Đề tài Giải pháp tăng cường tài trợ Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Bình Tân

CHƯƠNG 1: CÁC HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NHTM. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÀI TRỢ DNVVN TẠI CHI NHÁNH NHCT BÌNH TÂN. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TÀI TRỢ DNVVN TẠI CHI NHÁNH NHCT BÌNH TÂN. CHƯƠNG 1 CÁC HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NHTM 1.1 Khái niệm: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng có vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường ở các nước. Có nhiều khái niệm khác nhau về NHTM: Ở Mỹ, NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Ở Pháp, NHTM là những doanh nghiệp mà hoạt động thường xuyên là nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền để dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. Ở Ấn Độ, NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư. Theo Pháp lệnh ngân hàng Việt Nam, NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Ở Việt Nam, theo Luật các Tổ chức tín dụng đã sửa đổi: “ Ngân hàng là tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác có liên quan Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gởi, sử dụng số tiền này để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán ” Như vậy, chúng ta có thể đưa ra khái niệm chung nhất về NHTM: 2 NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt chuyên kinh doanh về tiền tệ với hoạt động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cung cấp các dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan. 1.2 Các hoạt động chủ yếu của NHTM: 1.2.1 Huy động vốn : Nghiệp vụ huy động vốn là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với bản thân ngân hàng cũng như đối với xã hội. Trong nghiệp vụ này, NHTM được sử dụng những biện pháp và công cụ cần thiết mà luật pháp cho phép để huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội, làm nguồn vốn tín dụng để cho vay đối với nền kinh tế. Kết qủa của nghiệp vụ này là tạo ra nguồn vốn đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế. Trong tổng nguồn vốn, vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu của NHTM, thực chất là tài sản bằng tiền của các sở hữu chủ mà ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng nhưng với nghĩa vụ hoàn trả kịp thời, đầy đủ khi khách hàng yêu cầu. Nguồn vốn huy động gồm có: - Tiền gửi không kỳ hạn của đơn vị, cá nhân. - Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. - Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. - Tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. - Các khoản tiền gửi khác. 1.2.2 Cấp tín dụng và đầu tư : Nghiệp vụ cho vay và đầu tư là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất, quyết định đến khả năng tồn tại và hoạt động của NHTM. Đây là các nghiệp vụ cấu thành bộ phận chủ yếu và quan trọng của tài sản có của ngân hàng.

pdf70 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2296 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp tăng cường tài trợ Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Bình Tân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tạo ra cho các TCTD trên địa bàn thành phố gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình đăng ký giao dịch bảo đảm. - Về thực hiện công chứng, chứng thực : Hiện nay tại TPHCM có nhiều loại giấy tờ khác nhau về hình thức chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, đất ở. Rất nhiều nhà, đất của khách hàng chưa được chuyển đổi theo mẫu thống nhất - Giấy Hồng “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất” nên khách hàng không thể công chứng, chứng thực hợp đồng bảo đảm bằng tài sản gắn liền với đất hoặc bằng quyền sử dụng đất tại các phòng công chứng. Các quy định về công chứng, chứng thực cũng còn bất cập. Điều này làm cho khách hàng, nhất là DNVVN vốn đã có ít tài sản để làm tài sản đảm bảo khoản vay lại càng không có tài sản để thế chấp ngân hàng. - Quy định của nhà nước về cấp giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất chưa chặt chẽ: Ở nhiều địa phương, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tồn tại dưới cả 3 hình thức bìa đỏ, bìa hồng và bìa xanh; Nhà nước chỉ khuyến khích chứ không bắt buộc đổi giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu mới. Điều này gây khó khăn cho ngân hàng trong kiểm soát và thẩm định tính pháp lý của hồ sơ tài sản bảo đảm. Ngoài ra, tại một số địa phương, thủ tục hành chính về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chuyển đổi mục đích sử dụng đất cho các doanh nghiệp nói chung còn chậm gây khó khăn cho việc hoàn thiện hồ sơ tài sản bảo đảm. Điều này đã góp phần hạn chế nguồn vốn đầu tư vốn đã hạn hẹp của doanh nghiệp. 43 - Thông tin về tài chính doanh nghiệp và TDNH do Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) cung cấp chưa cập nhật, khối lượng thông tin chưa đầy đủ, nhất là khi nhiều TCTD chưa chấp hành tốt khâu báo cáo rủi ro. Hoạt động của trung tâm còn khá thụ động, cho nên vẫn chưa đáp ứng tốt những nhu cầu thông tin của các bên để đánh giá, thẩm định khoản vay và kiểm soát chất lượng tín dụng còn hạn chế. - Việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng được Chính phủ ban hành cách nay 6 năm theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN để bảo lãnh cho các DNVVN khi không đủ tài sản thế chấp, cầm cố, vay vốn của các TCTD hầu như không triển khai được. Theo Quyết định số 193/2001/QĐ- TTg ngày 20/12/2001 về việc ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN, vốn điều lệ của Quỹ tối thiểu là 30 tỷ đồng, trong đó vốn cấp của ngân sách tỉnh không quá 30% nhưng các địa phương không đủ ngân sách để góp vốn vào Qũy. Đến năm 2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 115/2004/QĐ-TTg về việc sửa đổi, bổ sung Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN ban hành kèm theo Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg nhưng cho đến nay mới chỉ một số ít địa phương triển khai được, một số tỉnh, thành phố khác còn đang trong thời gian chuẩn bị. Nguyên nhân của sự chậm trễ triển khai thành lập Qũy là do hầu hết các địa phương không đủ ngân sách để đóng góp, trong khi các doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề càng không có vốn để góp khi bản thân họ cũng đang thiếu vốn để kinh doanh, tất nhiên không thừa tiền để lập quỹ cho doanh nghiệp khác vay, rồi cạnh tranh với mình. Quyền lợi cũng như trách nhiệm của người hay tổ chức góp vốn chưa được xác định rõ và việc điều hành tác nghiệp quỹ quá phức tạp. Ngay cả Ngân hàng Nhà nước, cơ quan chịu trách nhiệm thực thi các quyết định về Quỹ bảo lãnh tín dụng đến đầu năm 2006 chỉ mới ban hành một Thông tư hướng dẫn một số 