Đề tài Giải pháp gia tăng huy động vốn của nhtm trong điều kiện khủng hoảng kinh tế hiện nay

Lời mở đầu: Hoà mình với công việc đổi mới chung của đất nước, cùng góp phần vào những thành tựu đã đạt được trong thập niên qua, ngành Ngân hàng đã phải vượt qua không ít khó khăn để phấn đấu cho mục tiêu phát triển đất nước. Vì mục tiêu này, không ai khác mà chính hệ thống Ngân hàng phải trở thành bàn đạp vững chắc cho nền kinh tế. Tuy nhiên, hơn 20 năm đổi mới chưa phải là nhiều, Ngân hàng còn phải giải quyết nhiều những khó khăn trước mắt mà một trong những vấn đề nổi cộm là hiệu quả công tác huy động vốn của ngân hàng hiện nay Huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng của ngân hàng thương mại, trong đó nguồn vốn huy động có ý nghĩa quyết định, là cơ sở để NH tiến hành các hoạt động cho vay, đầu tư, dự trữ mang lại lợi nhuận cho NH. Để có được nguồn vốn, NH cần phải tiến hành các hoạt động huy động vốn, trong đó huy động tiền gửi tiết kiệm chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, việc huy động tiền gửi của ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn như: chịu nhiều cạnh tranh từ các chủ thể khác trong nền kinh tế cũng tiến hành hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm: các ngân hàng khác, các công ty bảo hiểm, bưu điện Thêm vào đó các nhà đầu tư đang tìm nơi trú ẩn an toàn vào vàng thì vấn đề huy động vốn của các ngân hàng thương mại càng khó khăn hơn bao giờ hết và cần có những giải pháp hữu hiệu, kịp thời. Thông qua nghiên cứu, tìm hiểu quá trình huy động tiền gửi tiết kiệm, tìm hiểu quá trình kinh doanh để có những phương án huy động tiền gửi tiết kiệm linh hoạt, mang tính cạnh tranh là hết sức cần thiết. Xuất phát từ thực tiễn trên, nhóm mình sẽ cùng các bạn tìm hiểu về thực trạng huy động vốn của các ngân hàng thương mại ở nước ta, qua đó rút ra những điểm mạnh, điểm yếu cũng như giải pháp để tăng huy động vốn ở các ngân hàng thương mại trong giai đoạn khủng hoảng hiện nay. Mục lục: I Tổng quan về nền kinh tế trong giai đoạn khủng hoảng hiện nay II Các sản phẩm huy động vốn của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam 1-Huy động vốn bằng tiền gửi: 2-Phát hành giấy tờ có giá: IIIThực trạng huy động vốn của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam 1-Thực trạng huy động vốn của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam: 2-Nguyên nhân của việc huy động vốn giảm: 3-Một số thành tựu trong huy động vốn của các ngân hàng thương mại sau khủng hoảng : IV Giải pháp huy động vốn trong giai đoạn hiện nay: I Tổng quan về kinh tế trong giai đoạn khủng hoảng hiện nay Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ảnh hưởng sâu rộng đối với toàn bộ hệ thống của các ngân hàng trên toàn Thế Giới không loại trừ các ngân hàng lớn. Ở Mỹ, hàng loạt các ngân hàng công bố thua lỗ sau sự kiện Lehman Brothers phá sản, một số các ngân hàng muốn sống sót phải chuyển đổi sang mô hình ngân hàng tổng hợp để có thể dễ dàng huy động vốn hơn như Goldman Sachs và Morgan Stanley, hoặc sát nhập, mua lại các ngân hàng như Bank of America mua lại Merill Lynch hay Bear Stearns “sang tay” cho ngân hàng JP Morgan. Tình hình kinh tế ngày càng diễn biến phức tạp ở thị trường Châu Âu và Mỹ, khi Mỹ phải nâng mức trần nợ công, và sau đó là bị S&P hạ một bậc tín nhiêm. - Còn đối với Việt Nam: là quốc gia duy nhất trong số các nền kinh tế đang nổi lên ở khu vực Đông nam Á không rơi vào tình trạng suy thoái năm 2009 dưới tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu. Dẫu vậy, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cũng đã cho thấy rằng cuộc khủng hoảng đã có ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế. -Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ là tác động mang tính hai chiều, song chủ yếu là tác động tiêu cực tới nền kinh tế toàn cầu cũng như của Việt Nam. Do sự hội nhập ngày càng sâu và rộng của nền kinh tế Việt Nam vào thế giới nên Việt Nam chịu những tác động nhất định, tuy không trực tiếp. Ba vấn đề nổi bật mà nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt hiện nay và vẫn chưa thể giải quyết trong ngắn hạn, đó là: lạm phát, nhập siêu và lãi suất. -Ảnh hưởng lớn nhất đối với Việt Nam trước hết là về xuất khẩu sang các thị trường như Mỹ và châu Âu (chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu) -Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường chứng khoán và quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn. Việc huy động vốn thông qua thị trường vốn khó khăn trong khi thị trường tín dụng thắt chặt sẽ chặn dòng vốn và đẩy chi phí tài chính của các doanh nghiệp lên cao. - Ảnh hưởng trực tiếp thì cũng có giới hạn vì Việt Nam chưa tham gia nhiều vào thị trường tài chính thế giới và không tham gia mua bán chứng khoán phái sinh này. Nhưng khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng cho vay giữa các ngân hàng (Libor và Sibor, tức London Inter Bank offer rate, Singapore Inter Bank Offer rate, thường được dùng làm lãi suất cơ sở để cho các xí nghiệp và ngân hàng Việt Nam vay).Ngoài ra đầu tư trực tiếp (FDI) của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng vì FDI vào Việt Nam phần lớn là vốn vay chứ không phải vốn tự có, nên nếu các nhà đầu tư không dàn xếp được khoản vay sẽ khó giải ngân được. - 12/2/2011 Ngân hàng Nhà nước quyết định nâng tỷ giá liên ngân hàng từ 18.932 đồng đổi một đôla Mỹ lên 20.693 đồng, tương đương với mức tăng hơn 9. Sự giảm giá mạnh mẽ của tiền Đồng có khả năng khá cao trong việc tạo áp lực lên cán cân thương mại sau việc đồng tiền bị mất giá thường có thể được đại diện bởi một đường cong-J. Thực tế, sự mất giá của đồng nội tệ sẽ làm hoạt động thương mại trở nên tồi tệ hơn trong giai đoạn đầu tiên, nới rộng tình trạng thâm hụt thương mại do một số hợp đồng thương mại vẫn dựa trên tỷ giá cũ, và cần một khoảng thời gian để hiệu ứng điều chỉnh tiền Đồng phát huy tác dụng của nó. Một vài tuần sau đó, NHNN quyết định đóng cửa các hoạt động kinh doanh ngoại hối trên thị trường tự do vốn đã được hoạt động nhiều năm qua tại Việt Nam.

