hơn nữa, sự chuẩn bị cho quy trình áp dụng thuế VAT chưa kỹ lưỡng ở cả 3 cấp độ là cơ quan ban hành, cơ quan hành thu và đối tượng chịu thuế. Mặc dù đã ban hành hơn 200 văn bản giải trình hướng dẫn nhưng cơ quan hành thu vẫn thực hiện khá vất vả, khó khăn vẫn chưa được giải quyết tận gốc. Đối tượng nộp thuế chủ yếu là các DNVVN, trình độ quản lí của hệ thống thuế và cả người tiêu dùng cũng thấp, nhưng thuế lại đưa ra yêu cầu quá cao, quản lí thu đối với toàn bộ cơ sở sản xuất kinh doanh, đa mục tiêu như thu ngân sách, thúc đẩy xuất khẩu, ưu tiên cho một số ngành và một số ưu tiên cho tiêu dùng mang tính xã hội... Sự phức tạp này khiến VAT chưa thực sự phù hợp với các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng. Hơn nữa, trong một số trường hợp thì thuế VAT còn cao hơn thuế doanh thu đối với các DNVVN do việc khấu trừ VAT đầu vào chưa đầy đủ. Vì vậy có khá nhiều DNVVN phải thu hẹp hoạt động sủa xuất kinh doanh do thiếu vốn vì phải nộp thuế VAT trước nhưng khâu hoàn thuế lại tiến hành quá chậm. DNVVN bị thiệt hại đáng kể do số vốn bị chiếm dụng này trong khi họ vẫn phải nộp lãi suất ngân hàng ( vốn vay ngân hàng chiếm tới 70%-80% tổng vốn của các DNVVN). Cụ thể như trường hợp quy định hàng nhập khẩu phải chịu thuế VAT ngay khi mới nhập về đã khiến cho giá thành sản xuất bị đội lên ở những mặt hàng có nguyên liệu nhập khẩu. Những nỗ lực về hỗ trợ thuế cho DNVVN còn phải nói đến các ưu đãi về thuế được quy định tại Nghị định số 51/1999/ND-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước( đã sửa đổi). Tại đó, các mức thuế ưu đãi được thể hiện ở các danh mục A, B, C về dự án đầu tư. Tại đó cũng chi tiết những quy định về thời hạn miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Điển hình là các trường hợp miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các dự án đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, đối với các dự án BOT, BTO, đối với sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu. Ngoài ra còn có quy định miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị máy móc tạo tài sản cố định của doanh nghiệp, miễn thuế thu nhập cá nhân, miễn giảm thuế sử dụng đất. 3. Tác động của chính sách đất đai Luật đất đai được ban hành và trực tiếp điều chỉnh vấn đề đất đai với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ năm 1993. Một vấn đề nổi lên hàng đầu hiện nay là nếu mỗi doanh nghiệp có một giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất thì sẽ giảm bớt được tính mập mờ về tính hợp pháp của đất và cho phép được sự dụng đất để thế chấp vay.Tuy vậy, hiện nay chỉ có một số ít các DNVVN có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong các khu vực đô thị phát triển thì quyền sử dụng đất dài hạn lại chủ yếu được cấp cho các doanh nghiệp nhà nước. Các DNVVN hiện nay chủ yếu vẫn phải đi thuê đất. Về quy định thời hạn cho thuê đất còn chưa rõ ràng, cơ quan nhà nước thì cho rằng thời điểm cho thuê đất tính từ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định cho thuê đất, còn doanh nghiệp thì lại cho rằng thời điểm xác định hạn thuê đất tính từ thời điểm thực tế doanh nghiệp nhận được đất thuê. Thực tế thì nền quy định tính từ thời điểm nhận được đất thuê là hợp lý trong việc khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Các văn bản pháp quy liên quan đến quyền sử dụng đất, thế chấp đất còn nhiều bất cập, phức tạp và không rõ ràng, có sự phân biệt đối xử giữa những doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Quyền sử dụng phần lớn đất đai chưa được xác định vì phải cung cấp một số lượng rất lớn các giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất, việc có được những giấy tờ đó hoàn toàn không dễ dàng. Hiện vẫn chưa có hệ thống công khai về các quyền hạn cho thuê và thế chấp. Giá trị của quyền sử dụng đất do Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố xác định chứ không phải theo giá thị trường và được mỗi tỉnh áp dụng theo các cách khác nhau. Về vấn đề thời hạn cho thuê đất hiện hành áp dụng cho các DNVVN ngoài quốc doanh là 30 năm tạo một thiệt thòi cho các DNVVN trong nước và đẩy giá thành sản phẩm của các DNVVN này lên cao hơn so với giá sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn FDI- loại hình có thể thuê đất đến 50 năm. Bên cạnh đó, việc quy định giá trả tiền thuê hàng năm vào khoảng 0,5-0,7% giá trị quyền sử dụng đất như hiện nay rõ ràng là tác động hỗ trợ của Chính phủ trong việc giảm mức đầu tư ban đầu cho doanh nghiệp, Tuy nhiên lại tồn tại một nghịch lý là nhiều doanh nghiệp chỉ muốn nộp tiền thuê đất luôn một lần cho xong để yên tâm đầu tư ( cho dù có phải đi vay) vì e ngại chính sách giá cho thuê đất hiện nay không ổn định. Cho ví dụ các doanh nghiệp sẽ phải trả một khoản tiền là A để được thuê đất trong 30 năm và mỗi năm nộp 0,5%A, nhưng rất có thể do biến động mà các doanh nghiệp có thể phải nộp thêm một khoản B > A, lúc đó giá thành sản phẩm của doanh nghiệp sẽ phải tính thế nào cho hợp lý ? Do đó, cần quy định một giá thuê đất ổn định hoặc dao động trong một phạm vi cho phép trong suốt thời gian thuê. Đồng thời cũng cần hạ giá cho thuê đất tại các KCN, KCX để lấp đầy các khu này vì theo con số thống kê hiện nay thì các doanh nghiệp chỉ mới chiếm 19% tổng diện tích. Nhìn chung, Những vấn đề về đất đai cũng là một trong những thách thức lớn nhất đối với các DNVVN. Thách thức thể hiện ở việc rất khó có được đất dùng cho mục đích đầu tư, trong khi đó hệ thống xét duyệt của chính phủ đối với việc thực thi các quyền sử dụng đất là rất phức tạp và rắc rối. Các DNVVN gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển khi mà cá quyền sử dụng đất đối với các mục đích thương mại và công nghiệp không được quy định rõ ràng và các thủ tục dụng đất để thế chấp không được nới lỏng. 4. Tác động của chính sách công nghệ, giáo dục đào tạo. Về công nghệ: Việc tiếp cận đến công nghệ hiện