Đề tài Ngoại thương Việt Nam sau khi gia nhập WTO

Thư chào hàng Ngày 29/8/2011 Kính gửi : Quý công ty Công ty TNHH thiết bị văn phòng Tân Tiến: Địa chỉ: 77 Lạc Chay – Ngô Quyền - Hải Phòng Email : tantien@yahoo.com.vn Lời đầu tiên xin gửi tới quý công ty lời chúc sức khoẻ và thành công Xin trân trọng giới thiệu sản phẩm mới nhất, đa năng nhất của chúng tôi hiện nay - máy chiếu OPTOMA ES – 526. Máy chiếu OPTOMA ES – 526 là kết tinh những tính năng ưu việt,mang lại lợi ích tối đa và sự thoải mái cho quý khách hàng khi sử dụng. Để quý khách hàng biết rõ hơn về sản phẩm ,chúng tôi xin cung cấp những thông tin về sản phẩm: Công nghệ: DLP/0.55” SVGA DMD Chip Ðộ sáng: 2.800 ANSI Lumens Bảng màu: 1.073.4 Triệu màu Kích thước chiếu: 22.9” – 302.85”(1.0– 12m) Ðộ phân giải: SVGA (800 x 600), nén UXGA (1600 x 1200) 60Hz. Chức năng chỉnh vuông hình ảnh: +/- 40o (Vertical) Tuổi thọ bóng đèn: từ 3000 giờ đến 4000 giờ Nhân dịp giới thiệu sản phẩm mới của OPTOMA,Công ty thiết bị văn phò

docx50 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2320 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ngoại thương Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước có 12 nhóm hàng đạt trên 1 tỷ USD, đặc biệt mặt hàng dầu thô đã vượt 10 tỷ USD; có 5 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực vượt kế hoạch năm (gạo, hạt điều, hải sản, hàng giày dép, hàng rau quả). Tuy nhiên, có rất nhiều nhóm hàng có kim ngạch cao đã không thể hoàn thành kế hoạch năm về sản lượng như cà phê, cao su, dầu thô, than đá, chè các loại, hạt tiêu. Và có một số nhóm hàng không hoàn thành kế hoạch năm về kim ngạch như hàng dệt may, máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện, gỗ & sản phẩm gỗ. Trong bức tranh tăng trưởng xuất khẩu chung có đóng góp lớn của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tháng 12, khối này xuất khẩu 2,17 tỷ USD và hết 12 tháng đạt gần 24,26 tỷ USD, chiếm tỷ trọng khá cao (38,7%) trong tổng kim ngạch xuất khẩu. 2) Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu -  Dầu thô: trong tháng 12 xuất khẩu đạt 1,46 triệu tấn, tăng 35,6% so với tháng trước, nâng tổng lượng dầu thô xuất khẩu cả năm 2008 lên 13,75 triệu tấn, giảm 8,7% so với năm 2007. Mặc dù lượng giảm nhưng do giá bình quân  tăng 33,6% nên kim ngạch xuất khẩu dầu thô cả năm 2008 đạt 10,5 tỷ USD, tăng 22% so với năm 2007. Tính đến hết tháng 12/2008, lượng dầu thô của Việt Nam chủ yếu xuất sang các thị trường là Ôxtrâylia: 4,16 triệu tấn, giảm 19,6%; Nhật Bản: 2,95 triệu tấn, tăng 72,4%; Singapore: 2,06 triệu tấn, giảm 29,5%; Hoa Kỳ: 1,46 triệu tấn, giảm 1%; Malaysia: 853 triệu tấn, tăng 2,7%; Trung Quốc: 604 triệu tấn, tăng 60,6% so với cùng kỳ 2007;… - Hàng dệt may: trong tháng cả nước xuất khẩu là 848 triệu USD, tăng  22,7% so với tháng 11. Tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này năm 2008 đạt 9,12 tỷ USD, tăng 17,7 % so với cùng kỳ năm trước và thực hiện được 96% kế hoach năm.  Thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam trong năm 2008 là Hoa Kỳ với hơn 5,1 tỷ USD, chiếm gần 56% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước, tiếp theo là Nhật Bản: 820 triệu USD, Đức: 395 triệu USD, Đài Loan: 293 triệu USD,... - Giày dép: trong tháng xuất khẩu 519 triệu USD, tăng 22,5% so với tháng 11, nâng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này năm 2008 lên hơn 4,77 tỷ USD, tăng 19,4% so với năm trước và hoàn thành vượt 6% mức kế hoạch năm.   