docx24 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2930 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp gia tăng huy động vốn của nhtm trong điều kiện khủng hoảng kinh tế hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ải nâng mức trần nợ công, và sau đó là bị S&P hạ một bậc tín nhiêm. - Còn đối với Việt Nam: là quốc gia duy nhất trong số các nền kinh tế đang nổi lên ở khu vực Đông nam Á không rơi vào tình trạng suy thoái năm 2009 dưới tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu. Dẫu vậy, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cũng đã cho thấy rằng cuộc khủng hoảng đã có ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế. -Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ là tác động mang tính hai chiều, song chủ yếu là tác động tiêu cực tới nền kinh tế toàn cầu cũng như của Việt Nam. Do sự hội nhập ngày càng sâu và rộng của nền kinh tế Việt Nam vào thế giới nên Việt Nam chịu những tác động nhất định, tuy không trực tiếp. Ba vấn đề nổi bật mà nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt hiện nay và vẫn chưa thể giải quyết trong ngắn hạn, đó là: lạm phát, nhập siêu và lãi suất. -Ảnh hưởng lớn nhất đối với Việt Nam trước hết là về xuất khẩu sang các thị trường như Mỹ và châu Âu (chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu) -Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường chứng khoán và quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn. Việc huy động vốn thông qua thị trường vốn khó khăn trong khi thị trường tín dụng thắt chặt sẽ chặn dòng vốn và đẩy chi phí tài chính của các doanh nghiệp lên cao. - Ảnh hưởng trực tiếp thì cũng có giới hạn vì Việt Nam chưa tham gia nhiều vào thị trường tài chính thế giới và không tham gia mua bán chứng khoán phái sinh này. Nhưng khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng cho vay giữa các ngân hàng (Libor và Sibor, tức London Inter Bank offer rate, Singapore Inter Bank Offer rate, thường được dùng làm lãi suất cơ sở để cho các xí nghiệp và ngân hàng Việt Nam vay).Ngoài ra đầu tư trực tiếp (FDI) của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng vì FDI vào Việt Nam phần lớn là vốn vay chứ không phải vốn tự có, nên nếu các nhà đầu tư không dàn xếp được khoản vay sẽ khó giải ngân được. - 12/2/2011 Ngân hàng Nhà nước quyết định nâng tỷ giá liên ngân hàng từ 18.932 đồng đổi một đôla Mỹ lên 20.693 đồng, tương đương với mức tăng hơn 9. Sự giảm giá mạnh mẽ của tiền Đồng có khả năng khá cao trong việc tạo áp lực lên cán cân thương mại sau việc đồng tiền bị mất giá thường có thể được đại diện bởi một đường cong-J. Thực tế, sự mất giá của đồng nội tệ sẽ làm hoạt động thương mại trở nên tồi tệ hơn trong giai đoạn đầu tiên, nới rộng tình trạng thâm hụt thương mại do một số hợp đồng thương mại vẫn dựa trên tỷ giá cũ, và cần một khoảng thời gian để hiệu ứng điều chỉnh tiền Đồng phát huy tác dụng của nó. Một vài tuần sau đó, NHNN quyết định đóng cửa các hoạt động kinh doanh ngoại hối trên thị trường tự do vốn đã được hoạt động nhiều năm qua tại Việt Nam. II Các sản phẩm huy động vốn của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam Huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Các ngân hàng thương mại huy động vốn cách thứ nhất là thông qua nghiệp vụ huy động tiền gởi bảo gồm: huy động tiền gửi thanh toán, tiền gửi cá nhân, tiết kiệm không kỳ hạn và tiết kiệm định kỳ. Cách 2 thông qua phát hành chứng từ có giá. Sau đây nhóm chúng tôi đi sâu vào nghiệp vụ huy động vốn bằng tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm và phát hành giấy tờ có giá. Huy động vốn bằng tiền gửi: huy động vốn bằng tiền gửi thanh toán: Khái niệm: tiền gửi thanh toán là hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại bằng cách mở cho khách hàng tài khoản gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán. Tài khoản này mở cho các đối tượng khách hàng, cá nhân hoặc tổ chức, có nhu cầu thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Đặc điểm: Không thỏa thuận thời điểm rút tiền cụ thể Không hạn chế số lần gửi tiền, số lần rút tiền, số lần giao dịch thanh toán qua ngân hàng. Mục đích: thanh toán qua ngân hàng Quy trình: Yes No (3) (1) (1) Khách hàng Nhân viên giao dịch Tạo GD mở tài khoản Kiểm soát viên Thực hiện giao dịch Tiền gởi thanh toán bao gồm: Tiền gởi thanh toán khách hàng là doanh nghiệp: Dịch vụ thanh toán mà ngân hàng cung cấp: Ngân hàng Sản phẩm dịch vụ tài khoản thanh toán Lọai tiền Vietcombank Tài khoản tiền gởi thanh toán Tài khoản tiền gởi đặc biệt: chuyên chi, chuyên thu, đầu tư tự động,… Vnd, USD, và các loại ngoại tệ khác Vietinbank Tài khoản tiền gởi thanh toán Vnd và các loại ngoại tệ ACB Tài khoản tiền gởi thanh toán Vnd, USD, EUR, và các loại ngoại tệ khác HSBC Tài khoản tiền gởi thanh toán ( tiện ích đa dạng chuyển tiền trong nước, quốc tế, thanh toán séc và thanh toán tự động hàng tháng) Vnd và các loại ngoại tệ BIDV Tài khoản tiền gởi thanh toán Tài khoản kết hợp (cấp cho khách hàng hạn mức thanh toán trên cơ sở số dư tiền gửi có kỳ hạn của khách hàng tại BIDV) Vnd, USD, EUR Sacombank Tài khoản tiền gởi thanh toán VND, USD, EUR, AUD, CAD, CHF, GBP, JPY, SGD Vietbank Tài khoản tiền gởi thanh toán Tài khoản thanh toán có kỳ hạn của khách hàng doanh nghiệp Agribank Tài khoản tiền gởi thanh toán VND, USD, EUR MHB Tài khoản tiền gởi thanh toán VND, USD Tiền gởi thanh toán khách hàng là cá nhân Dịch vụ thanh toán mà ngân hàng cung cấp: Vietcombank Tài khoản tiền gởi thanh toán Vnd, USD, và các loại ngoại tệ khác Vietinbank Tài khoản tiền gởi thanh toán Vnd và các loại ngoại tệ ACB Tài khoản tiền gởi thanh toán VND, USD, EUR, và các loại ngoại tệ khác HSBC Tài khoản an lợi Tài khoản vãng lai Tài khoản tiền gởi trực tuyến VND, USD, EUR, GBP, AUD, CAD, JPY, SGD và HKD VND BIDV Tài khoản tiền gởi thanh toán VND, USD, EUR Sacombank Tài khoản tiền gởi thanh toán VND, USD, EUR, AUD, CAD, CHF, GBP, JPY, SGD Vietbank Tài khoản tiền gởi thanh toán Agribank Tài khoản tiền gởi thanh toán VND, USD, EUR MHB Tài khoản tiền gởi thanh toán VND, USD Nhìn chung đối với huy động vốn bằng tiền gởi thanh toán, các ngân hàng thương mại ở Việt Nam áp dụng mức lãi suất không kỳ hạn nhằm khuyến khích các khách hàng gởi tiền vào ngân hàng mặc dù đối với kênh huy động vốn này ở một số nước áp dụng mức lãi suất 0%. Nguyên nhân là do nhu cầu vốn huy động của các ngân hàng ở Việt Nam khá cao thêm vào đó là việc huy động vốn của các ngân hàng chỉ thường thông qua kênh truyền thống từ tiền gởi của khách hàng. Ở hầu hết các ngân hàng thương mại ở Việt Nam thường huy động đối với loại tiền VND, USD, EUR trong khi đó đối với ngân hàng nước ngoài như HSBC lại huy động với nhiều loại tiền khác nhau cũng như là sự đa dạng trong các loại tài khoản tiền gởi không kỳ hạn. đặc điểm này cho thấy sự phát triển vượt bậc về các loại hình sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng ở ngân hàng nước ngoài khiến cho họ có khả năng cạnh tranh cao hơn so với các ngân hàng trong nước. Để bù vào thiếu sót đó , ta thấy rõ ngân hàng ở Việt Nam lại phát triển về chiều rộng với một khối lượng khổng lồ các chi nhánh và phòng giao dịch. Đây là một lợi thế mà ngân hàng Việt Nam đang khai thác nhằm mang lại nguồn vốn huy động cao cho mình. Tiền gửi tiết kiệm: Khái niệm: Là khoản tiền gửi của các tầng lớp dân cư gửi vào tài khoản tiết kiệm tại ngân hàng, nhằm mục đích sinh lời và tích lũy các khoản thu nhập nhàn rỗi. 1.2.2 Phân loại Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là loại tiền gửi tiết kiệm mà khách hàng được rút tiền bất cứ lúc nào có nhu cầu. Vốn gốc: chi trả theo yêu cầu rút tiền từng lần của khách hàng Tiền lãi: lãi được tính và nhập vào TK cho KH mỗi tháng hoặc theo ngày phát sinh giao dịch. Tiền lãi tính theo số dư thực tế. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là loại tiền gửi tiết kiệm mà KH chỉ được rút tiền sau khi kết thúc một kỳ hạn theo thỏa thuận. Vốn gốc: được thanh toán 1 lần khi KH rút tiền Tiền lãi: được trả định kì mỗi tháng theo ngày gửi hoặc trả 1 lần khi KH rút tiền. Đối với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn thì nó khá giống với tiền gửi thanh toán, khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào. Như vậy, ngân hàng sẽ không kế hoạch hóa được việc sử dụng tiền, ngân hàng lúc nào cũng có 1 khoản dự trữ để khách hàng rút tiền ra, nên lãi suất của loại tiền gửi này khá thấp. Yes Khách hàng Nhân viên giao dịch Tạo GD mở TK Kiểm soát viên Hệ thống thực hiện giao dịch (1) (3) (2) No Còn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn thì nó khác nhiều so với các loại trên. Khách hàng không thể rút vốn bất cứ khi nào họ muốn, nếu rút trước hạn thì sẽ bị tính theo lãi suất không kỳ hạn. Đối với loại tiền gửi này ngân hàng có thể kế hoạch hóa được việc sử dụng tiền nên lãi suất cao hơn. 1.2.3 Qui trình nhận tiền gửi tiết kiệm Khách hàng Nhân viên giao dịch Tạo GD trả TK Kiểm soát viên Hệ thống thực hiện giao dịch (1) (3) (2) Yes No 1.2.4 Qui trình trả tiền gửi tiết kiệm 1.2.5 Một số sản phẩm tiền gửi tiết kiệm hiện nay Tên ngân hàng Sản phẩm TGTK Đặc điểm sản phẩm Lợi ích sản phẩm VP bank TK lĩnh lãi định kì Kỳ hạn: Từ 3 tháng trở lên. Loại tiền: VNĐ, USD. Phương thức trả lãi: Hàng tháng, hàng quý, hàng 6 tháng hoặc hàng năm. Lãi suất: Áp dụng theo Biểu lãi suất do VPBank quy định trong từng thời kỳ. Tất toán trước hạn: Khách hàng được tất toán trước hạn và hưởng lãi suất không KH. Lãi suất hấp dẫn, cạnh tranh. Trả lãi định kỳ tạo nguồn thu nhập ổn định, đều đặn từ tiền lãi đáp ứng nhu cầu chi tiêu sinh hoạt/chi thường xuyên khác. Kỳ hạn gửi, kỳ lĩnh lãi đa dạng. Lĩnh lãi bằng tiền mặt tại quầy hoặc qua tài khoản cá nhân của chính khách hàng. Gửi và rút tiền tại bất cứ điểm giao dịch nào của VPBank trên toàn quốc. Được chuyển nhượng, chiết khấu, cầm cố sổ tiết kiệm để mở thẻ tín dụng/vay vốn tại VPBank với lãi suất ưu đãi. Thường xuyên được tham gia các Chương trình khuyến mãi hấp dẫn. Tiết kiệm tích lộc Tiết kiệm Tích lộc là hình thức tiết kiệm gửi góp trong một khoảng thời gian dài. Theo đó, khách hàng có quyền chủ động quyết định thời gian gửi và số tiền gửi định kỳ để tiết kiệm cho việc thực hiện các nhu cầu, dự định trong tương lai. Khách hàng được hưởng mức lãi suất hấp dẫn và cạnh tranh Lãi suất thả nổi trong suốt thời hạn gửi tiền thực tế. Sử dụng Tiết kiệm Tích lộc để tích lũy thu nhập của chủ sở hữu hoặc để tặng, cho người thụ hưởng của sổ tiết kiệm. Cơ sở công nghệ ngân hàng hiện đại, giao dịch online trên toàn hệ thống, khách hàng có thể gửi/ rút tiền tại bất kỳ điểm giao dịch nào của VPBank trên toàn quốc. Thủ tục nhanh chóng, đơn giản và thuận tiện. Được sử dụng dịch vụ tiện ích khác của VPBank như Internet Banking để nộp tiền vào Tiết kiệm Tích lộc. Tiết kiệm Tích lộc được sử dụng để xác nhận số dư như các khoản tiền gửi khác. Martime bank Tiết kiệm” lãi suất cao nhất” - Loại tiền áp dụng: Việt Nam đồng (VND) và Đô la Mỹ (USD) -   Rút trước hạn: Khách hàng được hưởng lãi suất không kỳ hạn tại thời điểm rút tiền. -   Đáo hạn: Khi đáo hạn, nếu khách hàng không đến rút và không có thoả thuận nào khác thì Ngân hàng sẽ tự động chuyển sang kỳ hạn mới tương đương, với lãi suất tại thời điểm chuyển kỳ hạn. -     Lãi suất hấp dẫn nhất trong các sản phẩm. -     Lãi và gốc được trả một lần khi đến hạn. -     Khách hàng được gửi và rút tại tất cả các điểm giao dịch của Maritime Bank trên toàn quốc và được chuyển nhượng theo quy định của Pháp luật và của Maritime Bank. ACB Tiền gửi TK – bảo hiểm “lộc bảo toàn” Kỳ hạn gửi :           13 tháng (lãi nhập vốn cuối kỳ) Mức gửi tối thiểu   :           20.000.000 VND Phương thức lãnh lãi:          Lãi cuối kỳ, lãi tháng Bảo hiểm được thực hiện trong trường hợp không may gặp rủi ro, KH/người thụ hưởng sẽ nhận ngay 200% (100% số tiền bảo hiểm và 100% số tiền tiết kiệm) TK lãi suất thả nổi-là sản phẩm Tiết kiệm có kỳ hạn 36 tháng - lãnh lãi hàng kỳ ra đời với mục đích đem lại lợi ích cao nhất cho khách hàng. Kỳ hạn gửi: 36 tháng – Lãnh lãi hàng kỳ Kỳ lãnh lãi: là khoảng thời gian 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng hay 12 tháng do khách hàng lựa chọn. Loại tiền gửi: VND hoặc USD Mức gửi: Từ 5.000.000 VND trở lên hoặc từ 500 USD trở lên Lãi suất trên TTK: Tương ứng với mức gửi tại thời điểm gửi. Lãi suất thực nhận: Tự động điều chỉnh, tương ứng với lãi suất Floating tại thời điểm đầu kỳ lãnh lãi. Phương thức lãnh lãi: Khách hàng được quyền chỉ định phương thức lãnh lãi theo nhu cầu thực tế như lãnh lãi hàng kỳ bằng tiền mặt hay chuyển lãi sang tài khoản ATM2+ (Đối với TGTK VND) hoặc lãi tự động nhập vốn. Linh hoạt theo lãi suất thị trường với lãi suất tự điều chỉnh vào đầu mỗi kỳ lãnh lãi  (1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng hay 12 tháng). Khi khách hàng tham gia tiết kiệm Floating, tại cuối mỗi kỳ lãnh lãi, ACB chi trả khách hàng tiền lãi theo lãi suất TK Floating tại thời điểm đầu kỳ lãnh lãi tương ứng. Đa dạng phương thức lãnh lãi Lãi nhập vốn cuối kỳ lãnh lãi, hoặc; Khách hàng rút lãi hàng kỳ bằng tiền mặt, hoặc; Tự động trích lãi hàng kỳ vào Tài Khoản Tiền Gửi Thanh Toán (thẻ ATM2+) của khách hàng (đối với TGTK VND). Đặc biệt, số tiền lãi này được áp dụng lãi suất không kỳ hạn bậc thang. BIDV Tiết kiệm lớn lên cùng yêu thương(LLCYT)- là sản phẩm tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn (từ 2-15 năm) được mở đứng tên của trẻ như một món quà ý nghĩa mà cha mẹ hoặc người thân của trẻ dành cho con em mình. Khách hàng nộp tiền vào tài khoản theo định kỳ hoặc bất kỳ khi nào có nhu cầu để tích luỹ cho trẻ một khoản tiền lớn hơn trong tương lai, phục vụ cho những nhu cầu của trẻ như học tập, du lịch, mua sắm, sinh hoạt… - Loại tiền gửi: Đồng Việt Nam (VND). - Đối tượng sử dụng sản phẩm: trẻ em Việt Nam dưới 15 tuổi. sử dụng sản phẩm thông qua người giám hộ. - Kỳ hạn: từ 2 đến 15 năm.  Khi trẻ em chưa có đủ năng lực hành vi dân sự, mọi giao dịch liên quan đến tài khoản được thực hiện thông qua người giám hộ hợp pháp của trẻ. - Thời gian gửi: bất kỳ khi nào có nhu cầu hoặc theo định kỳ. - Phương thức gửi: có thể gửi bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản từ các tài khoản khác vào tài khoản tiền gửi Lớn lên cùng yêu thương hoặc chuyển khoản tự động. - Tài khoản tiền gửi Lớn lên cùng yêu thương được đứng tên của Trẻ em và thuộc quyền sở hữu của Trẻ em.  - Người gửi tiền được nộp tiền vào tài khoản LLCYT theo định kỳ hoặc bất kỳ khi nào có nhu cầu.  - Khách hàng được hưởng lãi suất hấp dẫn, rút trước hạn hưởng lãi tròn năm.  - Được miễn phí gửi tiền vào tài khoản LLCYT tại tất cả các điểm giao dịch của BIDV. - Khách hàng được sử dụng số dư tài khoản LLCYT để cầm cố theo quy định của Pháp luật. - Được chuyển nhượng tài khoản LLCYT. - Được xác minh số dư tài chính.  - Được sử dụng các dịch vụ gia tăng tiện ích của ngân hàng. Tiết kiệm tích lũy bảo an (TKTLBA)- là hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, theo đó khách hàng sẽ gửi một khoản tiền cố định đều đặn theo một định kỳ gửi vào tài khoản của mình trong một thời hạn nhất định để có một khoản tiền lớn hơn cho các dự định trong tương lai như mua nhà, mua ô tô, du học,…. Khi tham gia sản phẩm TKTLBA, khách hàng được BIDV tặng sản phẩm Bảo hiểm “BIC-An sinh toàn diện” của Công ty Bảo hiểm BIDV (BIC). - Loại tiền gửi VND, USD. - Thời hạn gửi: chẵn năm từ 01 đến 15 năm. - Định kỳ gửi: chủ tài khoản TKTLBA có thể lựa chọn định kỳ gửi là 01 tháng, 03 tháng hoặc 06 tháng. (Số tiền gửi phải chẵn theo bội số của 100.000 đồng) - Lãi suất được áp dụng thống nhất trong toàn quốc và được điều chỉnh một quý/ một lần. Toàn bộ số tiền trên tài khoản TKTLBA được áp dụng theo lãi suất mới khi lãi suất TKTLBA thay đổi. - Phương thức gửi: người gửi tiền có thể gửi bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản hoặc chuyển khoản tự động (thông qua lệnh AFT). Lần gửi đầu tiên khi mở tài khoản TKTLBA, chủ tài khoản gửi trực tiếp tại các điểm giao dịch của BIDV. - Tất toán đúng hạn: Vào ngày đáo hạn chủ tài khoản TKTLBA hoặc người thụ hưởng sẽ nhận được toàn bộ số gốc và lãi theo quy định của BIDV. - Chủ tài khoản TKTLBA không được tất toán trước hạn từng phần. - Tất toán trễ hạn: Đến ngày đáo hạn chủ tài khoản TKTLBA hoặc người thụ hưởng tài khoản TKTLBA không đến tất toán, vào ngày làm việc tiếp theo, ngân hàng sẽ thực hiện tất toán và chuyển cả gốc và lãi trên chương trình BDS vào tài khoản tiền gửi của chủ tài khoản TKTLBA mở tại BIDV theo yêu cầu đăng ký của khách hàng. - Được tặng bảo hiểm an sinh toàn diện của công ty bảo hiểm BIC. - Được nộp tiền muộn 30 ngày so với ngày gửi tiền định kỳ. - Được đề nghị thay đổi người thụ hưởng trong thời hạn của tài khoản TKTLBA. - Được sử dụng số dư trên tài khoản TKTLBA để cầm cố vay vốn tại BIDV kể cả trường hợp vay vốn để thực hiện giao dịch gửi tiền vào tài khoản TKTLBA cho các kỳ hạn còn lại. - Được miễn phí gửi tiền vào tài khoản TKTLBA tại tất cả các điểm giao dịch của BIDV - Được sử dụng các dịch vụ gia tăng như: dịch vụ tin nhắn BSMS, Internet Banking, Direct Banking… - Được yêu cầu cung cấp các thông tin về những giao dịch liên quan đến tài khoản và số dư trên tài khoản. Tiết kiệm bậc thang- Là sản phẩm huy động tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn với mức lãi suất luỹ tiến theo mức tiền gửi do BIDV quy định. Theo đó, khách hàng gửi tiền với cùng một kỳ hạn nhưng khoản tiền gửi càng lớn thì lãi suất gửi càng cao. - Loại tiền gửi: VND - Kỳ hạn 3, 6, 9, 12, 13, 18, 24 thángLãi suất- Lãi suất do chi nhánh BIDV quyết định căn cứ vào lãi suất huy động trên địa bàn. - Lãi suất cố định trong suốt thời gian gửi. - Quay vòng: Khi đáo hạn, nếu khách hàng không đến lĩnh, ngân hàng sẽ chủ động nhập lãi vào gốc và chuyển sang sản phẩm tiết kiệm lĩnh lãi cuối kỳ thông thường như kỳ hạn ban đầu và áp dụng mức lãi suất qui định tại thời điểm quay vòng. - Rút trước hạn: Lãi suất rút trước hạn được xác định theo thời gian thực gửi của khách hàng. Khách hàng chỉ được thanh toán trước hạn một lần toàn bộ số tiền gửi và được hưởng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn áp dụng tại thời điểm rút của chi nhánh phát hành, tính trên số ngày thực gửi Được hưởng lãi bậc thang theo số dư tiền gửi. Gửi càng nhiều, lãi càng cao SeABank Tài khoản tiết kiệm thông minh-SeASave Smart - Là tài khoản tiết kiệm không kỳ hạn - Nộp tiền trực tiếp tại quầy  hoặc chuyển tiền từ tài khoản Tiền gửi thanh toán qua nhiều kênh tiện ích: SeANet, ATM, Ủy nhiệm chi tự động, SeAMobile. - Lãi được tính theo số dư cuối -ngày, lãi trả vào cuối tháng. - Số dư tối thiểu: 50.000VND/30USD/20EUR - Lãi suất được chia hai mức: - Khách hàng chuẩn: Số dư dưới 50 triệu đồng, 3000 USD, 2000 EUR - Khách hàng VIP: Số dư trên 50 triệu đồng, 3000 USD, 2000 EUR - Lãi suất cao cho số tiền nhàn rỗi ngắn hạn - Có thể giao dịch tại bất cứ đâu, rút bất cứ khi nào với lãi suất không thay đổi. - Chuyển tiền miễn phí, không giới hạn số tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán sang tài khoản SeASave Smart và ngược lại - Theo dõi số dư dễ dàng, nhanh chóng qua SeANet, SeAMobile Qua bảng này, chúng ta thấy rằng các sản phẩm tiền gửi tiết kiệm của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam là khá phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Tuy nhiên, hiện nay lạm phát cao, đồng đô la thì bất ổn nên người dân có tâm lý găm giữ vàng nhiều, sự cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài. Chính điều này đã làm cho việc huy động tiền gửi tiết kiệm của các ngân hàng thương mại Việt Nam trở nên khó khăn hơn. Vì thế, các ngân hàng nên phát triển có chiều sâu các sản phẩm tiết kiệm, đưa ra những sản phẩm tiết kiệm nhắm đúng vào mong muốn và lợi ích của khách hàng. Ví dụ như: tiết kiệm lớn lên cùng yêu thương, tài khoản tiết kiệm thông minh……. Phát hành giấy tờ có giá Là hình thức huy động không thường xuyên thông qua phát hành chứng từ nhận nợ tại các ngân hàng thương mại. Phát hành giấy tờ có giá là hình thức huy động vốn không thường xuyên, chịu sự quản lý chặt chẽ của ngân hàng nhà nước dựa vào Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN và Thông tư 16/2009/TT-NHNN. Điều kiện phát hành GTCG của các tổ chức tín dụng Tuân thủ các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước. Có thời gian hoạt động tối thiểu là một năm kể từ ngày tổ chức tín dụng chính thức đi vào hoạt động. Tổng lợi nhuận trước thuế so vốn chủ sở hữu của năm liền kề trước năm phát hành phải đạt từ 10% trở lên và tính đến thời điểm gần nhất phải có lãi.Kết quả hoạt động, kinh doanh của năm liền kề trước năm phát hành và tính đến thời điểm gần nhất phải có lãi Được sự chấp thuận của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc phát hành giấy tờ có giá dài hạn của năm tài chính của tổ chức tín dụng. Đây là hình thức các ngân hàng thương mại ít sử dụng để huy động vốn, chủ yếu là huy động từ tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm. Phân loại giấy tờ có giá Căn cứ vào thời hạn GTCG ngắn hạn thời hạn dưới 1 năm: kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn….. GTCG dài hạn: từ 1 năm trở lên: trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn Căn cứ vào hình thức phát hành Giấy tờ có giá ghi danh: là giấy tờ có giá có xác định cụ thể tên của người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh: là giấy tờ có giá không xác định cụ thể tên người sở hữu Thanh toán Thanh toán vốn gốc: tổ chức tín dụng (đơn vị phát hành) sẽ hoàn trả vốn gốc cho người sở hữu vào thời điểm đến hạn của GTCG. Thanh toán