đại có vai trò rất quan trọng trong việc các doanh nghiệp tham gia vào thị trường quốc tế. Tuy vậy, phần lớn các DNVVN Việt nam đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới. Máy móc trang thiết bị lạc hậu và thêm vào đó là trình độ quản lí, kỹ năng nghiệp vụ của lao động trong nước chưa đủ khả năng thành thạo với công nghệ hiện đại. Khó khăn trong tiếp cận công nghệ của các DNVVN Việt nam thể hiện ở: Thứ nhất, mặc dù vài năm gần đây đã có những bước tiến đáng kể nhưng phải thừa nhận là kinh phí cho giáo dục đào tạo hướng nghiệp của Việt nam luôn thấp hơn các nước khác trong khu vực, thiếu nguồn tài chính cho giáo dục đào tạo để cho phép các sinh viên và công nhân Việt nam tiếp thu công nghệ mới. Thứ hai, các DNVVN khó tiếp cận đến các khoản tín dụng trung và dài hạn nhằm giúp họ đầu tư mua thiết bị mới, công nghệ mới, đào tạo người lao động. Ngoài ra, khung pháp lý với công nghệ còn nhiều bất cập: Thứ nhất, các quy định hạn chế nghiêm ngặt được quy định trong Luật Dân sự ở các hợp đồng chuyển giao công nghệ phần nào ngăn cản việc chuyển giao công nghệ cao mà nước ta đang cần. Thứ hai, mỗi hợp đồng chuyền giao công nghệ được Bộ Khoa học-Công nghệ-Môi trường phê duyệt phải mất12 tháng, thời gian này cũng đủ để công nghệ chuyển giao sắp lạc hậu. Thứ ba, Hệ thống cấp giấy phép công ty và đầu tư làm giảm sức cạnh tranh- vốn là một động cơ thúc đẩy đổi mới công nghệ- và làm nảy sinh tình trạng kinh doanh không ổn định-một khó khăn lớn đối với việc đổi mới công nghệ. Các quy định pháp lý hiện nay tạo ra nhiều khó khăn và tốn kém trong việc nhập khẩu vác thiết bị và máy móc đã qua sử dụng vào Việt nam. Theo quy định của Bộ Khoa học-Công nghệ-Môi trường buộc các doanh nghiệp phải được sự chấp thuận từ cơ quan nhà nước có liên quan và chứng chỉ của một cơ quan giám định hợp pháp ( thường là VINACONTROL của Việt nam và SGS của Thuỵ sỹ) là thiết bị còn mới 80% giá trị, không phải phế liệu hoặc chát đốt tiêu thụ không được quá cao hơn 10% so với máy mới và các máy móc thiết bị đó phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về an toàn và môi trường. Các DNVVN, nếu không thể mua máy móc thiết bị mới, thì cũng chật vật trong việc nâng cấp lên thiết bị đã qua sử dụng. Đành rằng là cần tránh tình trạng biến Việt nam thành bãi rác công nghệ những nếu quy định qúa khắc nghiệt thì cũng rất khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận công nghệ mới. Trong tình trạng như vậy thì hoạt động cho thuê tài chính (leasing)-một hình thức tài trợ có mức độ an toàn cao, linh hoạt trong kinh doanh-có thể được xem như cứu cánh cho vấn đề công nghệ của các DNVVN, tuy vậy việc xúc tiến hoạt động này chưa phát triển lắm. Nghị định số 64/CP ngày 9/10/1995 đã được Chính phủ ban hành về Qui chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của các công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam nhằm mở đường cho các công ty cho thuê tài chính tiến hành hoạt động, tạo một kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho các DNVVN, nhưng kết qủa vẫn chưa thu được bao nhiêu. Cho thuê tài chính ở Việt nam vẫn còn là một cái gì đó xa lạ. Về giáo dục đào tạo, Những năm gần đây, Chính phủ cũng đã có rất nhiều cố gắng nỗ lực để tạo cho các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng một đội ngũ nhân lực có tay nghề và trình độ. Ngành giáo dục đào tạo và nhiều cơ quan của các ngành đã mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp theo các khoá, trường lớp với nhiều hình thức, phương thức đào tạo khác nhau. Mặc dù đó mới chỉ ban đầu hình thành do nhu cầu bức thiết của các DNVVN nhưng nó đã giúp cho việc đào tạo đội ngũ nhân lực trong khu vực DNVVN tích cực và thiết thực. Hàng nghìn lớp học ngắn hạn và các hội thảo đã được tổ chức ở khắp nơi trên cả nước. Tuy nhiên, việc đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp như vậy còn chưa được thực hiện đúng mức, chương trình còn nghèo nàn, nội dung còn hạn chế, chưa đáp ứng được các yêu cầu cho loại đối tượng này. Bên cạnh đó, cũng đã có một số trung tâm xúc tiến, hỗ trợ DNVVN được thành lập và thực hiện các hoạt động đào tạo và các hoạt động khác do các nguồn quỹ quốc tế tài trợ. Có thể kể đến trong số đó là Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ doanh nghiệp (BPSC) hình thành trên khuôn khổ dự án hợp tác giữa Liên minh Hợp tác xã Việt nam (VCA) và tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), trung tâm liên tục tổ chức các lớp học trong đó bao gồm cả những lớp học đào tạo giảng viên. Ngoài ra còn có các lớp học liên tục được tổ chức tại Trung tâm hỗ trợ DNVVN của VCCI-SME PC với sự hỗ trợ của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các lớp học của Trung tâm hỗ trợ DNVVN của Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng( SMEDEC). Tuy nhiên các trung tâm này không đủ để đáp ứng việc đào tạo hướng nghiệp và các dịch vụ tư vấn ở quy mô các DNVVN yêu cầu. Vấn đề là có một cơ quan Chính phủ ủng hộ hoạt động của các trung tâm này cũng như sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế, như vậy các trung tâm đó mới thực sự phát huy vai trò hỗ trợ các DNVVN. 5. Tác động của chính sách hợp tác quốc tế về các DNVVN. Việt nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và nền kinh tế toàn cầu, thành công của tiến trình này phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của khu vực doanh nghiệp mà chủ yếu là các DNVVN. Khu vực này chỉ thực sự phát triển được nếu có sự hỗ trợ kịp thời, có những điều kiện ưu đãi thích hợp, không chỉ từ phía đối nội mà còn cần nhiều những hỗ trợ quý báu từ bên ngoài về nguồn vốn viện trợ phát triển, về các kinh nghiệm trong việc phát triển các DNVVN. Quan hệ hợp tác của Việt nam với nhiều nước, nhiều tổ chức, nhiều định chế tài chính vì vậy mà không ngừng được tăng cường và phát triển, dưói đây là một vài thành quả điển hình. Cùng chung một mục tiêu thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp thông qua những dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh cho các DNVVN. Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam(VCCI) và Tổ chức hỗ trợ kỹ thuật Đức(GTZ-German Technican Corporation) cùng hợp tác và xây dựng và phát triển những dịch vụ thông tin cập nhật với chất lượng cao. Văn bản hợp tác giữa VCCI và GTZ kí vào 10/2001, kế đó việc phát triển hướng đi của SMEnet( Small and Medium Enterprises) được ghi nhận và thông qua vào 11/2001 và kinh phí được hỗ trợ vào 12/2001. Sau đó SMEnet được thử nghiệm vào 3/2002 và chính thức hoạt động từ 4/2002. SMEnet-thành quả đầu tiên là trang Web vào tháng 4/2002, đây thực sự là một bước tiến lớn lao khi mà các DNVVN có thể tiếp cận được rất nhiều nguồn thông tin quý báu về hoạt động kinh doanh của mình, khi mà các thông tin về DNVVN được công bố công khai. Tại đó, các DNVVN có thể có những thông tin cập nhật về thị trường, sản phẩm, bạn hàng, đối tác, các thông tin về tư vấn pháp luật, khởi sự doanh nghiệp, và nhiều thông tin hữu ích khác qua đó các DNVVN Việt nam có thể tăng sức cạnh tranh của mình.Tuy mới hoạt động nhưng trang Web này thực sự đã là công cụ hiệu qủa cho phát triển DNVVN. Cũng theo kế hoạch hợp tác giữa VCCI và GTZ, Dự án thúc đẩy phát triển DNVVN sẽ dần dần chuyển giao SMEnet cho Trung tâm thông tin VCCI quản lí, trong quá trình chuyển giao đó, hai bên sẽ cùng hợp tác phát triển SMEnet như một cổng thông tin về kinh tế cho các DNVVN. Phía Việt nam cũng đã có sự hợp tác với Italia về phát triển các DNVVN, hai bên đã ký “Biên bản ghi nhớ về sự hợp tác về các DNVVN Việt nam- Italia” giữa Bộ công nghiệp, thương mại và thủ công nghiệp nước Cộng hoà Italia và Bộ công nghiệp nước công hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam vào 5/10/1999. Italia cũng đã cụ thể hoá bằng nhiều chương trình hợp tác hỗ trợ, cụ thể là “Hội thảo DNVVN trong công nghiệp- kinh nghiệm của Italy và Việt nam” do bộ công nghiệp Việt nam, Đại sứ quán Italy tổ chức ngày 22/5/2002. Hay là dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các DNVVN việt nam trong công nghiệp đá ốp lát, và nhiều hoạt động khác. Việt nam cũng luôn tham gia và thậm chí trực tiếp tổ chức các hội nghị quốc tế về phát triển các DNVVN. Điều này thể hiện quyết tâm thực sự của Chính phủ trong phát triển các DNVVN. Tại Bắc Kinh, việt nam tham gia Hội nghị cấp bộ trưởng APEC về các DNVVN ngày1/9/2001 với sự tham gia của 21 quốc gia APEC, hội nghị đã thông qua tuyên bố chung về phát triển các DNVVN. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 8/10/2002 đã diễn ra “Hội nghị lần 7 các thành phố đối tác khu vực châu á-Thái Bình Dương về chính sách hỗ trợ DNVVN”. Hội nghị cũng thông qua chương trình hành động TP Hồ Chí Minh về phát triển DNVVN. III. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG TỒN TẠI CỦA CÁC DNVVN TẠI VIỆT NAM. 1. Vốn của các DNVVN. Hiện nay các DNVVN gặp phải tình trạng khó khăn về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Thị trường cung ứng vốn cho các DNVVN chủ yếu là thị trường tài chính phi chính thức. Các chủ doanh nghiệp thường vay vốn của thân nhân, bạn bè, và vay của những người cho vay lấy lãi. Hầu như các DNVVN, nhất là các DNVVN ngoài quốc doanh, không tiếp cận được với nguồn tín dụng chính thức của ngân hàng. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân như: Hệ thống ngân hàng, chủ yếu dành các khoản tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước; các DNVVN không đáp ứng được các đòi hỏi của ngân hàng về các thủ tục như lập dự án khả thi, thủ tục thế chấp và mức lãi suất. Hiện nay, các thủ tục vay vốn tín dụng của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng còn rất phức tạp, dẫn đến chí phí giao dịch cao làm cho những khoản tín dụng này trở nên quá đắt đối với các DNVVN. Thủ tục phức tạp và chi phí giao dịch cao lại cũng làm cho các ngân hàng không muốn cho các DNVVN vay. Bởi vì dưới góc độ của các ngân hàng, thủ tục cho vay các khoản vốn nhỏ cũng không kém phần phức tạp so với các khoản vốn lớn mà lợi nhuận lại ít và các quy định quá khắt khe về tài sản thế chấp và dự án khả thi cũng đội các chi phí lên cao. Chính vì thế ngân hàng thì nhận được ít lợi nhuận đi còn các DNVVN thì lại không đáp ứng được các điều kiện vay vốn, cho nên các ngân hàng không muốn cho họ vay. Trong khi đó, các DNNN thì lại vay vốn mà không cần phải thế chấp tài sản. Đây là một trong những phân biệt đối xử lớn hiện nay. Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khác như các phương pháp định giá tài sản thế chấp còn không rõ ràng, thường đánh giá rất thấp giá trị của các tài sản thế chấp so với giá trị thực của nó, và các quy định của các ngân hàng về vấn đề này còn rất tuỳ tiện. Bên cạnh đó, một số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh không muốn vay ngân hàng vì như vậy khó trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế. Các khoản hỗ trợ, viện trợ từ bên ngoài của các quốc gia, các tổ chức, các dự án là rất hiệu quả nhưng chưa thấm tháp vào đâu với nhu cầu của các DNVVN. Các chính sách tài chính tín dụng chưa được tiến hành đồng bộ và thực thi hiệu quả nên tác động chưa thật tốt đến nhu cầu bức xúc về vốn của các DNVVN hiện nay. 2. Tình hình thiết bị công nghệ Trình độ thiết bị, công nghệ trong các DNVVN rất lạc hậu. Chỉ trừ một số ít các doanh nghiệp mới thành lập, còn phần lớn sử dụng thiết bị lạc hậu tới 20-50 năm so với các nước trong khu vực. Năng lực công nghệ và kỹ thuật hạn chế, trang bị vốn thấp ( chỉ bằng 3%) mức trang bị kỹ thuật trong các doanh nghiệp công nghiệp lớn. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị thấp. Nếu lấy thành phố Hồ Chí Minh- trung tâm công nghệ cao nhất cả nước làm ví dụ thì tỷ lệ này cũng chỉ là khoảng 10% một năm tính theo vốn đầu tư. Trong khi đó, nhiều sản phẩm công nghệ hiện nay như các sản phẩm điện tử, viễn thông, hóa thực phẩm có chu kỳ sống rất ngắn. Với tốc độ đổi mới máy móc thiết bị như trên thì không tránh khỏi tụt hậu; do đó mà năng suất thấp, giá thành cao, rất khó cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Có thể thấy tình hình tại thành phố Hồ Chí Minh như sau: Bảng : Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị đang sử dụng tại các DNVVN ở TP Hồ Chí Minh so với trình độ chung của thế giới Loại doanh nghiệp Trình độ công nghệ, máy móc, thiết bị (%) Hiện đại Trung bình Quá lạc hậu, lạc hậu 1. Quốc doanh 11,4 53,1 35,5 2. Ngoài quốc doanh 6,7 27 66,3 -Cổ phần, TNHH 19,4 54,8 25,8 -DNTN 30,0 30,3 50,0 -HTX 16,7 33,3 50,0 -Tổ hợp, cá thể 3,6 22,8 73,6 Tính chung 10 38 52 Nguồn: Báo cáo định hướng chiến lược và khuyến nghị chính sách phát triển DNVVN đến năm 2010 ở Việt Nam, Trang 22. Thực trạng trên cũng không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì các DNVVN đươc định nghĩa với tiêu chí vốn tương đối thấp và gặp rất nhiều khó khăn trong việc vay vốn tín dụng trung và dài hạn cần thiết cho việc đầu tư nâng cấp công nghệ. Đặc biệt các doanh DNVVN còn đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thị trường quốc tế trong lĩnh vực công nghệ, máy móc và thiết bị do thiếu thông tin về thị trường này. Những tồn tại căn bản trong tình hình công nghệ lạc hậu hiện nay ở khu vực DNVVN là : - Thiếu vắng chiến lược công nghệ cho DNVVN, do đó đổi mới công nghệ diễn ra một cách tự phát, cá biệt, thiếu định hướng, hướng dẫn và hỗ trợ của Nhà nước hoặc của doanh nghiệp lớn. - Thiếu thông tin hướng dẫn và điều kiện tiếp cận công nghệ, năng lực tài chính hạn hẹp. Việc đổi mới công nghệ vẫn chỉ là việc làm tự thân của DNVVN. - Tiến trình thay đổi công nghệ diễn ra chậm chạp, chưa tương xứng với tốc độ gia tăng của thị trường. Việc đổi mới công nghệ chỉ tập trung vào một số ngành và chủ yếu ở các thành phố lớn, các ngành này đã đạt được những tiến bộ nhất định về công nghệ và từ đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường (ngành may mặc, thủ công mỹ nghệ, hóa mỹ phẩm, chất tẩy rửa, sản xuất đồ nhựa, sản xuất công cụ chế biến lương thực, đồ gia dụng...). - Thiếu những giải pháp đồng bộ trong việc tiếp thu công nghệ ngoại nhập, thiếu thông tin tư vấn, trình độ và tổ chức đánh giá thẩm định cho nên khoảng 70% máy móc thiết bị mua về ở mức trung bình, trong đó một bộ phận đáng kể ở dạng second-hand. Việc quản lý công nghệ nhập còn nhiều sơ hở, quy chế giám định công nghệ chưa chặt chẽ gây tổn thất lớn về kinh tế. - Vai trò hướng dẫn quản lý của các ngành kinh tế- kỹ thuật, của các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tư vấn về công nghệ còn thiếu và lúng túng. Cơ chế chính sách, cơ chế chuyển giao công nghệ không đồng bộ; quy trình, quy phạm, thiếu sự hỗ trợ trong chính sách tài chính tín dụng do đó DNVVN không đủ sức đổi mới công nghệ hoặc tiếp thu công nghệ mới kém hiệu quả, cơ chế kiểm soát chuyển giao công nghệ chưa chặt chẽ. - Thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan nghiên cứu triển khai với các DNVVN, tiềm năng nghiên cứu của các viện, trung tâm, các trường đại học chưa được khai thác phục vụ cho các chương trình đổi mới công nghệ, thiếu sự hỗ trợ về công nghệ giữa các doanh nghiệp lớn với DNVVN. - Thiếu đội ngũ chuyên gia, công nhân lành nghề, thợ bậc cao, những nhà hoạch định chính sách và tổ chức ứng dụng công nghệ mới. - Thiếu những điều kiện chuẩn bị cho quá trình thay đổi công nghệ một cách cơ bản, đồng bộ để thích ứng với sự biến đổi của thị trường khi hội nhập đầy đủ với các nước ASEAN vào năm 2006. Kế đó, còn có một số nguyên nhân khách quan ảnh hưởng đến hoạt động chuyển giao công nghệ cuả các DNVVN như: - Các doanh nghiệp chưa được phép khấu hao nhanh máy móc thiết bị do đó chưa khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ. - Việc yêu cầu các hợp đồng chuyển giao công nghệ phải được Chính phủ phê chuẩn với các thủ tục, quy định hiện hành gây khó khăn, phiền hà và mất rất nhiều thời gian cho các doanh nghiệp. Và cũng các chính quy định hiện hành làm cho các DNVVN không đủ điều tài chính mua máy móc thiết bị mới cũng không thể nâng cao công nghệ của mình bằng cách nhập máy móc thiết bị cũ nhưng phù hợp với năng lực sản xuất của họ. - Các chi phí liên lạc viễn thông quốc tế và Internet còn quá cao. Đây là một trong những cản trở đầu tiên để tiếp cận với thông tin thị trường công nghệ quốc tế. - Các thủ tục cồng kềnh, tốn kém trong việc cấp thị thực nhập cảnh cho các chuyên gia nước ngoài, những người chuyển tải công nghệ vào Việt Nam, và thuế thu nhập cao mà các chuyên gia này phải chịu so với các nước Đông Nam á đã không khuyến khích họ đến Việt Nam. - Nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện nay của các DNVVN đang phải chịu các mức thuế suất cao. Trong khi đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại được miễn thuế nhập khẩu. 3. Trình độ nhân lực, lao động và quản lý. Nhìn chung lao động trong các DNVVN ít được đào tạo cơ bản qua các trường lớp chính thống mà chủ yếu theo phương pháp truyền nghề, trình độ văn hóa thấp, đặc biệt là số lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Sở dĩ như vậy là do cơ cấu lao động đã qua đào tạo rất bất hợp lý, cụ thể là: Tỷ lệ giữa đào tạo đại học- trung học- công nhân kỹ thuật là 1-1,5-2,5 trong khi ở các nước đang phát triển trong khu vực tỷ lệ là 1- 4 -10. Điều đó dẫn đến tổng số lao động qua đào tạo đã ít, tổng số công nhân kỹ thuật lại càng ít hơn so với nhu cầu thực tế. Hơn nữa, chất lượng dạy nghề lại yếu, nguyên nhân là do trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật, đội ngũ giáo viên, giáo trình, giáo án đều rất thiếu thốn và lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu. Về chủ doanh nghiệp : Thực trạng trình độ của chủ DNVVN ở nước ta được biểu hiện trên một số mặt