44 nội dung về góp vốn thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng trong đó nêu rõ, khi nào các TCTD "có nhu cầu" căn cứ trên tình hình thực tế để quyết định tham gia góp vốn. Tuy nhiên, nếu chỉ động viên khuyến khích thì rất khó bởi các ngân hàng phải bảo toàn vốn và kinh doanh có lãi, không thể làm công việc chính sách. Do đó, các TCTD không hào hứng với việc góp vốn thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng. + Một số bất cập liên quan đến quá trình xử lý, phát mãi tài sản đảm bảo nợ vay như thời gian để hoàn thành thủ tục phát mãi tài sản thế chấp thu hồi nợ quá dài (từ khi tiến hành khởi kiện ra tòa án, đến khi thi hành án, bán đấu giá tài sản để thu được nợ vay mất trung bình khỏang 2 năm) làm hạn chế, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các TCTD cũng như rủi ro phát sinh cũng rất lớn. 2.5.2.2 Từ phía DNVVN: Quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ, năng lực tài chính của doanh nghiệp không mạnh đã hạn chế khả năng đầu tư, không đáp ứng yêu cầu của ngân hàng về mức vốn tự có tối thiểu và các hệ số tài chính cơ bản để được vay vốn. Tỷ trọng vốn tự có nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp làm cho các doanh nghiệp dễ vỡ nợ khi đối mặt với những diễn biến bất thường của thị trường, đặc biệt đối với các DNVVN trong Khu công nghiệp Tân Tạo. Đa số là các doanh nghiệp bị buộc phải di dời khỏi khu dân cư nội thị vào khu công nghiệp nên chi phí đầu tư ban đầu để xây dựng cơ sở vật chất rất lớn và đa số họ trong thời gian này rất khó khăn về tài chính. Do đó, khó có khách hàng DNVVN nào trong khu công nghiệp đủ điều kiện được vay. Đa số DNVVN chưa chấp hành tốt các quy định về kế toán, thống kê. Hệ thống báo cáo tài chính thường không đầy đủ, không cập nhật, độ tin cậy kém, nhiều hệ thống sổ sách kế toán song hành nên tình hình tài chính của các 45 DNVVN không đảm bảo tính minh bạch, gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình thẩm định, đánh giá doanh nghiệp và ra quyết định cho vay. Hơn nữa, các giao dịch của DNVVN, nhất là của các hộ kinh doanh, các cơ sở sản xuất thường theo phương thức trao tay không có hợp đồng kinh tế, một số trường hợp thậm chí không có hoá đơn, thanh toán bằng tiền mặt nên ngân hàng rất khó đánh giá doanh số hoạt động thực tế cũng như xác minh nguồn trả nợ. Vốn đăng ký kinh doanh của các DNVVN thường thấp hơn rất nhiều so với vốn thực tế đưa vào kinh doanh. Vốn góp không chính thức và vốn huy động từ gia đình, bạn bè, người thân thường thể hiện dưới dạng nợ phải trả. Điều đó tạo ra hệ quả là vốn tự có thấp và các hệ số tài chính cơ bản không đáp ứng được yêu cầu cho vay mặc dù doanh nghiệp có thể chứng minh được vốn tự có tham gia lớn. Doanh nghiệp không hiểu về cơ chế tín dụng của NHTM, có tâm lý sợ thủ tục vay vốn của ngân hàng rườm rà, phức tạp, việc giải quyết cho vay của ngân hàng khó khăn hoặc sợ minh bạch tình hình tài chính, sẽ tiết lộ bí mật kinh doanh. Phần lớn các DNVVN thiết lập thủ tục vay vốn không đúng yêu cầu của ngân hàng. Tính kế hoạch, tính chiến lược trong hoạt động sản xuất kinh doanh không cao, đặc biệt là khả năng thiết lập kế hoạch tài chính; phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư rất hạn chế, sơ sài, hoạt động kinh doanh chủ yếu theo thương vụ nên thiếu tính thuyết phục khi ngân hàng thẩm định cho vay. Nhà xưởng, trụ sở làm việc của DNVVN, nhất là hộ kinh doanh cá thể, cơ sở sản xuất chật hẹp; công nghệ sản xuất của các DNVVN đang sử dụng đã lạc hậu. Điều này dẫn đến tình trạng sản phẩm làm ra chưa thể đáp ứng yêu 46 cầu mỹ thuật, chất lượng nên khả năng cạnh tranh chưa cao, chủ yếu tiêu thụ ở thị trường trong nước. Việc quản lý điều hành sản xuất kinh doanh của đội ngũ lãnh đạo DNVVN thiếu bài bản, mang nặng tính gia đình, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm; bộ máy quản lý tài chính thường hay thay đổi, vì vậy khó khăn trong phối hợp với ngân hàng. Chủ doanh nghiệp, cán bộ giao dịch với ngân hàng còn thiếu kinh nghiệm, có tư tưởng e ngại, thiếu tự tin trong quan hệ, trong khả năng thuyết trình, đàm phán với ngân hàng. Các DNVVN thường thiếu tài sản, nhất là bất động sản để đảm bảo nhu cầu vay vốn ngân hàng. Trong khi đó, tài sản của đa số các DNVVN hoạt động trong Khu công nghiệp Tân Tạo có thể được dùng làm đảm bảo khoản vay là giá trị hợp đồng thuê đất đã thanh toán hết và nhà xưởng được xây dựng trên đất nhưng lại chưa có Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất và quyền sở hữu công trình của các cơ quan chức năng do thời gian cấp giấy chứng nhận dài nên tài sản của khách hàng chưa đầy đủ tính pháp lý để làm tài sản đảm bảo. 2.5.2.3 Từ phía ngân hàng: a/ Từ phía Chi nhánh NHCT Bình Tân: Chi nhánh vẫn chưa khai thác tích cực nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế, đặc biệt là các nguồn vốn có lãi suất thấp. Nguồn vốn huy động bằng VNĐ hiện đang bị hạn chế, mặc dù Chi nhánh đã bắt đầu triển khai dịch vụ thẻ ATM để gia tăng lượng tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp nhưng hoạt động này vẫn chưa hiệu qủa do hiện nay Chi nhánh chỉ mới có 1 máy ATM được đặt tại khu công nghiệp, xa khu dân cư, ít người biết đến và thường bị lỗi kỹ thuật khi sử dụng. Nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ rất 47 thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu thanh toán L/C nhập khẩu của doanh nghiệp do Chi nhánh chưa có nhiều khách hàng hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu. Do nguồn vốn huy động không đủ đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn tại Chi nhánh ngày càng tăng nên Chi nhánh phải nhận nguồn vốn điều hoà của NHCTVN với lãi suất cao, ảnh hưởng đến lãi suất cho vay của Chi nhánh. Vì vậy, sự hạn chế về nguồn vốn huy động là một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho việc phát triển hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng đối với khách hàng, đặc biệt là DNVVN. Các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cung cấp cho DNVVN tại Chi nhánh chưa đa dạng, chủ yếu vẫn là các sản phẩm truyền thống như huy động vốn và cấp tín dụng. Sự đơn điệu còn được thể hiện ngay cả trong sản phẩm truyền thống như nhận tiền gửi và chủ yếu cho vay, bảo lãnh. Các dịch vụ hỗ trợ phi tài chính đối với khách hàng như cung cấp thông tin, đào tạo, tư vấn... còn hạn chế. Quy trình, thủ tục của sản phẩm dịch vụ chưa được thiết kế phù hợp với khách hàng có quy mô vừa và nhỏ nên còn khá rườm rà, phức tạp. Hệ thống thông tin về khách hàng còn nhiều bất cập, thiếu tin cậy, chưa phục vụ được nhiều cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng do dữ liệu nhập chưa chính xác và thiếu sự kiểm tra, đôn đốc kịp thời của cán bộ quản lý. Lực lượng cán bộ thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, chưa tương xứng với đặc thù số lượng khách hàng DNVVN đông, qui mô nhỏ nên việc bố trí đủ cán bộ chuyên phục vụ nhóm khách hàng này là một khó khăn cho Chi nhánh. Công tác tuyên truyền, quảng bá hoạt động phục vụ khách hàng DNVVN của Chi nhánh NHCT Bình Tân còn hạn chế. Mặc dù tỷ trọng phục vụ khách hàng DNVVN khá lớn nhưng chưa tạo dựng được hình ảnh là một ngân hàng có ưu thế trong tài trợ DNVVN. 