lãi: tổ chức tín dụng trả lãi cho người sở hữu theo các phương thức sau: trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi định kỳ. III Thực trạng huy động vốn của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam Thực trạng huy động vốn của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam: Bằng các hình thức huy động vốn của mình, các ngân hàng thương mại nước ta đã huy động được một số lượng vốn lớn để đáp ứng cho các nhu cầu hoạt động kinh doanh của mình. Dưới đây là một số những kết quả huy động vốn của các ngân hàng thương mại trong giai đoạn từ 2008 đến những tháng đầu năm 2011. Tốc độ huy động vốn tại các tổ chức tín dụng trong nước đang trong đà suy giảm, trong đó, huy động tiền đồng bị suy giảm mạnh hơn cả. Nguồn: IMF, NHNN và tính toán của người viết Tốc độ huy động vốn tại các tổ chức tín dụng (TCTD) trong nước đang trong đà suy giảm. Nếu tính so với cuối năm 2010 thì tăng trưởng tổng huy động vốn từ tháng 1 đến tháng 4.2011 lần lượt là -2,46%; 1,9%; 1,56% và 0,46%. Huy động tiền đồng bị suy giảm mạnh hơn cả. Tính đến ngày 21.4.2011, tiền gửi VND tại các TCTD giảm 1,09% so với tháng trước, trong đó, tiền gửi VND giảm 1,84%, còn tiền gửi ngoại tệ tăng 1,46%. Diễn biến này có thể coi là bất thường, bởi trong những năm gần đây, kể cả năm 2008 khi tiền tệ thắt chặt, huy động vốn thường có xu hướng tăng dần trong các tháng đầu năm. Đối với VND, thị trường kỳ vọng rằng với việc các tổ chức và cá nhân bán mạnh ngoại tệ ra thị trường trong thời gian vừa qua, thì lượng tiền gửi VND phải tăng lên thay vì giảm đi. Tính đến 20/6/2011, tổng số dư tiền gửi khách hàng tại các tổ chức tín dụng ước tăng 1,04% cuối tháng 5 và tăng 2,88% so với cuối năm 2010. Trong đó, huy động VND tăng tương ứng là 2,32% và 1,42%; huy động vốn bằng ngoại tệ giảm 3,62% so với cuối tháng trước và tăng 8,94% so với cuối năm 2010. Huy động vốn bằng ngoại tệ giảm mạnh là do chính sách áp trần và siết trần lãi suất huy động USD đối với tiền gửi dân cư. Mức giảm này phản ánh mức lãi suất huy động tối đa 2%/năm đối với USD kém hấp dẫn người gửi tiền, cũng như phản ánh xu hướng chuyển đổi vốn từ USD sang VND với chênh lệch lãi suất rất lớn. Huy động vốn chủ yếu tập trung ở kỳ hạn ngắn, lãi suất huy động VND tăng mạnh so với đầu năm 2011. Một mặt là do cạnh tranh huy động giữa các ngân hàng khá gay gắt, đặc biệt là ở các ngân hàng nhỏ. Mặt khác là do tốc độ tăng trưởng huy động vốn không theo kịp tốc độ tăng tín dụng. Nửa cuối năm 2011, lãi suất khó giảm mạnh, theo đó, nợ xấu tại các Ngân hàng sẽ gia tăng. Những năm trước huy động của toàn ngành NH là 35%/năm (tương đương 2,5%/tháng). 5 tháng đầu năm 2011, huy động toàn ngành chỉ tăng được có 1,5% so với cuối năm.Mặc dù đã tăng lãi suất lên khá cao nhưng nhiều ngân hàng cho biết huy động vốn vẫn tăng rất thấp. Tại vài ngân hàng, mặc dù có sự chuyển dịch từ gửi ngoại tệ sang gửi tiền đồng do lãi suất đô la Mỹ giảm mạnh, nhưng tính chung huy động vốn của các ngân hàng tăng không đáng kể. Giám đốc phòng giao dịch của một ngân hàng quốc doanh cho biết huy động của cả chi nhánh mà phòng giao dịch này trực thuộc tiếp tục khó khăn, nguồn vốn huy động của chi nhánh đã giảm tới 300 tỉ đồng trong hai tháng qua. Cả huy động bằng tiền đồng lẫn đô la Mỹ đều giảm, vị này cho biết.Trong khi đó, tổng giám đốc một ngân hàng cổ phần nói rằng nhiều khách hàng đến ngân hàng ông đòi lãi suất huy động phải lên đến 20%/năm nhưng ngân hàng không dám vì nếu đưa cao quá trong khi không ai vay thì ngân hàng cũng lỗ. Hiện nay mức lãi suất cao nhất mà ngân hàng này đang chào với khách hàng là 18% nhưng huy động vẫn tăng không bao nhiêu. Ông Phạm Duy Hưng, Tổng giám đốc Ngân hàng Việt Á, cho biết thời điểm này huy động của ngân hàng ông giảm nhẹ so với đầu năm. Huy động tiền đồng không tăng nổi mặc dù ngân hàng có đưa ra các chương trình khuyến mãi cũng như mua vàng giá cao của người gửi tiền tiết kiệm, trong khi đó huy động ngoại tệ chỉ tăng nhẹ.Nói về vấn đề huy động vốn thời gian tới, ông Trịnh Văn Tuấn, Tổng giám đốc Ngân hàng Phương Đông, cho biết từ nay đến cuối năm huy động vốn vẫn là vấn đề khó khăn. Ông cho biết thông thường những năm trước huy động của toàn ngành ngân hàng là 35%/năm tức một tháng phải tăng thấp nhất là 2,5%. Tuy nhiên, 5 tháng đầu năm huy động toàn ngành chỉ tăng được có 1,5% so với cuối năm cho thấy việc huy động vốn của ngân hàng thực sự khó. Theo công bố gần đây của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu, tính đến 23-5, huy động vốn của toàn ngành tăng 1,48% so cuối năm 2010, trong đó huy đông vốn bằng tiền đồng giảm 2,75% trong khi huy động ngoại tệ tăng 18,84% (chưa tính việc tăng tỷ giá vào tháng 2).Ngân hàng Nhà nước cũng cho biết việc huy động vốn của toàn ngành chững lại chủ yếu là vì các tổ chức kinh tế rút vốn gửi từ ngân hàng ra phục vụ việc kinh doanh do lãi suất cho vay hiện quá cao, trong khi đó huy động vốn từ dân cư vẫn tăng tốt. Trong năm 2010 một năm với nhiều biến động của ngành ngân hàng, nhiều giải pháp cấp bách triển khai kịp thời và đồng bộ các văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả, góp phần ổn định giá cả và kinh tế vĩ mô…Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tháng 1/2010, tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng ước tăng 0,3% so với tháng trước. Các ngân hàng cho biết, thông thường, dịp sau Tết Nguyên đán, nhu cầu vốn của DN sẽ giảm lại và khả năng năm nay giảm mạnh hơn so với cùng kỳ. Nguyên nhân do chính sách hỗ trợ lãi suất ngắn hạn bằng VND đã hết, đồng thời chủ trương kiểm soát tăng trưởng tín dụng của NHNN thấp hơn năm trước.Song điều quan trọng hơn chính là nguồn vốn huy động về không còn dồi dào như đầu năm 2009 và tiền gửi chủ yếu ở kỳ hạn ngắn ngày.Trong Quý 3, tỷ trọng chính trong tổng huy động vốn vẫn là huy động vốn ngắn hạn chiếm hơn 80%, trong đó, tiền gửi có kỳ hạn tập trung chủ yếu ở dải kỳ hạn dưới 6 tháng.Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay VND của các tổ chức tín dụng có xu hướng giảm. Thực tế, vào cuối tháng 9/2010, hầu hết các ngân hàng đẩy mạnh khuyến mãi, sau khi đã để mức lãi suất đồng thuận cao nhất lên tới 11,2%/năm đối với tiền gửi VND, áp dụng cho hầu hết các kỳ hạn. Một số nơi còn đưa ra những thỏa thuận “ngầm” với khách hàng, lãi suất thực có thể lên tới 12 - 12,5%/năm, cao hơn so với mức đồng thuận. Trong năm tổng nguồn vốn huy động đạt 11.358 tỷ đồng, tăng 60% so với cuối năm trước. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư tăng mạnh, chiếm 53,8% trong tổng huy động, tiền gửi của tổ chức kinh tế chiếm 46,2% trên tổng nguồn vốn huy động. Không chỉ khối ngân hàng cổ phần mà ngân hàng thương mại nhà nước cũng tăng khá mạnh. Điển hình là Vietinbank, VCB, BIDV, MHB, SHB… với mức tăng từ 33% đến 72%. Cá biệt có ngân hàng cổ phần gấp trên 3 lần như: Á Châu, An Bình, Dầu khí Toàn Cầu, Sacombank.  Khó khăn huy động vốn của các quỹ tín dụng nhân dân như những năm trước không còn, mức tăng không lớn nhưng cũng đạt mức 28,6%. Điều đó chứng tỏ năm qua, nhờ áp dụng linh hoạt các chính sách thu hút tiền gửi từ dân cư nên có mức huy động tăng đột biến. Mạng lưới hoạt động của các tổ chức tín dụng được mở rộng, công tác huy động được thuận lợi hơn.  