sau đây: - Về cơ cấu trình độ của chủ DNVVN: Theo kết quả điều tra thì 30% chủ doanh nghiệp xuất thân từ công nhân, viên chức thuộc khu vực kinh tế nhà nước chuyển ra. Đây là đội ngũ phần nào đã có kinh nghiệm trong sản xuất, một số ít có tay nghề và hiểu biết về quản lý kinh tế. Động cơ hoạt động sản xuất- kinh doanh là để tự tạo việc làm, có thu nhập cho cuộc sống. Khoảng 60% đã từng là chủ doanh nghiệp nhỏ hoặc đã hoạt động ở khu vực kinh tế cá thể, tư nhân, có truyền thống của gia đình. Đây là lực lượng khá lớn, có kinh nghiệm nghề nghiệp nhưng trình độ quản lý sản xuất- kinh doanh , tài chính, kế toán... còn thiếu. Khoảng 10% là học sinh, sinh viên các trường phổ thông, các trường trung học, đại học tìm được việc làm, có vốn hoặc vay vốn tự lập doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh. - Về trình độ văn hóa: 40% chủ doanh nghiệp có trình độ lớp 7; 35% trình độ lớp 10 (hệ cũ) và 25% có trình độ lớp 12 (hệ mới). Trình độ này còn được chứng minh qua số liệu điều tra 300 doanh nghiệp nhỏ ở 3 thành phố: Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh của Viện khoa học lao động Nhật Bản kết hợp với Viện khoa học lao động của Bộ lao động- thương binh và xã hội Việt nam; hơn 70% có trình độ cấp II ( hệ cũ) và khoảng 25% có trình độ cấp III trở lên. - Về trình độ chuyên môn: Trong số các chủ doanh nghiệp được điều tra, cứ 100 người thì có một người có trình độ trên đại học, 3 người có trình độ đại học, 14 người có trình độ trung học hoặc tương đương. Hơn nữa, trong số trình độ trung học và đại học thì chủ doanh nghiệp có trình độ tay nghề đào tạo phù hợp với nghề hoạt động sản xuất- kinh doanh thấp, chỉ khoảng 7%. Khoảng 30% chủ doanh nghiệp đã hoạt động kinh tế tư nhân, mặc dù chưa có nghề nhưng nhờ chính sách đổi mới đã nắm cơ hội tạo lập cơ sở riêng hoặc phát triển doanh nghiệp thừa kế của gia đình. Số chủ doanh nghiệp này phần lớn hoạt động ở khu vực dịch vụ, đặc biệt là may mặc, dịch vụ văn hóa, sửa chữa cơ khí, điện tử. Một số các chủ doanh nghiệp có tay nghề phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp nhưng ở trình độ thấp, chủ yếu dựa vào đào tạo từ cơ sở dạy nghề tư nhân hoặc kèm cặp qua thực tế, hay được gia đình truyền lại. Có một số chủ doanh nghiệp loại này đã làm trong khu vực kinh tế Nhà nước, nhưng khi lập nghiệp, kiến thức cũ không đáp ứng được mà phải tự học lại, hoặc nâng cao kiến thức nghề nghiệp qua các lớp bồi dưỡng ngắn. Một số ít trong các chủ doanh nghiệp đã qua quá trình đi làm cho các chủ doanh nghiệp khác từ khi còn ít tuổi, tự học nghề trong thực tế, sau đó trưởng thành, có vốn và tự đứng ra tạo lập doanh nghiệp. Qua phần thực trạng trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp nêu trên, có thể kết luận rằng đội ngũ các chủ doanh nghiệp có sự bất cập về trình độ. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình này, trước hết là do sự chuyển biến về cơ chế quản lý, các DNVVN đang ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành, phát triển, việc đào tạo bồi dưỡng chưa được chú ý đúng mức hoặc đã được chú ý nhưng chưa triệt để. Từ năm 1991 trở lại đây, ngành giáo dục đào tạo và nhiều cơ quan của các ngành đã mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp theo các khóa, trường lớp với nhiều hình thức và phương thức đào tạo khác nhau. Có thể kể đến trong số đó là các lớp đào tạo liên tục của Trung tâm hỗ trợ DNVVN, các lớp về khởi sự doanh nghiệp và phát triển doanh nghiệp của Trung tâm xúc tiến DNVVN SME-PC/VCCI với sự trợ giúp của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các khoá học đào tạo ngắn hạn của Trung tâm hỗ trợ DNVVN thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng(SMEDEC). Mặc dù đó mới chỉ là ban đầu hình thành do nhu cầu cấp thiết của các DNVVN, nhưng nó đã giúp cho việc đào tạo các chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý trong doanh nghiệp khá tích cực và thiết thực. Hàng nghìn lớp học ngắn hạn và các hội thảo đã được các cơ quan, các tổ chức khác nhau tổ chức cho hàng vạn các lượt chủ doanh nghiệp ở các thành phố lớn và nhiều tỉnh trong cả nước. Tuy nhiên, việc đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp như thế còn chưa được thực hiện đúng mức, còn manh mún, chương trình còn nghèo nàn, nội dung còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu cho loại đối tượng này. Về lao động phổ thông trong các DNVVN: Lao động trong các DNVVN chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo, thiếu kỹ năng, trình độ văn hoá thấp, tình trạng này còn trầm trọng hơn đối với số lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Số liệu điều tra cho thấy chỉ có 5,13% lao động trong khu vực ngoài quốc doanh có trình độ đại học, trong khi đó chủ yếu tập trung vào các công ty trách nhiệm hữu hạn và các công ty cổ phần,74,8% lao động chưa tốt nghiệp phổ thông trung học. 4. Tình hình và khả năng cạnh tranh của các DNVVN về sản phẩm, thị trường. Hạn chế về sản phẩm và chất lượng sản phẩm: Một trong những hạn chế lớn nhất của DNVVN Việt nam là trên con đường đi tìm đầu ra cho sản phẩm của mình, rất nhiều DNVVN vẫn đang duy trì những mặt hàng có giá trị gia tăng thấp, chất lượng không cao và chủ yếu dựa trên lợi thế chi phí nhân công rẻ. Sản phẩm của Việt Nam còn đơn điệu về mẫu mã và chủng loại. Các doanh nghiệp hiện nay chưa tìm được lợi thế so sánh bằng những sản phẩm “độc đáo” riêng, hầu như DNVVN mới đang dừng lại ở chỗ có gì gọi là thế mạnh thì tập trung vào kinh doanh và đem ra chào bán, nếu không thì cũng là sản xuất theo kiểu làm nhái lại các sản phẩm uy tín nước ngoài. Ngay cả trong ngành dệt may, da giày, thủ công mỹ nghệ, cơ khí xuất khẩu…- những lĩnh vực ưu thế của Việt Nam, việc đa dạng chủng loại, mẫu mã vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều doanh nghiệp DNVVN chỉ làm theo catalogue, hoặc là cóp nhặt, nhái kiểu sản phẩm cạnh tranh, kết