48 Tuy các Nghị định 178/1999/NĐ-CP, Nghị định 82/2002/NĐ-CP và Thông tư 05/2005/TT-NHNN quy định các hình thức đảm bảo tiền vay như thế chấp, cầm cố, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay, đảm bảo bằng tín chấp của các tổ chức chính trị – xã hội và cho vay không có bảo đảm, hiện nay Chi nhánh chỉ nhận tài sản là bất động sản làm tài sản đảm bảo khoản vay. b/ Từ phía NHCTVN: Quy trình sản phẩm tín dụng áp dụng chung cho mọi đối tượng khách hàng, không phân biệt quy mô khách hàng và khoản vay nên có những điểm chưa phù hợp với các DNVVN. Mặt khác, loại sản phẩm theo tên gọi hiện nay như cho vay ngắn hạn, cho vay trung dài hạn... mang tính tổng hợp, hàm chứa trong đó nhiều loại sản phẩm nhỏ. Vì vậy, chưa thể phân tích, đánh giá loại sản phẩm nào nên kết hợp với nhau để tạo thành sản phẩm trọn gói... Quy định về bảo đảm tiền vay của NHCTVN còn một số điểm bất cập như còn phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh về mức cho vay không có tài sản bảo đảm tối đa, quy định bắt buộc chi nhánh thuê tư vấn định giá trong trường hợp giá quyền sử dụng đất cao hơn khung giá quy định của nhà nước, trong khi các ngân hàng khác không thực hiện quy định này. Một số khoản phí của NHCTVN cao hơn của các ngân hàng khác như phí chuyển tiền… và một số khoản phí được NHCTVN áp dụng, trong khi các ngân hàng khác chưa áp dụng như phí cung cấp bản sao chứng từ, phí thay đổi giá trị bảo đảm nhưng không thay đổi tài sản bảo đảm,... ít nhiều ảnh hưởng đến khả năng thu hút khách hàng. Phạm vi hoạt động của các chi nhánh phụ thuộc mức phân cấp quản lý của Tổng giám đốc NHCTVN. Do đó, muốn cho vay doanh nghiệp tại khu 49 công nghiệp, cụm công nghiệp là chi nhánh hay thành viên phụ thuộc đơn vị chính đóng ở địa bàn khác, theo quy định của NHCTVN thì phải trình Tổng giám đốc phê duyệt, dù khách hàng đáp ứng đủ điều kiện vay vốn. Một số khách hàng vay theo phương thức hạn mức tín dụng có tài sản thế chấp bảo đảm nợ vay đã qua chứng thực của công chứng nhà nước để thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm, nhưng theo công văn số 067/CV-HĐQT- NHCT5 của Hội đồng Quản trị NHCTVN ban hành ngày 27 tháng 05 năm 2003, hợp đồng bảo đảm bổ sung, khi đánh giá lại tài sản bảo đảm cũng phải được công chứng Nhà nước chứng thực lại. Hệ thống công nghệ thông tin ngân hàng tuy đã được hiện đại hóa nhưng chưa hoàn chỉnh và thường bị nghẽn mạch, đứng mạng, nhất là vào giờ cao điểm nên các giao dịch thường được thực hiện khá lâu, gây phiền hà cho khách hàng. Kết luận: Việc phân tích tình hình tại Chi nhánh NHCT Bình Tân cho thấy những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, khó khăn trong việc tài trợ cho DNVVN của Chi nhánh, từ đó có giải pháp thích hợp nhằm tăng cường khả năng tài trợ cho DNVVN. 50 CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TÀI TRỢ DNVVN TẠI CHI NHÁNH NHCT BÌNH TÂN 3.1 Định hướng tài trợ DNVVN của Chi nhánh NHCT Bình Tân năm 2007: - Xây dựng hình ảnh NHCTVN là ngân hàng hàng đầu ở Việt Nam phục vụ DNVVN từ nay đến năm 2010. - Doanh số hoạt động phục vụ khách hàng ở tất cả các lĩnh vực tiền gửi, tín dụng, dịch vụ đều tăng trưởng, cụ thể: + Tốc độ huy động vốn tăng 47%. + Tốc độ cho vay đối với nền kinh tế tăng 19%. + Tốc độ thu phí dịch vụ tăng 41% - Hoạt động tín dụng: cho vay 100% doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tỷ trọng dư nợ tín dụng DNVVN chiếm đa số tổng dư nợ toàn Chi nhánh; tỷ lệ nợ xấu (nhóm 3,4,5) là 0%. 3.2 Giải pháp tăng cường tài trợ DNVVN : 3.2.1 Giải pháp về tạo nguồn vốn cho ngân hàng để tài trợ DNVVN: Đẩy mạnh khai thác, tăng trưởng nguồn vốn theo hướng đa dạng hoá hình thức huy động vốn, đặc biệt là các nguồn vốn đầu vào thấp, để đáp ứng nhu cầu vốn của DNVVN. Sự thiếu hụt nguồn vốn làm hạn chế sự tăng trưởng tín dụng và ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng. Thực tế trong thời gian qua, Chi nhánh phải nhận khá nhiều nguồn vốn điều hoà của NHCTVN để đáp ứng nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp - đặc biệt của các DNVVN - ngày càng tăng tại Chi nhánh. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc gia tăng lãi suất cho vay và phí dịch vụ. Do đó, việc thu hút nguồn vốn có 51 lãi suất thấp, ổn định để bổ sung nguồn tài trợ DNVVN có ý nghĩa rất lớn, cụ thể là: - Thực hiện công cụ lãi suất huy động linh hoạt, nhanh nhạy, phù hợp với diễn biến thị trường, đảm bảo cạnh tranh được với các ngân hàng khác. - Thu hút tăng số lượng khách hàng mở tài khoản giao dịch. - Phát triển dịch vụ thẻ ATM bằng cách tiếp cận các siêu thị, khách sạn, nhà hàng… để mở các cơ sở chấp nhận thẻ Visa, Master Card, Cash Card... Mở rộng dịch vụ chi trả lương qua hệ thống máy ATM đối với các doanh nghiệp và tổ chức có đông công nhân, đông người lao động... - Tổ chức thực hiện dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế Visa, Master Card, chi trả kiều hối Western Union, Well-Fargo, tư vấn, hỗ trợ khách hàng, quảng bá và tiếp thị dịch vụ này tại Chi nhánh, trung tâm và các điểm giao dịch. - Cùng với việc triển khai sử dụng các hình thức huy động vốn truyền thống, cần phát triển các sản phẩm huy động vốn mới, đa dạng các kỳ hạn khác nhau, phương thức huy động tiền gửi và phương thức trả lãi linh hoạt như đa dạng nhiều kỳ hạn gửi khác nhau như 1 tuần, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng…hoặc tiết kiệm rút gốc linh hoạt dựa trên cơ sở thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Khách hàng rút tiền khi nào, thì tính toán thực tế số ngày gửi để tính lãi suất thực tế phù hợp với kỳ hạn đó… Đây là hình thức huy động vốn cạnh tranh có hiệu qủa. - Sớm triển khai mở các điểm giao dịch nằm ngoài khu công nghiệp, tại những khu vực đông dân cư, kinh tế phát triển để khai thác nguồn tiền nhàn rỗi của dân cư. - Lẽ sống còn của Chi nhánh NHCT Bình Tân cũng như của các chi nhánh khác là phải kéo giảm chi phí đầu vào. Thị trường đã định lãi suất cho vay hay mức phí dịch vụ như mức trần không thể vượt qua nếu muốn giữ chân 52 khách hàng. Cay nghiệt hơn là mức trần này lại có xu hướng giảm dưới áp lực của cạnh tranh. Lợi nhuận hạch toán của Chi nhánh NHCT Bình Tân nằm ở khoảng chênh lệch giữa mức trần này và chi phí đầu vào. Sự cạnh tranh quyết liệt lại