Từ hậu quả của khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu, có lẽ chưa bao giờ hệ thống Ngân hàng Việt Nam phải cùng lúc đứng trước nhiều thách thức như năm 2009. Cụ thể trong tháng 1/2009, theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, huy động vốn VND của hệ thống đã sụt giảm. Tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đến cuối tháng 1/2009 ước chỉ tăng 0,18% so với tháng 12/2008; trong đó, số dư tiền gửi VND đã giảm 0,47%, số dư tiền gửi ngoại tệ tăng 2,3%. Tăng trưởng tiền gửi ở mức 27% trong năm 2009 không theo kịp tăng trưởng tín dụng. Vốn huy động và dư nợ cho vay luôn có tác động tương hỗ với nhau. Khi một khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng sẽ sử dụng một phần để dự trữ, một phần để cho vay ra nền kinh tế. Lượng tiền cho vay ra sớm muộn sẽ quay trở lại vào hệ thống ngân hàng dưới hình thức tiền gửi của một khách hàng khác.Nếu nền kinh tế hoạt động hiệu quả, tốc độ quay vòng của dòng tiền nhanh. Hệ số nhân tiền tăng sẽ làm gia tăng lượng tiền gửi của hệ thống ngân hàng. Khi tín dụng bị thắt chặt, ngân hàng thương mại (NHTM) hạn chế cho vay. Dòng tiền sẽ ra khỏi ngân hàng chậm hơn khiến cho hệ số nhân tiền giảm và làm giảm dòng tiền trở lại ngân hàng. Thực tế của Việt Nam trong những năm qua đã minh hoạ cho mối quan hệ này. Khi tín dụng tăng thì huy động cũng tăng và ngược lại. Trong giai đoạn từ tháng 3.2008, khi ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt bằng việc phát hành trái phiếu chính phủ bắt buộc thì tốc độ tăng trưởng tín dụng và huy động đều giảm dần. Vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế của toàn hệ thống ngân hàng đã tăng trong suốt các tháng, điển hình là tăng 4,3% trong quý 1, 2,7% trong quý 2, 5,57% trong quý 3 và 7,9% trong quý 4/2008. So sánh với 3 quý đầu năm 2008, lãi suất huy động của các ngân hàng bắt đầu được điều chỉnh giảm từ quý 4/2008, nhưng vốn huy động từ dân cư lại tăng mạnh. Điều này cho thấy trong khi thị trường chứng khoán bị điều chỉnh giảm mạnh, thị trường bất động sản trầm lắng, thị trường ngoại hối (vàng và USD) tiềm ẩn nhiều rủi ro, gửi tiền vào ngân hàng là một lựa chọn an toàn của các nhà đầu tư. Đây là dấu hiệu tốt cho hoạt động ngân hàng nhưng vấn đề đặt ra đối với các ngân hàng là việc sử dụng nguồn vốn hiệu quả, không những mang lại nguồn thu cho ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong quý 4/2008, tốc độ tăng trưởng huy động vốn cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng. Điều này có thể thể hiện phần nào những dấu hiệu có những ngân hàng dư thừa vốn khả dụng. Thông qua tình hình những năm trước đây ta có thể thấy tín dụng tăng trưởng phụ thuộc nhìu vào chính sách hành chính của nhà nước và năm 2011 cũng ko phải là ngoại lệ, ngày 1.3.2011 với mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định vĩ mô NHNN đã ban hành chỉ thị 01/2011 buộc tốc độ tăng trưởng tín dụng đang được yêu cầu phải giảm dần sao cho tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng trong năm 2011 xuống dưới 20%. Vì thế, tốc độ tăng trưởng tín dụng trong bốn tháng đầu năm 2011 đạt 5,01% so với cuối năm 2010, thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng của cùng kỳ năm ngoái là 5,58%. Với việc NHNN tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt như hiện nay thì tốc độ tăng trưởng huy động vốn của hệ thống ngân hàng sẽ còn chậm lại. 2 Nguyên nhân của việc huy động vốn giảm: 2.1 Nguyên nhân từ kinh tế toàn cầu: Lớn nhất là khủng hoảng tín dụng Mỹ năm 2007, kéo theo sự sụp đổ của đế chế Lehman Brothers, cùng khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009. Bước sang năm 2010, tuy ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế đã tạm lắng nhưng vẫn còn tiểm ẩn nhiều biến động, điển hình là khủng hoảng nợ công của Hi Lạp, các nước Châu Âu như Tây Ban Nha, Ý và Bồ Đào Nha cũng đang đứng trước nguy cơ tương tự và bong bóng tài sản ở Trung Quốc.         Việt Nam thuộc nhóm các nước đang phát triển, mặc dù không bị ảnh hưởng trực tiếp từ sự sụp đổ của hệ thống tài chính thế giới, nhưng với việc gia nhập WTO, trở thành một phần không thể tách rời của kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn phải chịu những hậu quả gián tiếp nặng nề từ suy thoái kinh tế. Mọi biến động của nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây có mối tương quan chặt chẽ với biến động kinh tế thế giới. Đặt biệt là thị trường ngân hàng ngày càng khó khăn trong việc huy động vốn. Vì người dân cảm thấy bất an nền kinh tế thế giới cũng như Việt Nam, họ chưa muốn đưa ra quyết định đầu tư vào lĩnh vực nào, họ đang chờ đợi một cái gì đó chắc chắn hơn ở nền kinh tế. 2.2 Lạm phát trong nước ở mức cao: Lạm phát cao, lãi suất không đủ bù đắp trượt giá Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn biến của thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý, luôn là bài toán khó đối với mỗi ngân hàng. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong đợi tại hầu hết các ngân hàng (17% – 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống NHTM Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp cũng như người dân giao dịch hàng hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, đặc biệt trong điều kiện lạm phát, nhưng lại khan hiếm tiền mặt.. Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Sự không ổn định của giá cả, bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài chính – tín dụng Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Sự không ổn định của giá cả, bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài chính – tín dụng. 2.3 Trần lãi suất tiền gửi ngăn cản dòng tiền vào Với mức lạm phát tính so với cùng kỳ lên đến 17,51% vào tháng 4.2011 thì trần lãi suất tiền gửi 14% đã khiến cho lãi suất thực của nền kinh tế bị âm. Người dân sẽ có thiên hướng giữ tiền mặt ngoài hệ thống ngân hàng để tìm các kênh bảo tồn vốn khác tốt hơn. Điều này có nghĩa rằng, sau khi được cho vay ra dòng tiền sẽ lòng vòng ở bên ngoài lâu hơn, trước khi quay trở lại hệ thống ngân hàng. Báo cáo của NHNN cho thấy tỷ lệ tiền ngoài hệ thống trong tháng 4 đã tăng 1,45% so với tháng trước và so với cuối năm trước tăng 4,12%. Mặc dù so với các năm trước, các mức tăng này không phải là bất thường. Tuy nhiên, nếu xét về xu hướng khi so với tổng cung tiền thì đây lại là điều đáng ngại. Số liệu của IMF và NHNN cho thấy xu hướng giảm của tỷ lệ tiền ngoài hệ thống so với tổng cung tiền (M2) đã có dấu hiệu bị chững lại kể từ giữa năm 2010. Lượng tiền mặt bơm ra để giải quyết thanh khoản vào cuối năm đã không quay trở lại hệ thống ngân hàng sau đó. Tiền mặt ngoài hệ thống tăng là dấu hiệu cho thấy tín dụng đen có xu hướng nở rộ. Theo báo Đời sống & Pháp luật ngày 24.3.2011, mức lãi suất huy động trên thị trường tín dụng đen cao hơn rất nhiều so với lãi suất ngân hàng, và hiển nhiên, mức lãi suất cho vay ra cũng phải rất cao. Tuy nhiên, nhu cầu vay vẫn rất lớn bởi các doanh nghiệp, đặc biệt là bất động sản, khi đã triển khai dự án thì khó có thể dừng lại được. Trong khi những doanh nghiệp này không thể vay được ngân hàng thì họ phải tìm đến một kênh tín dụng khác là tín