cục vừa làm mình rơi vào thế bị động, vừa ảnh hưởng xấu đến diễn biến thị trường. Sản phẩm có quá nhiều sự trùng lắp, cả về mẫu mã lẫn chủng loại mặt hàng, dịch vụ giữa các doanh nghiệp nhỏ với nhau, giữa DNVVN với doanh nghiệp lớn, nên thị phần bị thu hẹp và lợi thế cạnh tranh tương đối lại càng mờ nhạt. Đó là nguyên nhân từ hai phía: trước hết, DNVVN yếu kém cả về năng lực sản xuất lẫn công nghệ và kiến thức thương trường và thậm chí chưa thực sự quan tâm đúng mức đến cải tiến sản phẩm; sau đến, Nhà nước thiếu một cơ chế kích thích tốt, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ về ngành nghề và thị trường đối với loại hình doanh nghiệp này. Hơn nữa, trong xuất khẩu, phần lớn các doanh nghiệp đang sản xuất các loại sản phẩm có mức lợi nhuận thấp, dễ gia nhập thị trường. Sản phẩm dưới dạng thô, sơ chế vẫn chiếm tỷ lệ cao (70%) trong khi lao động ở các DNVVN nói chung dư thừa rất nhiều. Về lâu dài không chỉ các nguồn tài nguyên bị cạn kiệt mà cả lợi ích do giá cả thấp cũng thuộc về khách hàng nước nhập khẩu. Trong mấy năm gần đây, việc đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến cũng như vào mặt hàng xuất khẩu giá trị gia tăng cao đã có những cố gắng đáng kể, nhưng kết quả vẫn chưa tương xứng. ở đây lại xuất hiện một nghịch lý là, nếu sản xuất và xuất khẩu hàng thô thì vốn ít, dễ tìm thị trường, nhưng giá trị thấp. Còn nếu đầu tư vào hàng chế biến thì cần vốn lớn và khó tìm thị trường, mà vốn và thị trường là hai khó khăn lớn hạn chế hoạt động của các DNVVN hiện nay. Thực tế là nhiều sản phẩm xuất khẩu thô thì lãi nhưng chế biến sâu khi bán ra lại lỗ. Chất lượng sản phẩm của Việt Nam còn kém, lại không ổn định, rất khó cạnh tranh với hàng nước ngoài ngay trên thị trường nội địa chứ không nói đến thị trường nước ngoài. Nhiều mặt hàng tiêu dùng của Việt Nam luôn đứng ở thế yếu trước hàng nhập khẩu tiểu ngạch, chất lượng trung bình từ Trung Quốc, Thái Lan… ngay tại thị trường nội địa bởi chất lượng, giá cả, mẫu mã. Điều đáng lo ngại đối với DNVVN Việt Nam là nhiều hàng nước ngoài tại thị trường Việt Nam và trên thị trường quốc tế liên tục thay đổi mẫu mã và giảm giá mà chất lượng không giảm. Vô hình chung, doanh nghiệp Việt Nam tự rơi vào "cái bẫy của chí phí lao động thấp": bị qui luật cạnh tranh dồn ép vào những ngành có lợi nhuận cận biên thấp và bị cạnh tranh gay gắt về chi phí. Qua điều tra trên 146 doanh nghiệp, các chuyên gia Viện chiến lược phát triển và Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc đã rút ra nhận xét: "Trong phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam, người ta chưa thấy rõ những nỗ lực hướng tới nâng cao hiệu quả hoạt động và chất lượng sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp dường như phó mặc hoặc ít quan tâm tới việc cải thiện không ngừng hoạt động của mình, điều tất yếu để có thể đạt được chuẩn mực quốc tế. Các công ty xuất khẩu Việt Nam thường có ít hoặc không có nhãn hiệu quốc tế riêng, thường phải dựa nhiều vào khách hàng và các đối tác chính để có đầu vào thiết kế, quy trình công nghệ, tiếp thị và phân phối. Nhiều doanh nghiệp coi Chính phủ như một tác nhân quan trọng đến kết quả kinh doanh của họ và nỗ lực tìm kiếm càng nhiều ưu tiên, hạn ngạch, trợ cấp và bảo hộ càng tốt"( Trích “Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt nam”, NXB Chính trị quốc gia 6/1999.) Tiếp đó là về vấn đề thương hiệu sản phẩm, có thể thấy hiện đây đang là một vấn đề nhận được nhiều sự lưu tâm nhất hiện nay. Các DNVVN Việt nam hiện nay chưa tạo được một thương hiệu riêng cho mình- và cũng phải thừa nhận đó là một vấn để chẳng dễ dàng gì. Điển hình là sản phẩm gốm sứ Bát tràng, người ta biết đến Bát tràng là nơi sản xuất uy tín về gốm sứ, đến Bát tràng người ta có thể thấy nhan nhản các cửa hàng cửa hiệu với tên rất rõ ràng với địa chỉ và số điện thoại liên hệ, nhưng vấn đề là ở chỗ, không có tên, không có biểu tượng-tức là không có thương hiệu sản phẩm gốm sứ bát tràng để phân biệt với các sản phẩm gốm sứ khác trong khi gốm sứ Bát tràng hiện nay lại được xuất khẩu với số lượng rất lớn sang Nhật bản và Châu Âu. Để giải quyết vấn đề thương hiệu của mình, một trong những giải pháp đưa ra là các DNVVN có thể sử dụng thương hiệu của các doanh nghiệp lớn cho đến khi có thương hiệu riêng, nhất là trong hoạt động xuất khẩu, các DNVVN cũng có thể hợp tác với các doanh nghiệp lớn nhằm sử dụng các thương hiệu của các doanh nghiệp đó. Thêm nữa, các DNVVN có thể mua lại các thương hiệu của các doanh nghiệp lớn bằng giao dịch nhượng quyền thương hiệu. Nếu DNVVN xây dựng thương hiệu của chính mình thì nên xây dựng thương hiệu ở cấp công ty thay vì xây dựng thương hiệu sản phẩm vì như vậy quá tốn kém. Theo nghiên cứu của các chuyên gia thì để phát triển một thương hiệu thì chi phí đầu tư không nhỏ và cần ít nhất vài năm để xây dựng thương hiệu quốc gia, cần khoảng 10 năm để xây dựng thương hiệu quốc tế, điều này là rất khó khăn với các DNVVN Việt nam với đa phần quy mô rất nhỏ, năng lực tài chính hạn chế, mục tiêu bán được hàng, có lợi nhuận, tạo công ăn việc làm là vấn đề cấp bách trước mắt. Hạn chế về khai thác và mở rộng thị trường đầu ra nội địa: Thị trường nội địa của các DNVVN còn kém phát triển và thiếu đồng bộ. Các DNVVN chưa vượt ra được thị trường địa phương và khu vực. Thị trường đầu ra nội địa còn bị chèn ép vì độc quyền, vì hàng nhập lậu tràn lan, vì doanh nghiệp thiếu thông tin thị trường và thiếu sự hỗ trợ, tư vấn của các cấp vĩ mô. Sắp tới ngoài những thách thức đó, còn có những thách thức khi thị trường Việt nam phải mở cửa hoàn toàn cho khu vực AFTA và lộ trình gia nhập WTO cũng đang hứa hẹn nhiều khó khăn đối với khu vực DNVVN. Thực tế ở thị trường nội địa Việt Nam hiện nay, việc xác lập các kênh lưu thông từ sản xuất đến tiêu thụ chưa thực hiện hiệu quả, chủ yếu do DNVVN khu vực kinh tế tư nhân đảm nhận. Doanh nghiệp tư nhân