diễn ra luôn cả đối với chi phí điều hành và chi phí huy động. Tiết kiệm chi tiêu nội bộ không đơn thuần là chống lãng phí mà còn góp phần tích cực vào việc tăng lợi nhuận cho Chi nhánh. Thị trường cạnh tranh tạo nên một mức sàn đối với chi phí huy động. Bản thân ngân hàng nào cũng muốn giảm lãi tiền gửi các loại xuống càng thấp càng tốt nhưng họ không làm được vì sẽ mất khách hàng. Lối thoát cuối cùng nằm ở nguồn vốn phi giá trong thanh toán. Khách hàng muốn ra lệnh cho ngân hàng chuyển tiền đi đâu đó hay thanh toán cho ai đó, bắt buộc phải chuẩn bị đủ tiền. Khi bắt đầu thực hiện lệnh, ngân hàng trích ngay tài khoản của người ra lệnh. Khoản tiền này được treo trên mạng của hệ thống ngân hàng cho đến khi được ghi có tài khoản hay chi trả cho người hưởng. Đây là nguồn vốn trong thanh toán mà ngân hàng được hưởng miễn phí huy động, thậm chí ngân hàng còn thu phí dịch vụ chuyển tiền hay thanh toán. Công nghệ thông tin phát triển đã rút ngắn thời gian thực hiện lệnh, kéo giảm nguồn vốn này. Nếu ngân hàng thực hiện tốt khâu thanh toán, tạo uy tín thu hút được khách hàng, doanh số tăng thêm bù đắp được sự sụt giảm do rút ngắn thời gian. DNVVN thuộc khu vực tư nhân chưa hoàn toàn tin tưởng vào ngân hàng nên ít chịu để tiền tồn đọng trong tài khoản tiền gửi. Họ thường cất giữ tiền mặt ở cơ sở vừa tránh được cảnh phải bị duyệt chi đã xảy ra trong quá khứ, vừa tự do quay vòng vốn ngoài giờ ngân hàng làm việc, vừa tự do bảo toàn vốn theo cách riêng qua trung gian của vàng hay USD. 3.2.2 Giải pháp về chế độ chăm sóc khách hàng: 53 - Tổ chức và xây dựng chính sách khách hàng dựa vào việc phân loại khách hàng để có những chính sách chăm sóc đặc biệt đối với khách hàng chiến lược, khách hàng có nguồn tiền gửi lớn tại Chi nhánh. - Kéo dài thời gian phục vụ khách hàng tại các điểm kinh tế dân cư đông, sầm uất, có khả năng thu hút vốn. - Vận động khách hàng gửi tiền tiết kiệm và chuyển tiền thanh toán qua tài khoản tại Chi nhánh để thường xuyên có nguồn vốn luân chuyển trên tài khoản tiền gửi tại Chi nhánh góp phần phát triển nguồn vốn huy động tại chổ hỗ trợ cho nhu cầu sử dụng vốn của Chi nhánh; - Nâng cao ý thức trách nhiệm của từng cán bộ, nhân viên trong Chi nhánh đối với công tác huy động vốn, không chỉ cán bộ trực tiếp giao dịch tiền gửi mà tất cả các cán bộ, nhân viên đều có trách nhiệm làm công tác tiếp thị cả tiền gửi lẫn tiền vay. - Thường xuyên tổ chức học tập, trao đổi nghiệp vụ để nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ giao dịch, đáp ứng điều kiện hiện đại, hội nhập. - Nâng cao tác phong, lề lối làm việc, văn hoá giao dịch và bố trí đội ngũ giao dịch viên có đủ năng lực, phẩm chất để đảm bảo thực hiện giao dịch nhanh, chính xác, thể hiện phong cách chuyên nghiệp với thái độ phục vụ ân cần, niềm nở. - Cải tiến qui trình nghiệp vụ gọn nhẹ nhằm giảm thiểu các thủ tục giao dịch như nhận tiền gửi, rút tiền hoặc thanh toán… để giảm bớt thời gian, chi phí giao dịch cho khách hàng. - Tăng cường hoạt động hỗ trợ phi tài chính đối với khách hàng DNVVN nhằm thu hút khách hàng và gắn bó họ với Chi nhánh. Các hoạt động hỗ trợ phi tài chính bao gồm cung cấp thông tin kinh tế, hướng dẫn thủ tục, hỗ trợ thiết lập phương án, dự án vay vốn, giới thiệu các cơ hội kinh doanh, giới 54 thiệu đối tác đầu tư/bạn hàng/nhà cung cấp cho khách hàng thông qua nhiều kênh khác nhau. Đồng thời Chi nhánh cũng có thể hỗ trợ những khách hàng tiêu biểu tham gia các khoá đào tạo, tham gia triển lãm, hội chợ giới thiệu sản phẩm, thúc đẩy quan hệ mua bán, chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. - Hoàn thiện mối quan hệ với giữa ngân hàng và khách hàng, trên cơ sở củng cố khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới. Ngân hàng nên tạo sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp mới thành lập đi vào hoạt động với các doanh nghiệp đã có thương hiệu, giữa khách hàng mới và khách hàng truyền thống. Không quá chú trọng vào mối quan hệ hình thức mà cần quan tâm đến tình hình tài chính, tính khả thi và hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh. - Áp dụng chính sách ưu đãi nhất định đối với doanh nghiệp. Thông qua việc xác định khách hàng chiến lược, phân loại khách hàng theo các tiêu chí như có năng lực tài chính mạnh, sản xuất kinh doanh hiệu qủa cao, thường xuyên duy trì số dư tiền gửi lớn, có tín nhiệm cao trong quan hệ tín dụng, thanh toán, tạo lợi nhuận và doanh thu nhiều cho ngân hàng… để có các hình thức khuyến khích như tăng lãi suất tiền gửi, miễn giảm phí dịch vụ, giảm lãi suất tiền vay, tổ chức thăm hỏi khách hàng hoặc gia đình khách hàng vào dịp lễ, Tết… 3.2.3 Giải pháp hoàn thiện và bổ sung các sản phẩm dịch vụ mới phù hợp với DNVVN theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm hiện có và phát triển sản phẩm mới phù hợp với DNVVN: - Nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ hiện có tại ngân hàng theo hướng chấp hành đúng quy trình thủ tục cung cấp sản phẩm, dịch vụ của NHCTVN đã hướng dẫn khi tài trợ khách hàng DNVVN như định giá tài sản bảo đảm, thu thập và xử lý thông tin trong trường hợp hệ thống báo cáo tài 55 chính của khách hàng không đầy đủ… Điều này không chỉ có ý nghĩa duy trì được khách hàng cũ, thu hút được khách hàng mới mà còn đảm bảo thu nhập cao cho ngân hàng qua việc tăng trưởng tín dụng gắn với nâng cao chất lượng tín dụng. - Trên cơ sở hướng dẫn thực hiện của NHCTVN, Chi nhánh cần nhanh chóng triển khai thực hiện các sản phẩm, dịch vụ hiện chưa có tại Chi nhánh, đặc biệt là các sản phẩm tín dụng như cho vay thông qua phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, cho vay theo hạn mức thấu chi, cho vay hợp vốn, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng... để đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp. + Cho vay thông qua phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: ngân hàng chấp nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiềm mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của ngân hàng. Việc cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng theo quy định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và NHCTVN về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. + Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: ngân hàng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng chỉ để đầu tư cho dự án. Trong thời hạn hiệu lực rút vốn của hợp đồng khách hàng phải trả phí cam kết theo mức quy định của ngân hàng. + Cho vay hợp vốn: ngân hàng cùng hệ thống hoặc phối hợp với một số TCTD khác thực hiện cho vay đối với một dự án hoặc phương án vay của khách hàng, trong đó NHCT hoặc một TCTD khác làm đầu mối giải ngân, phát vay. Cho vay hợp vốn được thực hiện theo quy