dụng đen. Có cầu ắt sẽ có cung. Với mức lãi suất huy động cao, nhiều người gửi tiền bất chấp rủi ro đã rút tiền khỏi ngân hàng để tham gia vào hoạt động tín dụng đen. 2.4 Lượng tiền gửi ủy thác từ các ngân hàng thương mại khác giảm Một nguyên nhân nữa khiến tốc độ tăng trưởng huy động giảm có thể xuất phát từ hoạt động rút vốn uỷ thác gửi qua các công ty con của các NHTM. Trong tính toán tiền gửi huy động của hệ thống ngân hàng thì lượng tiền huy động trên thị trường liên ngân hàng sẽ không được bao gồm. Nhưng nếu NHTM thông qua các công ty con của mình gửi tiền vào NHTM khác thì lượng tiền này lại được tính vào tiền gửi huy động, vì các NHTM không thể phân biệt được tiền gửi từ công ty con này là tiền gửi huy động từ tổ chức kinh tế hay từ NHTM khác. Theo VnEconomy ngày 1.4.2011, trong bài Rùa tai đỏ trong lòng ngân hàng, trước đây khi lãi suất trên thị trường 2 (thị trường liên ngân hàng) thấp hơn lãi suất huy động tiền gửi trên thị trường 1 (thị trường huy động dân cư và các tổ chức kinh tế), nhiều ngân hàng thay vì cho vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất thấp, đã thông qua các công ty con của mình, gửi tiền vào ngân hàng khác lấy chênh lệch. Như vậy, có thể tại một số thời điểm lãi suất trên thị trường 2 thấp hơn lãi suất trên thị trường 1 như vào cuối tháng 12.2010 và cuối tháng 1.2011, nhiều ngân hàng đã thực hiện hoạt động uỷ thác. Sang tháng 3 và tháng 4.2011, khi NHNN bắt đầu nâng dần lãi suất cho vay tái cấp vốn, tái chiết khấu, lãi suất cho vay trên thị trường mở thì lãi suất trên thị trường 2 tăng lên cao hơn nhiều so với lãi suất trên thị trường 1. Các NHTM sẽ rút các khoản tiền gửi uỷ thác trước đây thông qua các công ty con khiến tiền gửi huy động của hệ thống ngân hàng sụt giảm. 2.5 Cạnh tranh giữa các ngân hàng - Đầu tiên là sự cạnh tranh các ngân hàng trong nước và các ngân hàng nước ngoài. Càng ngày càng có nhiều ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam. Lợi thế của họ là có nhiều vốn, có tiềm lực tài chính và quản lý. HSBC là ngân hàng nước ngoài tích cực nhất hiện nay. HSBC vừa được Ngân hàng Nhà nước chính thức cho phép thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Việc thành lập ngân hàng con sẽ cho phép HSBC mở rộng mạng lưới phân phối rộng hơn, tới các khách hàng hiện tại cũng như khách hàng mới. HSBC trở thành ngân hàng nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam sở hữu 20% cổ phần tại một ngân hàng trong nước sau khi nâng cổ phần sở hữu tại Techcombank từ 14,4% lên 20%. Điều này cho phép HSBC mở rộng sức ảnh hưởng và gia tăng tầm hoạt động của mình. Sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng đối với các ngân hàng nội. -Cạnh tranh với ngân hàng trong nước: Điều này là hiển nhiên nhưng có xu thế mới đó là việc hợp tác của các ngân hàng nội. Việc rõ ràng nhất là “liên minh ATM”. Cầm thẻ ATM của ngân hàng Techcombank nhưng khi đến trạm rút tiền của ngân hàng Vietcombank bạn vẫn có thể rút tiền được. Điều này làm gia tăng tầm hoạt động, khả năng cạnh tranh, sức thu hút khách hàng hơn là những ngân hàng không nằm trong liên minh. Nhưng sự cạnh tranh dù là giữa nội – ngoại hay nội – nội vẫn là cần thiết. Vì như thế các ngân hàng sẽ không ngừng cải thiện, không ngừng gia tăng chất lượng dịch vụ, luôn luôn sáng tạo để làm thỏa mãn những đòi hỏi của đất nước, của người dân và các doanh nghiệp. 2.6 Cạnh tranh với thị trường chứng khoán, thị trường vàng, và bất động sản: - Càng ngày chứng khoán càng trở nên lộ diện là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng về mặt huy động vốn trong dân. Trước kia chưa có chứng khoán thì người dân sẽ gửi tiền nhàn rỗi của mình vào các ngân hàng nhằm kiếm các khoản lợi tức. Nhưng nay, chứng khoán đã làm giảm lượng huy động vốn nhàn rỗi của các ngân hàng. Những người dân có tiền nhàn rỗi họ sẵn sàng lao vào đầu tư chứng khoán với hi vọng kiếm lời cao hơn là gửi tiền vào ngân hàng (tuy có rủi ro cao hơn). Bên cạnh đó, các doanh ngiệp ngoài kênh huy động vốn là vay mượn các ngân hàng họ còn có cách là phát hành cổ phiếu ra thị trường. Đấy cũng là một cách tốt để huy động vốn. Nhưng gần đây thì chứng khoán đang ở đáy, đây là thời điểm thị trường chứng khoán (TTCK) xấu nhất trong 11 năm qua, nguyên nhân là do những gì không ổn định tại TTCK Mỹ đều ảnh hưởng đến TTCK Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử, Mỹ bị hãng xếp hạng Standard & Poors hạ định mức tín nhiệm. Sự kiện này chấn động giới tài chính toàn cầu, không riêng gì với Việt Nam. Do lạm phát hiện đã ở mức cao nên chính sách tiền tệ từ nay đến cuối năm vẫn theo hướng thắt chặt, vì vậy, dòng tiền trong nước vẫn hạn chế. TTCK Mỹ và châu Âu có thể sẽ có điều chỉnh và đi ngang trong thời gian tới, và các NĐT quốc tế sẽ cân nhắc chuyển vốn sang các nước đang phát triển. TTCK Việt Nam có lợi thế là đang ở mức định giá rất thấp, nhưng NĐT nước ngoài vẫn còn quan ngại đến những bất ổn vĩ mô và tính minh bạch của thị trường Việt Nam nên cơ hội phục hồi của TTCK lại càng khó hơn. Bên cạnh đó sự bất ổn của thị trường tài chính quốc tế đẩy giá vàng thế giới liên tục xô đổ mọi kỷ lục về giá, kéo thị trường vàng trong nước sôi sục theo. Cũng bởi do lạm phát tăng quá cao nên người dân mất lòng tin vào đồng Việt Nam, không muốn nắm giữ đồng tiền Việt nữa mà chuyển sang một kênh trú ẩn an toàn là găm giữ vàng, làm cho giá vàng trong nước có sự chênh lệch quá lớn so với giá vàng thế giới. Và trong tới đây đầu tư vàng có còn là mối lo ngại lớn với các ngân hàng hay không? Câu trả lời là đầu tư vàng khó có khả năg sinh lời. Vì vàng cũng đang là kênh đầu tư khiến nhiều người phân vân. Tuy nhiên, thời điểm này giá vàng vật chất đang cao nên theo các chuyên gia, không nên đầu tư vào vàng. Bất động sản: Từ đầu năm đến nay, cùng với việc thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, thị trường bất động sản cũng kém sôi động so với năm trước. Tại Hà Nội và TP.HCM, giá bất động sản đã giảm tới 30 - 40%, điều chưa từng có trong lịch sử. Việc giá bất động sản đang ngày càng tiệm cận giá trị thực là do nguồn cung bất động sản ngày càng dồi dào, các thủ tục giao dịch bất động sản ngày càng hoàn thiện theo hướng minh bạch hóa và các kênh phân phối bất động sản ngày càng chuyên nghiệp. Người mua vẫn kỳ vọng vào lợi nhuận của bất động sản do nhu cầu nhà ở của người dân tăng cao. Đặc biệt đối với phân khúc nhà ở giá rẻ và trung bình, thị trường vẫn còn khá nhiều khoảng trống. Nếu biết lựa chọn thận trọng, đây vẫn là kênh đầu tư triển vọng. Đầu tư vào bất động sản vẫn là kênh nhìn thấy lợi nhuận khả quan. Tuy nhiên, nếu tham gia đầu tư bất động sản thời điểm này, nhà đầu tư phải rất cẩn trọng, cân nhắc kỹ, bởi bất động sản không dễ thanh khoản, mà là kênh đầu tư dài hạn. Có thể nói, bất động sản vẫn là kênh đầu tư kỳ vọng mang lại lợi nhuận cao cho nhà đầu tư. Thắng lợi sẽ đến với nhà đầu tư nắm bắt được sự hồi sinh của thị trường. Như vậy, kênh đầu tư bất động sản là mối đe dọa lớn nhất cho ngân hàng. Vì vậy các nhà quản trị ngân hàng nên có những giải pháp tối ưu để nâng cao huy động cho ngân hàng. Một số thành tựu trong huy động vốn của các ngân hàng thương mại sau khủng hoảng : Nhìn chung huy động vốn