tuy đông nhưng vốn quá nhỏ, phạm vi kinh doanh rộng nhưng lại thiếu nghiệp vụ, kinh nghiệm nên DNVVN tư nhân thường chờ thời cơ, buôn bán nhỏ qua nhiều khâu trung gian. Điều đó dẫn đến tình trạng lộn xộn ép giá đầu vào, nâng giá đầu ra, hay đội giá và gây ra hiện tượng khan hiếm hoặc dư thừa hàng hóa trên thị trường. Phần lớn doanh nghiệp hoạt động còn mang tính tự phát, năng lực nghiên cứu, dự báo cung cầu thị trường còn yếu. Nhiều khi, thấy có một mặt hàng đang bán chạy, các DNVVN đổ xô vào đầu tư sản xuất. Thực tế này dẫn tới đẩy giá nguyên liệu lên cao, làm giá thành sản phẩm tăng, đồng thời lượng cung hàng hóa cũng tăng. Do đó, dẫn tới thua lỗ, phá sản trong hàng loạt doanh nghiệp. Nhà nước chưa có biện pháp hỗ trợ DNVVN trong những trường hợp kinh doanh rủi ro cho nên chưa khuyến khích được doanh nghiệp đầu tư vào những lĩnh vực mới hay tại những địa bàn kém lợi thế. Hơn nữa, việc quản lý thị trường của Nhà nước Việt Nam còn nhiều kẽ hở, hàng lậu tràn lan, hàng giả gia tăng gây ảnh hưởng tiêu cực tới sản xuất của doanh nghiệp. Tất cả những thực tế này khiến các doanh nghiệp thương mại vừa và nhỏ có khuynh hướng tập trung các nguồn lực dự trữ và tiêu thụ hàng ngoại hơn là tổ chức lưu chuyển hàng hóa trong nước. Vì vậy, phần lớn hàng tiêu dùng bị nước ngoài chiếm lĩnh, thị trường nội địa không phát triển đúng mức, càng tạo ra thêm nhiều cản trở cho sự gia nhập thị trường và vươn lên của nhiều DNVVN khác. Hạn chế về khai thác và mở rộng thị trường đầu ra nước ngoài: Ngày càng có nhiều DNVVN tham gia đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng, ở mặt trận này doanh nghiệp cũng bộc lộ rất nhiều hạn chế, từ chính bản thân và từ môi trường kinh doanh. Cơ cấu thị trường xuất khẩu không đa dạng, nhiều doanh nghiệp gặp không ít bất lợi khi các nước châu á - bạn hàng chính lâm vào khủng hoảng, cắt giảm tiêu thụ, nợ nần dây dưa. Nhìn chung, doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được chiến lược thị trường của riêng mình. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay mới chỉ có "chiến lược để cố gắng tồn tại trong ngắn hạn" hoặc là "chưa có chiến lược riêng phát triển doanh nghiệp" ( Trích “ Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt nam”-NXB Chính trị quốc gia, tháng 6/1999). “Các DNVVN thụ động trong xuất khẩu”, đó cũng là nhận định được đưa ra tại hội thảo “Tăng cường năng lực hợp tác quốc tế của DNVVN Việt nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế” tổ chức vào 6/6/2001. Một khảo sáo của một nhóm nghiên cứu về DNVVN của trường đại học Kinh tế quốc dân, Đại học ngoại thương cùng với Đại học Copenhagen của Đan mạch cho thấy:36,7% số DNVVN có được đơn hàng xuất khẩu qua việc khách hàng nước ngoài trực tiếp đến thăm doanh nghiệp, 10,2% từ việc tham gia hội chợ triển lãm và 14,3% từ các đại lý bán hàng nước ngoài của doanh nghiệp và 20,4% là qua Bộ Thương mại và VCCI. Qua đó thấy rằng các DNVVN còn rất thụ động trong việc tìm thị trường, khách hàng, còn phụ thuộc nhiều vào khách hàng và hầu như hoàn toàn thụ động trong việc tiếp cận với thị trường và định hướng khách hàng, hiếm khi chủ động tìm kiếm khách hàng mới, nắm bắt và tham gia vào các hoạt động tiếp thị năng động trong nước hay quốc tế, hoặc thử nghiệm các mẫu sản phẩm mới. Điều này có nghĩa là nhiều doanh nghiệp tiếp tục sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp, phạm vi cải tiến bó hẹp - những sản phẩm mà đến lượt nó lại phải chịu ảnh hưởng của những người bán hàng quốc tế hùng mạnh, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay theo sự phá giá tiền tệ ở một số nước đối thủ cạnh tranh. Do thiếu thông tin và kèm theo những yếu điểm về công nghệ, trình độ quản lý, nên doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro khi xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp chỉ có thông tin về khách hàng, đối thủ cạnh tranh… một cách chắp vá, vì vậy rơi vào tình trạng hoặc chịu thua thiệt về giá hoặc khó định hướng được đầu tư. Hầu hết DNVVN Việt Nam chỉ biết dựa vào chi phí sản xuất và giá chào hàng của doanh nghiệp khác, dễ dàng đánh mất nhiều cơ hội kinh doanh quí báu. Sức cạnh tranh, vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trên thương trường quốc tế rất non yếu. Trên thực tế, các DNVVN nước ta chủ yếu gia công cho các tổ chức thương mại trong và ngoài nước, hoặc xuất khẩu uỷ thác qua các doanh nghiệp nhà nước qui mô lớn. Do khoảng trống thông tin tồn tại giữa thị trường Việt Nam và thế giới bên ngoài, doanh nghiệp phải phụ thuộc sâu sắc vào các tổ chức trung gian, bị ép giá và phải chia sẻ một khoản đáng kể trong lợi nhuận thu được. Nhà xuất khẩu không hề biết hiệu quả của công việc như thế nào, một khi sản phẩm rời nhà máy doanh nghiệp không biết điều gì sẽ xảy ra với sản phẩm của mình. Một khảo sát do “Chương trình phát triển dự án Mekong về DNVVN (MPDF)” tiến hành về các doanh nghiệp xuất khẩu khu vực tư nhân xét theo 'Thành công" và "Không thành công" cho thấy rằng, 'Thành công" của một doanh nghiệp phụ thuộc vào một số yếu tố, trong đó có: tiếp cận thị trường trực tiếp thay vì sử dụng các trung gian thương mại; lựa chọn sản phẩm có giá trị gia tăng cao thay vì các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp; xác định được mảng thị trường có nhu cầu lớn trong nước (thực phẩm, hàng tiêu dùng cơ bản) hoặc một mảng thị trường có lợi tức cao trên thị trường xuất khẩu (hạt điều, cà phê, hải sản và hàng may mặc) - thay vì không biết về thị trường tiêu thụ cuối cùng hoặc về người tiêu thụ cuối cùng; có những bạn hàng lâu dài và xây dựng chiến lược thị trường đa dạng, ổn định thay vì quá tập trung vào một số thị trường nào đó. Đáng tiếc là, hiện nay rất đông DNVVN Việt Nam có đặc điểm sản xuất kinh doanh rơi vào trường hợp "Không thành công". Trong khi kim ngạch xuất khẩu của các DNVVN chiếm tới 70% kim ngạch của cả nền kinh tế thì vấn đề đã trở