chế đồng tài trợ của Ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn của NHCTVN. + Cho vay theo hạn mức thấu chi là việc ngân hàng thoả thuận bằng hợp đồng chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán 56 của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. + Triển khai các dịch vụ khác như dịch vụ quản lý tài sản, uỷ thác đầu tư, tư vấn và cung cấp thông tin. Ngân hàng có cơ sở dữ liệu tương đối đầy đủ về khách hàng, đồng thời hiểu sâu sắc nhất nghiệp vụ ngân hàng, tài chính, tiền tệ nên có lợi thế trong việc tư vấn cho khách hàng. Tận dụng thế mạnh này, các ngân hàng cần đẩy mạnh cung cấp dịch uỷ thác đầu tư, vụ tư vấn và cung cấp thông tin không những cho các doanh nghiệp mà còn cho các cá nhân. Ngoài ra, ngân hàng còn tư vấn về các lĩnh vực như pháp luật, đầu tư, thuế... - Chi nhánh cần tìm hiểu, nghiên cứu nhu cầu khách hàng, kinh nghiệm của các ngân hàng trong và ngoài nước để thiết kế các sản phẩm dịch vụ ngân hàng phù hợp với DNVVN. Đặc biệt, cần chú trọng tới cung ứng dịch vụ ngân hàng trọn gói, gắn phát triển và cung cấp sản phẩm tín dụng với các sản phẩm dịch vụ và tiện ích khác như: tiền gửi, dịch vụ tài khoản, dịch vụ chi trả lương, phát hành thẻ ATM cho người lao động của doanh nghiệp... - Linh hoạt hình thức cho vay có đảm bảo và hình thức cho vay không có đảm bảo bằng tài sản: Trong trường hợp năng lực của khách hàng thường lớn hơn so với tài sản thực có của họ, muốn mở rộng tín dụng đồng thời giúp doanh nghiệp phát triển, ngân hàng cần mạnh dạn áp dụng hình thức cho vay đảm bảo bằng hàng hoá, dịch vụ. Ngân hàng có thể giải quyết cho vay căn cứ vào tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh trang của sản phẩm đó trên thị trường. Tài sản bảo đảm tiền vay chỉ là phương tiện cuối cùng, là nguồn trả nợ khi rủi ro xảy ra, do vậy ngân hàng cần linh hoạt áp dụng hình thức thế chấp, cầm cố, tín chấp, bão lãnh… sao cho phù hợp. 57 Hình thức đảm bảo bằng cầm cố hàng hóa đã có từ lâu trên thế giới. Để thực hiện tốt, ngân hàng phải có nhà kho riêng hay kết hợp tốt với các tổng kho, kho ngoại quan… 3.2.4 Giải pháp hỗ trợ: 3.2.4.1 Tăng cường tuyên truyền, quảng bá hoạt động của Chi nhánh để thực hiện tốt chính sách khách hàng đối với DNVVN : Trong xu thế nền kinh tế chú trọng về dịch vụ ngày nay, hoạt động marketing, xúc tiến, thiết lập kênh phân phối, cổ động truyền thông, quảng cáo và thăm hỏi, tặng quà lưu niệm cho khách hàng tác động rất lớn đến việc nắm bắt nhu cầu của khách hàng. Do đó, ngân hàng cần: - Xây dựng website Chi nhánh NHCT Bình Tân, trên website của ngân hàng có trang web phục vụ riêng cho DNVVN. Trang web này là cầu nối giữa ngân hàng với DNVVN thông qua việc cung cấp thông tin, quảng cáo, giới thiệu, tạo điều kiện cho DNVVN và ngân hàng có cơ hội tìm hiểu lẫn nhau. Đồng thời, đây cũng là bước đầu để phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử đến các DNVVN. - Tham gia hỗ trợ các DNVVN tham gia các hội chợ, triển lãm giới thiệu sản phẩm nhằm thúc đẩy quan hệ mua bán, chuyển giao công nghệ giữa các DNVVN; tổ chức, tham gia các hội thảo, diễn đàn về các chủ đề liên quan tới phát triển DNVVN. - Thiết kế các tờ rơi giới thiệu tính năng từng sản phẩm dịch vụ, cẩm nang dịch vụ của Chi nhánh cũng như các chỉ dẫn cần thiết về quyền và nghĩa vụ của khách hàng một cách ngắn gọn dễ hiểu, giúp khách hàng hiểu được cơ bản về sản phẩm dịch vụ mình sẽ sử dụng và chủ động tìm đến ngân hàng khi có nhu cầu và sử dụng. 58 - Thông qua các kênh thông tin đại chúng như: đài phát thanh, truyền hình, báo chí (báo điện tử, các trang web), các ấn phẩm như báo, tạp chí; marketing trực tiếp qua thư, điện thoại...; các quảng cáo ngoài trời… và các hình thức tuyên truyền, quảng bá khác thiết thực, hiệu qủa sẽ giúp khách hàng có được các thông tin cập nhật, nhất quán, có được sự hiểu biết cơ bản về các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng và nắm được cách thức sử dụng, lợi ích của các sản phẩm ngân hàng. - Tìm kiếm khách hàng tiềm năng thông qua những khách hàng đang giao dịch do các doanh nghiệp thường có mối quan hệ mật thiết trong quá trình kinh doanh và bản thân các doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực hiểu nhau rõ. - Hằng năm, ngân hàng nên tổ chức hội nghị khách hàng để tạo sự gắn bó giữa ngân hàng và khách hàng, đồng thời tham khảo ý kiến đánh giá của khách hàng về sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng, để nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp. 3.2.4.2 Mở rộng địa bàn hoạt động đầu tư tín dụng: Hiện nay, thành phố Hồ Chí Minh được xem là điạ bàn có mật độ DNVVN rất cao và cũng là nơi tập trung nhiều cơ sở ngân hàng nhất. Do đó, đối với NHTM đây là địa bàn tiềm năng nhưng có tính cạnh tranh quyết liệt. Trong thời gian sắp tới, Chi nhánh cần mở rộng hoạt động tín dụng ra các địa bàn lân cận, nơi tập trung những khu công nghiệp qua việc phối hợp với các chi nhánh NHCT khác trên điạ bàn để cung cấp các sản phẩm dịch vụ trọn gói, gia tăng tiện ích cho khách hàng. 3.2.4.3 Hoàn thiện hệ thống thông tin : 59 Số lượng DNVVN đông nên việc hoàn thiện hệ thống thông tin (bao gồm cả thông tin quản lý và thông tin phục vụ khách hàng) có ý nghĩa quan trọng và là một nhiệm vụ cấp thiết. - Muốn có được các thông tin đáng tin cậy thì phải chấn chỉnh ngay từ khâu nhập dữ liệu từ hồ sơ giấy vào chương trình máy tính theo đúng quy trình, đảm bảo thông tin chính xác, đầy đủ kịp thời. Hội sở chính cần sớm đưa ra qui chế phối hợp cung cấp thông tin và xác định rõ thẩm quyền cũng như trách nhiệm trong việc cung cấp, quản lý thông tin. - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng, làm căn cứ đưa ra các quyết định kinh doanh hiệu quả nhất đối với mỗi khách hàng. - Thiết lập hệ thống dữ liệu, thông tin tín dụng, thông tin ngành hàng và các thông tin liên quan nhằm phục vụ công tác thẩm định, quản lý các giới hạn an toàn, cảnh báo sớm các dấu hiệu rủi ro… 3.2.5 Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chuyên sâu về DNVVN : - Cần bổ sung đủ số lượng cán bộ, nhân viên có đủ năng lực, trình độ, có tâm huyết và có đạo đức nghề nghiệp nhằm hạn chế sự kiêm nhiệm của cán bộ, nhân viên trong công việc, để tập trung sâu vào chuyên môn, đáp ứng lượng khách hàng đông, phù hợp với sự phân bố và phát triển của các DNVVN. - Song song với việc bổ sung đủ người phù hợp với số lượng khách hàng, cần phải sắp xếp, bố trí nhân sự hợp lý, trên tinh thần đúng người, đúng việc. Để giải quyết vấn đề này phải lập được một hệ thống tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, phẩm chất cá nhân cho từng chức danh cụ thể, có như thế mới phát huy được sức mạnh tập thể, của cán bộ, nhân viên tâm huyết với nghề. 60 - Không