của các ngân hàng thương mại bị sụt giảm và gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên chúng ta không thể nói rằng việc huy động vốn của các ngân hàng yếu kém bởi như phân tích ở trên có tất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại trong đó nguyên nhân chủ yếu là do khách quan của nền kinh tế. trong giai đoạn khủng hoảng việc huy động vốn không hề dễ dàng đối với các ngân hàng tuy nhiên theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đến cuối tháng 12/2010 ước tăng 1,83% so với cuối tháng 11/2010 và tăng 27,2% so với cuối năm 2009.Tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng ước tăng 2,28% so với cuối tháng 11/2010 và tăng 29,81% so với cuối năm 2009. Trong khi đó, tổng phương tiện thanh toán cũng ước tăng 1,87% so với cuối tháng 11/2010 và tăng 25,3% so với cuối năm 2009; trong đó, tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng tăng 2,14% và 15,01%. Cả 2 chỉ tiêu này đều vượt mục tiêu tăng trưởng 20-25% được Chính phủ đề ra hồi đầu năm. Cùng với con số lợi nhuận, kết quả kinh doanh được các NHTM công bố cũng cho thấy sẽ tăng trưởng mạnh về tổng tài sản và đặc biệt về nguồn vốn huy động so với mục tiêu chung của cả năm.Điển hình là sau 7 tháng đầu năm 2010, tổng tài sản của HDBank được nâng lên con số 23.903 tỉ đồng, đạt 95,61% kế hoạch cả năm và tăng gần 73,7% so với cùng kỳ 2009. Trong số này, HDBank bội thu về huy động vốn với 21.583 tỉ đồng, vượt 2,8% kế hoạch năm và tăng 81,97% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó tổng dư nợ tín dụng của NH này dù đạt tới 71,2% kế hoạch năm và tăng khoảng 11,4% so với cùng thời điểm năm 2009 chỉ dừng lại ở con số 7.474 tỉ đồng. Bên cạnh các chỉ tiêu này, lãnh đạo HDBank khẳng định hầu hết các chỉ tiêu hoạt động khác của NH đều đạt và dự kiến sẽ vượt kế hoạch năm 2010. Đạt 65% chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh cả năm, tổng tài sản của SCB đến cuối tháng 7 được tăng thêm 17,11% so với cùng kỳ 2009 lên 52.470 tỉ đồng với tổng vốn huy động từ khách hàng đạt 44.775 tỉ đồng. Đặc biệt với chỉ tiêu lợi nhuận này, SCB hiện đã hoàn thành tới 88% kế hoạch huy động vốn cho cả năm.  Tương tự như HDBank, một diễn biến đáng lưu ý có thể dễ dàng nhận thấy, tổng vốn huy động của nhiều NHTM hiện vượt rất nhiều tổng dư nợ đầu tư cho nền kinh tế của mỗi ngân hàng. Oceanbank kết thúc tháng 7/2010 với tổng vốn huy động đạt hơn 38.725 tỉ đồng trong lúc tổng dư nợ đầu tư cho nền kinh tế mới dừng ở 12.519 tỉ đồng. Còn tại LienVietbank, với tổng dư nợ ở mức khiêm tốn, nguồn vốn huy động 20.000 tỉ đồng trong 7 tháng đầu năm 2010 sẽ là nguồn vốn dự phòng dồi dào cho nhu cầu tăng trưởng tín dụng cuối năm. Với diễn biến này, 5 tháng cuối năm có thể sẽ là giai đoạn tăng trưởng mạnh tín dụng VND với nguồn vốn huy động dồi dào được các NHTM chuẩn bị sẵn từ đầu năm. IV Giải pháp huy động vốn trong giai đoạn hiện nay: Chính sách marketing Tại mỗi chi nhánh, các ngân hàng cần tổ chức bộ phận chăm sóc khách hàng một cách chuyên nghiệp, luôn tạo cho khách hàng cảm giác được tôn trọng mỗi khi đến ngân hàng. Nên tuyển những nhân viên có ngoại hình dễ nhìn, giọng nói dễ nghe, được đào tạo một cách bài bản về nghiệp vụ ngân hàng. Xây dựng chiến lược marketing phù hợp nhằm tuyên truyền, quảng cáo một cách có hiệu quả. Chẳng hạn có thể quảng cáo qua tivi. Tuy nhiên, việc này tốn chi phí khá lớn, vì vậy nên nghĩ ra những mẫu quảng cáo có ý nghĩ mang tính sáng tạo, cô đọng xúc tích, gây ấn tượng mạnh với người xem. Từ đó xây dựng được hình ảnh tốt và tạo sự tin tưởng về ngân hàng đối với khách hàng. Mở rộng dịch vụ đến nhiều loại hình khách hàng khác nhau. Có những chính sách ưu đãi để giữ chân những khách hàng cũ động thời đẩy mạnh tìm kiếm khách hàng mới thông qua tiếp thị,quảng cáo.Ví dụ để huy động tiền gửi thanh toán từ khách hàng sinh viên ngân hàng nên đến các trường đại học cao đẳng làm thẻ ATM lấy liền, đồng thời mở các phòng giao dich nhỏ ở các tỉnh xa thành phố tạo điều kiện cho việc gửi tiền của khách hàng dễ dàng hơn. Chính sách cạnh tranh huy động vốn năng động và hiệu quả Tổ chức nghiên cứu về các đối thủ cạnh trạnh. Như vậy có thể tránh được sai lầm khuyết điểm của họ và có thể bắt chước các sản phẩm huy động vốn có hiệu quả. Từ đó, cải tiến để biến sản phẩm đó thành của mình. Chẳng hạn như hiện nay các sản phẩm online đã xuất hiện ở một số ngân hàng. Chúng ta nên cải tiến hơn nữa tạo ra nhiều tiện ích phục vụ nhu cầu khách hàng. Tạo lòng tin đối với khách hàng. Trước hết là về quy mô của hội sở và các chi nhánh, nên xây dựng khang trang và bắt mắt. Biểu tượng và slogan của ngân hàng cũng rất quan trọng. Tạo được sự khác biệt của ngân hàng mình so với các ngân hàng khác. Chẳng hạn có thể tạo ra nhiều sản phẩm online mới lạ, có những sản phẩm mới như tiền gửi tiết kiệm thông minh. Ngân hàng SeABank đã có sản phẩm Tài khoản tiết kiệm thông minh-SeASave Smart. Có thể giao dịch tại bất cứ đâu, rút bất cứ khi nào với lãi suất không thay đổi. Chuyển tiền miễn phí, không giới hạn số tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán sang tài khoản SeASave Smart và ngược lại. Chính sách khách hàng Cần phải có những chính sách khách hàng rõ ràng cụ thể để áp dụng cho từng phân khúc thị trường Khách hàng tiềm năng là những khách hàng chưa có tài khoản tiền gửi nhưng khi ngân hàng tiếp thị và quan hệ thì đây sẽ là những khách hàng mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng được phục vụ theo chính sách khách hàng chiến lược. Đối với khách hàng này, khi tiếp thị nên tạo được lòng tin, làm cho họ tin tưởng vào hình ảnh và khả năng tài chính của ngân hàng. Tuy nhiên, điều mà khách hàng quan tâm nhất đó chính là khi sử dụng các sản phẩm của ngân hàng thì họ sẽ có được những lợi ích, tiện ích cụ thể nào. Các ngân hàng nên chú trọng giải thích rõ về điều này. Khách hàng hiện hữu chia làm 3 loại: Khách hàng có số dư tiền gửi lớn đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng sẽ được hưởng chính sách khách hàng VIP. Đối với khách hàng này nên phục vụ nhanh nhất với giá thấp nhất và hưởng các ưu đãi dịch vụ khác nhiều nhất. Như vậy mới giữ chân được họ về lau dài. Khách hàng có số dư tiền gửi trung bình và có khả năng tiếp tục tăng số dư tiền gửi sẽ được phục vụ theo chính sách khách hàng ưu đãi về lãi suất tiền gửi, giảm phí dịch vụ chuyển tiền…. Khách hàng đang có dấu hiệu tài chính yếu kém, sản xuất kinh doanh không phát triển, ngân hàng nên bỏ qua không chăm sóc. Tiếp tục đầu tư và hoàn thiện hiện đại hóa công nghệ ngân hàng một cách đồng bộ Lựa chọn đúng công nghệ để ứng dụng trong hoạt động quản lý, hoạt động kinh doanh ngân hàng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của các hoạt động dịch vụ, tăng cường quy mô vốn huy động một cách vững chắc, quyết định hiệu quả vốn đầu tư. Tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược để được cung cấp hoặc mua bản quyền công nghệ nghệ cho phép ứng dụng các công nghệ hiện đại có nhiều tiện ích trong lĩnh vực thanh toán, nhận và chuyển tiền…

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxGiải pháp gia tăng huy động vốn của nhtm trong điều kiện khủng hoảng kinh tế hiện nay.docx
Luận văn liên quan