nên không còn đơn giản nữa. Các cơ chế để doanh nghiệp có thể hợp tác thường xuyên với nhau còn thiếu trầm trọng ở Việt Nam, một phần là do nhận thức yếu kém về lợi ích mà hợp tác mang lại và một phần khác là do Nhà nước thiếu biện pháp khuyến khích, tạo điều kiện. Sản xuất của DNVVN riêng rẽ, manh mún khó có hiệu quả kinh tế theo qui mô. Chưa xác lập được vai trò thầu phụ với doanh nghiệp lớn, liên kết sản xuất phân đoạn giữa các DNVVN chưa có . Mối quan hệ “Vệ tinh- trung tâm” với các doanh nghiệp lớn chưa tồn tại ở Việt nam trong khi đây là chìa khoá cho thành công của nhiều DNVVN của nhiều nền kinh tế trên thế giới- điển hình là Nhật bản. Tình hình liên doanh đầu tư với tư nhân trong nước còn rất ít, chủ yếu là liên doanh giữa tư bản nước ngoài với Doanh nghiệp nhà nước qui mô lớn. Giữa các DNVVN cùng ngành chưa có hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau nên chưa tạo nên sức mạnh để mở rộng thị trường. Cũng do mang nặng các tính chất của một nền sản xuất nhỏ, phân tán cho nên khi tham gia vào thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp Việt Nam rơi vào tình trạng cạnh tranh lẫn nhau trên thương trường, trong số đó, không ít là cạnh tranh không lành mạnh : " ta lại đánh ta", "doanh nghiệp này phá doanh nghiệp kia, địa phương này phá địa phương kia" Trích câu nói của Thủ tướng Phan Văn Khải trong cuộc gặp gỡ các doanh nghiệp, ngày 18-19/3/2000 tại Thành phố Hồ Chí Minh (Trích câu nói của Thủ tướng Phan Văn Khải tại cuộc gặp gỡ các doanh nghiệp trong hai ngày 18-19/3/2000 tại TP Hồ Chí Minh). Các đối tác nước ngoài đã nhanh chóng nhận ra đặc điểm này, và kết quả là giá xuất khẩu hàng Việt Nam đã do chính các doanh nghiệp Việt Nam hạ xuống đến mức thấp không thể chấp nhận được, cả doanh nghiệp lẫn nền kinh tế quốc dân phải gánh chịu những thiệt hại lớn. Các hiệp hội kinh doanh, các cơ quan xúc tiến của Nhà nước chưa thực sự hỗ trợ cho doanh nghiệp. Mặc dù thời gian qua quan hệ Chính phủ - doanh nghiệp đã có những bước cải thiện đáng kể thể nhưng nhìn chung quan hệ này mới thông nhưng còn chưa thoáng, Chính phủ đã tiếp thu kiến nghị của DN song mới chỉ ở những giải pháp tình thế, chưa có tính cơ bản và triệt để và mang tính lâu dài và đặc biệt chưa xoá bỏ sự phân biệt giữa DNNN và doanh nghiệp tư nhân-tiêu biều cho các DNVVN, làm cơ sở cho sự phát triển các DNVVN. Qua đó, các DNVVN chưa có khả năng tự thiết lập hệ thống thông tin thị trường, xây dựng các hoạt động xúc tiến thương mại, thêm vào đó cũng không gặp thuận lợi khi tiếp cận với các kênh thông tin, các hiệp hội xúc tiến xuất khẩu. DNVVN chưa được hưởng các chính sách ưu đãi công bằng như các doanh nghiệp Nhà nước qui mô lớn. Chẳng hạn việc phân bổ quota, việc sử dụng thông tin của bộ chủ quản… các DNNN mặc dù hoạt động kém hiệu quả song được hưởng nhiều ưu đãi hơn các doanh nghiệp tư nhân. Phát triển mạnh DNVVN là một chiến lược trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt nam nhưng hiện tại ở Việt Nam DNVVN đang gặp rất nhiều khó khăn và tồn tại, chưa thể phát huy tiềm năng và những lợi thế kinh tế-xã hội to lớn của mình. Trong đó những hạn chế nổi bật là về vốn, công nghệ, nhân lực, thông tin, sản phẩm-thị trường. MỤC LỤC Chương I. Những cơ sở lý luận chung của doanh nghiệp vừa và nhỏ 1. Khái niệm của doanh nghiệp vừa và nhỏ 2. Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ 3. Ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ 4. Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ 5. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ 6. Pháp luật chi phối doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam Chương II. Thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam I. Quá trình hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam 1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực công nghiệp 2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực thương mại dịch vụ 3. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn II. Tác động của các chính sách vĩ mô đến sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ 1. Tác động của chính sách thương mại 2. Tác động cảu chính sách tài chính tiền tệ 3. Tác động của chính sách đất đai 4. Tác động của chính sách công nghệ, giáo dục đào tạo 5. Tác động của chính sách hợp tác quốc tế về các doanh nghiệp vừa và nhỏ III. Thực trạng và những tồn tại của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam 1. Vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ 2. Tình hình thiết bị công nghệ 3. Trình độ nhân lực, lao động và quản lý 4. Tình hình và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ về sản phẩm, thị trường KẾT LUẬN Trong thời gian qua với những chủ trương, chính sách đầu tư phát triển của nhà nước các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta phát triển nhanh chóng và có những đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên sự phát triển của các doanh nghiệp này trong thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế. Điều này chứng tỏ tiềm năng của chúng ta vẫn còn chưa được khai thác triệt để chính vì vậy trong thời gian qua em đã tập trung vào nghiên cứu những khó khăn, tồn đọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ đó đưa ra một số giải pháp hỗ trợ nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta hiện nay. Tuy chưa phải là tất cả nhưng em hy vọng rằng với những giải pháp đó phần nào hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam trong thời gian tới. Tuy đã gắng nhiều, nhưng do trình độ của bản thân, cùng với thời gian có hạn và kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên không thể không mắc phải những sai sót. Em rất mong được sự góp ý của thầy và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDoanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đó đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc.doc
Luận văn liên quan