ngừng đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nhân viên dưới nhiều hình thức: bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, tổ chức tập huấn, thi tình huống, đặc biệt là trình độ thẩm định dự án, phương án vay vốn, lựa chọn khách hàng, vận dụng các chế độ thể lệ tín dụng đã ban hành nhằm bổ sung những kỹ năng, kiến thức mới chuyên sâu về phục vụ khách hàng DNVVN. Khuyến khích cán bộ, nhân viên tự đào tạo, nâng cao trình độ bằng chế độ hỗ trợ kinh phí. Việc đào tạo không chỉ dừng lại ở các kiến thức chuyên môn mà quan trọng hơn nữa là tăng cường tính chủ động của cán bộ, nhân viên khi tiếp cận khách hàng, hoàn thiện các kỹ năng giao dịch. - Không ngừng rèn luyện tư cách, đạo đức nghề nghiệp và nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ nhân viên. Xỷ lý nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm. - Xây dựng chính sách tiền lương, tiền thưởng gắn với trình độ, chất lượng và hiệu quả công việc, đồng thời có chính sách đãi ngộ phù hợp để khuyến khích người tốt, người giỏi làm việc cho ngân hàng, tạo động lực cho cán bộ tâm huyết với nghề. 3.3 Kiến nghị: 3.3.1 Đối với các cơ quan quản lý nhà nước: 3.3.1.1 Thực hiện chính sách phù hợp để hỗ trợ mặt bằng sản xuất ổn định, lâu dài cho các DNVVN. Trong khi nhiều doanh nghiệp nhà nước được giao đất và sử dụng không có hiệu quả, đất đai bỏ hoang hoặc sử dụng không đúng mục đích, thì các DNVVN (trong đó chủ yếu là doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân) lại gặp rất nhiều khó khăn khi tìm mặt bằng kinh doanh với chi phí rất lớn. Ngay cả khi doanh nghiệp có mặt bằng sản xuất thì việc lo đủ các thủ tục cần thiết để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, để có thể thế chấp, cầm cố cũng phải tốn nhiều công sức và tiền bạc. Điều này đã góp phần hạn chế 61 nguồn vốn đầu tư vốn đã hạn hẹp của doanh nghiệp. Nhằm giải quyết vấn đề về mặt bằng cho sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng, Luật Đất đai 2003 và các Nghị định hướng dẫn của Chính phủ số 180/2004/NĐ-CP…, đã quy định một số vấn đề cụ thể.nhưng đến nay, việc triển khai còn gặp nhiều khó khăn. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhận đất và có thể dùng quyền sử dụng đất làm tài sản thế chấp để vay vốn từ các TCTD, trong thời gian tới Chính phủ phải tập trung giải quyết một số vấn đề sau: - Đổi mới thủ tục giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thủ tục giao dịch có liên quan đến quyền sử dụng đất theo hướng cải cách thủ tục hành chính; - Thiết lập một hệ thống cơ quan đăng ký đất đai thống nhất trên toàn quốc với chức năng đăng ký và đăng ký lại các giao dịch về đất, hoặc khi có sự thay đổi trong hồ sơ địa chính do các quyết định hành chính gây ra. - Ban hành quy định cụ thể đối với thế chấp quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao; thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm chỉ có các giấy tờ chứng minh quyền sử dụng, quyền sở hữu tài sản của khách hàng như quyết định giao đất, hợp đồng thuê đất, giấy phép xây dựng, hợp đồng xây lắp, hoá đơn... - Hình thành quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất một cách hệ thống, đảm bảo tính ổn định, chắc chắn, công khai, minh bạch đáp ứng yêu cầu của người sử dụng đất, đồng thời giúp nhà nước quản lý được đất đai thông qua việc xác định mục đích sử dụng đất; xây dựng được hệ thống tổ chức phát triển quỹ đất, giải quyết những vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, đến bù, tái định cư và thu hồi đất đối với những khu vực sử dụng đất sai mục đích, không có hiệu quả, lãng phí tài nguyên đất - Thực chất là đẩy mạnh triển khai thực hiện Luật Đất đai và các Nghị định hướng dẫn Luật này. 62 3.3.1.2 Nghiên cứu, ban hành các chính sách khuyến khích phát triển các Quỹ hỗ trợ dành cho DNVVN. Hiện nay, các NHTM đều cho rằng họ thừa vốn để cho vay, nhưng rất nhiều DNVVN không thể xây dựng kế hoạch kinh doanh khả thi thuyết phục được ngân hàng cho vay vốn, còn doanh nghiệp thì lại cho rằng họ rất khó khăn trong việc tiếp cận vay vốn tín dụng. Như vậy, cung và cầu chưa gặp nhau và vai trò của nhà nước là hỗ trợ tạo điều kiện để cung và cầu về tiền cho sản xuất – kinh doanh gặp được nhau. Cụ thể là: - Về phía DNVVN, Nhà nước hỗ trợ đào tạo cho doanh nghiệp có khả năng thành lập được những kế hoạch kinh doanh có tính khả thi để thuyết phục các ngân hành cho vay vốn; khuyến khích các doanh nghiệp cùng góp vốn hình thành các quỹ tự giúp nhau… - Về phía ngân hàng, Nhà nước nghiên cứu áp dụng chính sách ưu đãi, bảo đảm lợi nhuận mà các NHTM thu được từ khoản vay của các khách hàng là DNVVN. - Bên cạnh đó, Nhà nước có chính sách khuyến khích thành lập những Quỹ, Công ty bão lãnh tín dụng cho DNVVN; các Quỹ đầu tư mạo hiểm; phát triển lĩnh vực cho thuê và cho vay không cần thế chấp; phát triển các mô hình tài chính vi mô bền vững về mặt tài chính và được quản lý một cách chuyên nghiệp theo hướng thị trường…. - Các thủ tục vay vốn phản ánh chính sách tiền tệ của Nhà nước. Các chính sách kinh tế của Nhà nước phải đồng bộ, nhất quán. Không thể một mặt khuyến khích phát triển DNVVN, mặt khác lại thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ và tài chính. 3.3.1.3 Hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của Trung tâm Thông tin Tín dụng: 63 - Ngân hàng Nhà nước cần rút kinh nghiệm và tiếp tục hoàn thiện qui chế hoạt động của Trung tâm Thông tin Tín dụng. Hoạt động của tổ chức này cần phải phù hợp với thực tế và có hiệu quả tích cực ở các mặt như: tổ chức thu thập thông tin; phân tích đánh giá xếp loại các doanh nghiệp và lưu trữ thông tin; cung cấp chính xác và kịp thời thông tin khi các NHTM có nhu cầu. - Các NHTM và Trung tâm Thông tin Tín dụng phải thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm của mình trong việc cung cấp đầy đủ, kip thời và chính xác các thông tin liên quan đến khách hàng cũng như việc bảo mật tuyệt đối mọi thông tin theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước - Sớm thành lập Trung tâm Thông tin Tín dụng tư nhân ở Việt Nam. Thực tế cho thấy phân bổ tín dụng kém hiệu quả một phần do các TCTD thiếu thông tin về người đi vay. Thế chấp thường được sử dụng làm công cụ để bảo đảm khoản cho vay. Tuy nhiên, việc đòi hỏi thế chấp lại là cản trở lớn đối với nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN vì họ thường ít tài sản hoặc tài sản không có đủ giấy tờ hợp pháp để thế chấp. Thay vì đòi hỏi thế chấp, một giải pháp khác hiệu quả hơn đang được TCTD ở nhiều nước sử dụng là chỉ phục vụ những khách hàng có khả năng trả nợ thông qua việc lựa chọn và theo dõi họ thường xuyên. Giải pháp này đòi hỏi TCTD phải nắm vững thông tin về quá trình thanh toán của những khách hàng tiềm năng khi ra quyết định cho vay và xác định lãi suất vay. Trung tâm Thông tin Tín dụng chính là các tổ chức trung gian đứng ra thu thập, cung cấp và chia sẻ thông tin cho các tổ chức cho vay, qua đó giúp các tổ chức này tăng dung lượng cho vay và gián tiếp giúp bên đi vay tiếp cận nguồn vốn tín dụng dễ dàng hơn. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng tín dụng, đặc biệt là tín dụng cho DNVVN đang tạo ra một nhu cầu rất lớn về thông tin tín dụng mà khả năng và nguồn lực của CIC không thể đáp ứng hết. Do đó, việc sớm thành lập Trung tâm 64 Thông tin Tín dụng tư nhân là một mô hình có thể giúp đưa DNVVN đến gần nguồn vốn TDNH. 3.3.1.4 Ban hành chế độ kiểm toán bắt buộc đối với doanh nghiệp: Hiện nay, công tác kiểm toán tại các doanh nghiệp chưa được thực hiện đồng bộ. Công tác kiểm toán chỉ được coi trọng đối với doanh nghiệp nhà nước. Đối với khu vực ngoài quốc doanh, rất ít doanh nghiệp thực hiện kiểm toán độc lập nên các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp gửi cho ngân hàng thiếu độ tin cậy. Hoạt động kiểm toán độc lập sẽ hạn chế được sự thiếu trung thực của báo cáo tài chính của doanh nghiệp, qua đó giúp ngân hàng đánh giá đúng tình hình tài chính của doanh nghiệp khi thẩm định. Do đó, nhà nước nên ban hành quy định kiểm toán bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp để phản ánh tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách chính xác và trung thực. 3.3.1.5 Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội DNVVN cần phát huy hơn nữa vai trò của mình trong hoạt động cung cấp thông tin, marketing làm cầu nối cho doanh nghiệp với thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực cho DNVVN. 3.3.1.6 Về việc thanh lý tài sản thế chấp của các TCTD: Cho phép các ngân hàng tự bán các tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để xử lý nợ quá hạn không phải qua Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản. Hiện nay các TCTD đang vướng vấn đề thuế trong việc xử lý (bán) tài sản. Theo khoản 8 điều 31 Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29.12.1999 về bảo đảm tiền vay của các TCTD: “Việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là biện pháp để thu hồi nợ, không phải là hoạt động kinh doanh của TCTD”. Do vậy, khi các TCTD phát mãi tài sản thế chấp của khách hàng (chưa chuyển quyền 65 sở hữu cho ngân hàng) để thu hồi nợ không nên yêu cầu phải nộp thuế giá trị gia tăng để giảm bớt chi phí và khó khăn trong công tác thu nợ khoản thu của ngân hàng. . 3.3.1.7 Thúc đẩy việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng tại các địa phương: Để giải quyết bài toán thiếu vốn của ngân sách, có thể cho các điạ phương góp vốn theo tiến độ nhất định. Các TCTD cũng nên tham gia góp vốn theo một tỷ lệ nhất định vì hoạt động tác nghiệp của Quỹ chủ yếu là các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng. Do đó, sự góp vốn và tham gia của cán bộ ngân hàng có kinh nghiệm trong ban quản lý Quỹ sẽ giúp cho Quỹ hoạt động có hiệu qủa và ổn định, mang lại lợi nhuận cho cổ đông của Quỹ. Bên cạnh đó, cần gắn kết chắt chẽ giữa góp vốn với lợi ích của doanh nghiệp góp vốn như được ưu tiên bảo lãnh, được tham gia hội đồng quản lý Quỹ. Ngoài ra, chính phủ cần tạo điều kiện cho một số địa phương có nguồn vốn hạn hẹp được tiếp cận và sử dụng nguồn vốn ODA dành cho DNVVN để góp vốn. Do hoạt động của Quỹ tiềm ẩn nhiều rủi ro và số vốn Quỹ quản lý lớn nên công tác kiểm tra, giám sát phải đặt hàng đầu, cán bộ Quỹ phải có trình độ am hiểu chuyên sâu các nghiệp vụ ngân hàng để hiệu qủa hoạt động của Quỹ được nâng cao. 3.3.2 Đối với NHCTVN: - Cần nghiên cứu để thiết kế lại các sản phẩm hiện có thành các sản phẩm riêng biệt, phù hợp với khách hàng DNVVN, sản phẩm nào phải loại bỏ hoặc kết hợp với nhau để tạo thành gói sản phẩm, đồng thời phát triển và đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ mới phù hợp với khách hàng DNVVN. Trên cơ sở đó, ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn cho từng loại sản phẩm. 66 - Cải tiến quy trình thủ tục của ngân hàng thông qua việc lấy ý kiến của các chi nhánh trong hệ thống NHCT, đặc thù của khách hàng DNVVN, khảo sát, học tập kinh nghiệm của các ngân hàng trong và ngoài nước nhằm nâng cao tính cạnh tranh và giải quyết những vướng mắc khi cho vay khách hàng DNVVN như về tài sản đảm bảo, thông tin khách hàng… - Gia tăng tiện ích sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại cho khách hàng như dịch vụ gửi tin nhắn vào điện thoại di động thông tin kết qủa giao dịch tài khoản, thông tin số dư theo định kỳ, thông báo mời nhận tiền ..., hộp thư thoại trả lời tự động số dư tài khoản; các tiện ích internet banking như ra lệnh giao dịch tài khoản cá nhân, giao dịch thẻ ATM, mở tài khoản cá nhân qua mạng, tích hợp chung tài khoản thẻ ATM với tài khoản tiền gửi cá nhân, tiền gửi tiết kiệm, giúp khách hàng có thể giao dịch ATM 24h/24h.… - Phát triển dịch vụ bao thanh toán (Factoring): Dịch vụ bao thanh toán cho phép một DNVVN được bán các hoá đơn phải thu cho một ngân hàng để nhận ngay lại một khoản tiền mặt. Giá trị khoản tiền mặt này thường bằng một phần (thường là phần lớn) của giá trị khoản phải thu trong hoá đơn. Phần còn lại sẽ được thanh toán khi khách hàng của DNVVN đó thực hiện thanh toán khoản tiền đó và sẽ khấu trừ đi phần tiền lãi phát sinh và các phí dịch vụ khác. Nếu khách nợ không chịu thanh toán, ngân hàng sẽ dùng phần tiền còn lại để bù đắp cho khoản lỗ phát sinh. Tuy nhiên, ở nhiều nước đang phát triển, hình thức “đại lý tài chính có bảo đảm” thường được sử dụng tức là cho phép đại lý có thể yêu cầu DNVVN phải bồi thường các khoản lỗ trong trường hợp khách hàng của họ không chịu thanh toán khoản phải thu đó. Dịch vụ bao thanh toán có thể là một giải pháp cho các DNVVN có tình hình luồng tiền không ổn định. Thông qua việc đẩy nhanh luồng tiền, dịch vụ bao thanh toán cho phép DNVVN tăng trưởng nhanh hơn nếu chỉ sử dụng luồng tiền truyền thống. Các dịch vụ bao thanh toán cũng có thể cung 67 cấp các dịch vụ tài chính bổ sung có ích khác như dịch vụ đánh giá khả năng tín dụng của khách hàng, dịch vụ thu tiền giúp họ tập trung hơn vào các hoạt động kinh doanh và các lĩnh vực chủ chốt mà họ có thế mạnh. Do các khoản phải thu được sử dụng làm bảo đảm nên không cần thế chấp tài sản. Dịch vụ bao thanh toán yêu cầu một DNVVN phải hoạt động có lãi và có hệ thống kiểm soát tín dụng tốt và cũng phải có khách hàng có quá trình thanh toán sòng phẳng. Biện pháp này có vẻ không khả thi trong trường hợp doanh số của DNVVN chủ yếu thu bằng tiền mặt (chẳng hạn như đơn vị bán lẻ), nhưng chỉ phù hợp các DNVVN cho thanh toán sau (ví dụ như các đơn vị sản xuất hoặc nhà phân phối) trong các lĩnh vực kinh doanh. - Về bảo đảm tiền vay, khi ký hợp đồng bảo đảm bổ sung, trong thời hạn đăng ký giao dịch bảo đảm còn hiệu lực thì không cần thông qua công chứng. - Về phí dịch vụ, cần tính toán thu phí sao cho hợp lý, có thể cạnh tranh được với các ngân hàng để khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ của NHCT. - Tăng cường tính liên kết hệ thống trong dịch vụ ngân hàng: NHCTVN nên tận dụng lợi thế mạng lưới kênh phân phối rộng khắp để thu hút khách hàng. Một chi nhánh giao dịch tài khoản chính với trụ sở chính, Công ty mẹ... thì NHCTVN cũng nên chỉ đạo các chi nhánh thực hiện thu hộ tiền mặt, có chính sách miễn, giảm phí chuyển tiền cho hệ thống đơn vị thành viên, đại lý bán hàng khi mở và giao dịch thanh toán trong cùng hệ thống NHCT để giữ nguồn vốn huy động; Trong biểu phí dịch vụ qui định chính sách chiết khấu phí khi sử dụng dịch vụ liên kết cùng hệ thống NHCT, chiết khấu phí cho khách hàng sử dụng nhiều sản phẩm dịch vụ tại NHCT... 68 - Đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng theo nguyên tắc thị trường và nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chi nhánh; cải tiến thủ tục cho vay đối với DNVVN theo hướng đơn giản, rõ ràng hơn, tiếp tục cải tiến quy trình cho vay thông qua việc lấy ý kiến trong hệ thống và tìm hiểu qui trình thủ tục của các ngân khác nhằm rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay của ngân hàng hiện nay. Đồng thời cần đa dạng hoá hơn nữa các hình thức bảo đảm tín dụng để thích ứng với đặc điểm của DNVVN. - Đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin, đặc biệt là chú trọng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới, hiện đại trong lĩnh vực ngân hàng. Xác định công nghệ thông tin là lĩnh vực then chốt, là cơ sở, nền tảng cho các hoạt động kinh doanh, tăng năng suất, hiệu qủa và nâng cao năng lực cạnh tranh và hiện đại hoá NHCT. Do đó, cần đẩy nhanh tốc độ hiện đại hoá công nghệ ngân hàng để tự động hoá, tin học hoá tất cả các giao dịch và nghiệp vụ bằng cách phát triển và truy cập nhiều chức năng mới vào phần mền ứng dụng hiện đại, nâng cao tính bảo mật của hệ thống cho phép khách hàng giao dịch ở bất kỳ điểm nào trong hệ thống NHCT. Qua đó, phát huy vai trò của công nghệ thông tin trong việc quản trị rủi ro hệ thống và nâng cao năng lực điều hành của NHCTVN. 3.3.3 Đối với DNVVN : Để nâng cao khả năng tiếp cận các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đặc biệt trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng, một mặt ngân hàng phải tìm mọi biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động, mặt khác DNVVN cần phải khắc phục tồn tại của chính mình, từng bước tạo sự tin cậy và uy tín đối với ngân hàng. Để thực hiện điều này, các DNVVN cần phải: - Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để gia tăng mức độ tín nhiệm của mình đối với ngân hàng, khắc phục được tình trạng thiếu tài sản thế chấp. 69 - Phải có kế hoạch, lộ trình bổ sung vốn chủ sở hữu bằng các hình thức kêu gọi thành viên tăng vốn góp, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá. - Có chiến lược, phương án phát triển kinh doanh rõ ràng và có tính thuyết phục. Chủ động trong việc xây dựng dự án, phương thức đầu tư phù hợp với năng lực về vốn, công nghệ và con người. Đặc biệt chú trọng đến phương án lựa chọn công nghệ đảm bảo tính tiên tiến, hiện đại, tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh, chất lượng cao. - Đào tạo và bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kinh tế - tài chính - kỹ thuật để đội ngũ cán bộ quản lý nâng cao năng lực quản lý điều hành doanh nghiệp. Tích cực đào tạo nguồn nhân lực, chủ động và sáng tạo áp dụng các kiến thức công nghệ mới, các chương trình quản lý kinh tế vào sản xuất kinh doanh, xây dựng doanh nghiệp phát triển và bền vững; - Thực hiện nghiêm chỉnh Luật doanh nghiệp và các văn bản liên quan trong hoạt động sản xuất kinh doanh; thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hạch toán kế toán, báo cáo tài chính đúng quy định, công khai minh bạch… - Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hoá kinh doanh mang bản sắc riêng trên cơ sở các chuẩn mực quốc gia và quốc tế. Nền kinh tế thị trường càng phát triển, đòi hỏi doanh nghiệp, doanh nhân càng phải có đạo đức trong kinh doanh, hiểu biết và ý thức tuân thủ pháp luật, có trách nhiệm với toàn xã hội trên sản phẩm bán ra… Đó là văn hoá kinh doanh. Ở Việt Nam hiện nay, bên cạnh một bộ phận doanh nghiệp hiểu biết pháp luật nhưng cố tình vi phạm, vẫn còn một số chủ doanh nghiệp thiếu hiểu biết, vô tình phạm luật trong quá trình hoạt động. Vì vậy, xây dựng văn hoá kinh doanh cũng là một khía cạnh cần được quan tâm nhiều trong DNVVN. - Chủ động tìm hiểu, nghiên cứu kỹ tiện ích của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cũng như cách thức tiếp cận và sử dụng các dịch vụ ấy. Trên cơ sở 70 đó tận dụng cơ hội, tranh thủ sự hỗ trợ, giúp đỡ của các sở, ban ngành của thành phố, mở rộng hoạt động nghiên cứu thị trường và marketing để từng bước vươn hoạt động sản xuất kinh doanh ra các thị trường bên ngoài. - Phát triển các quan hệ liên doanh, liên kết giữa các DNVVN với nhau và với các doanh nghiệp lớn, kể cả các tổng công ty lớn của Nhà nước và các tập đoàn quốc gia hoạt động trên đất nước ta đang là một yêu cầu cấp bách. Trong thời đại hiện nay, liên kết kinh tế đã trở thành tất yếu trong quan hệ kinh tế, không chỉ trong phạm vi quốc gia mà mở ra trên phạm vi toàn cầu, liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp lại càng cấp thiết. Liên kết kinh tế giữa các DNVVN tạo nên sức mạnh của từng doanh nghiệp và của tổng thể nền kinh tế, bảo đảm cho mỗi sản phẩm, mỗi doanh nghiệp cũng như nền kinh tế mỗi nước đứng vững trước sức cạnh tranh có tính toàn cầu, hơn nữa, còn phát triển thêm thị phần của mình trên thị trường thế giới. DNVVN có thể liên kết với doanh nghiệp lớn trong việc cung ứng nguyên vật liệu, thực hiện các hợp đồng phụ, đặc biệt là tạo ra mạng lưới vệ tinh phân phối sản phẩm... Các doanh nghiệp lớn góp phần bảo đảm cho DNVVN nhu cầu về tài chính, công nghệ, thị trường, kể cả về kinh nghiệm quản lý, v.v... Kết luận: Trên cơ sở những kết qủa đạt được và những khó khăn, tồn tại trong tài trợ DNVVN tại Chi nhánh NHCT Bình Tân, chương 3 đưa ra một số giải pháp tăng cường tài trợ DNVVN tại Chi nhánh NHCT Bình Tân. Mong rằng các giải pháp nêu trên giúp ích cả đôi bên để phương châm “sự phát triển của DNVVN là cơ sở cho sự thành công của Chi nhánh NHCT Bình Tân” không phải là sáo rỗng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfGiải pháp tăng cường tài trợ Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Bình Tân.pdf
Luận văn liên quan