Hai đối tác lớn nhất nhập khẩu giày dép của Việt Nam trong 12 tháng  năm 2008 vẫn là EU và Hoa Kỳ với trị giá và tốc độ tăng tương ứng là 2,51 tỷ USD, tăng 14,8% và 1,08 tỷ USD, tăng 21,5% so với cùng kỳ  2007 - Gạo: trong tháng xuất khẩu 436 nghìn tấn, tăng 51,5% so với tháng trước, nâng tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 đạt 4,74 triệu tấn, tăng 4% so với năm trước và thực hiện được 105,4% kế hoạch năm. Giá bình quân xuất khẩu gạo cả năm là 610 USD/tấn, tăng 86,7% tương đương với tăng 283 USD/tấn, trị giá cả năm đạt 2,89 tỷ USD tăng 94,3% so với cùng kỳ năm 2007. Tính đến hết tháng 12 năm 2008, Việt Nam xuất khẩu gạo sang Châu Á là 2,68 triệu tấn, giảm 19,1% so với năm 2007 và chiếm 56,4% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước (trong đó, Philippin tiếp tục là nước dẫn đầu về nhập khẩu gạo của Việt Nam với 1,69 triệu tấn, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2007, các nước còn lại 986 nghìn tấn, giảm 46,7%); tiếp theo là Châu Phi: 1,18 triệu tấn, tăng 88%; Châu Mỹ: 547 nghìn tấn, tăng 18,1% so với cùng kỳ năm 2007,… - Hải sản: trong tháng xuất khẩu 325 triệu USD, giảm 10,5% so với tháng 11, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này năm 2008 lên 4,51 tỷ USD, tăng 19,8% so với cùng kỳ năm trước và hoàn thành vượt 6,1% kế hoạch năm.  Hết tháng 12/2008, trị giá hải sản xuất khẩu sang EU đạt 1,14 tỷ USD, tiếp theo là Nhật Bản: 830 triệu USD, Hoa Kỳ: 739 triệu USD, Hàn Quốc: 302 triệu USD. Trị giá xuất khẩu mặt hàng này ở các thị trường khác là 1,5 tỷ USD, chiếm 33,3% tổng kim ngạch hải sản xuất khẩu của cả nước - Cà phê: xuất khẩu trong tháng đạt 173,7 nghìn tấn, tăng 133,8% so với tháng trước, nâng tổng lượng cà phê xuất khẩu năm 2008 lên 1,06 triệu  tấn, giảm 13,8% so với năm 2008 và chỉ hoàn thành có 96,3% kế hoạch năm. Trị giá kim ngạch xuất khẩu cà phê năm 2008 đạt 2,11 tỷ USD, tăng 10,5% so với năm 2007. Thị trường chính nhập khẩu cà phê của Việt Nam trong 12 tháng qua là Đức: 136 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 106 nghìn tấn, Tây Ban Nha: 88 nghìn tấn, Ý: 86 nghìn tấn, - Cao su: trong tháng xuất khẩu hơn 72 nghìn tấn, tăng 20% so với tháng 11, nâng tổng lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 lên 658 nghìn tấn, giảm 7,9% và chỉ hoàn thành có 84,4% kế hoạch năm. Tuy nhiên, do năm 2008 giá bình quân tăng 25% (tương đương với tăng 487 USD/tấn) nên kim ngạch xuất khẩu cao su cả năm đạt hơn 1,6 tỷ USD tăng 15,1% so với năm 2007. Năm 2008, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam gần 431 nghìn tấn, chiếm tới gần 65,5% khối lượng xuất khẩu cao su của cả nước. Tiếp theo là Hàn Quốc: 29 nghìn tấn, Đức: 24 nghìn tấn, Đài Loan: 21,2 nghìn tấn, Malaysia gần: 21 nghìn tấn,… - Gỗ và sản phẩm gỗ: trong tháng xuất khẩu 274 triệu USD, tăng  16,4% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này năm 2008 lên 2,83 tỷ USD, tăng 17,7 % nhưng chỉ hoàn thành 94,3% kế hoạch năm. Tính đến hết tháng 12/2008, Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu nhóm mặt hàng này nhiều nhất của Việt Nam với 1,06 tỷ USD, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2007. Tiếp theo là thị trường EU: 795 triệu USD, tăng 24%; Nhật Bản: 379 triệu USD, tăng 23,4% ; Đức: 152 triệu USD, tăng 54,7%; Trung Quốc: 141 triệu USD, giảm 13,2%;... - Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện: trong tháng xuất khẩu gần 158 triệu USD, giảm 39,1% so với tháng trước, nâng kim ngạch xuất khẩu của năm 2008 lên 2,64 tỷ USD, tăng 22,5% so với năm trước nhưng hoàn thành kế hoạch năm chỉ đạt 75,4%. Các thị trường chính trong năm 2008 cho sản phẩm này là Thái Lan với 405 triệu US, Nhật Bản: 379 triệu USD, Hoa Kỳ: 305 triệu USD, Trung Quốc: 274 triệu USD, Hà Lan: 206 triệu USD, Singapore: 163 triệu USD,… Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, tuy kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2008 tăng khá cao so với năm 2007 nhưng nếu loại trừ trị giá tái xuất sắt, thép, vàng và yếu tố tăng giá của 8 mặt hàng chủ yếu (dầu thô, than đá, gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè) thì kim ngạch hàng hoá xuất khẩu chỉ tăng 13,5%. Trong các thị trường xuất khẩu của Việt Nam năm 2008, Hoa Kỳ là đối tác lớn nhất, ước tính đạt 11,6 tỷ USD, tăng 14,5% so với năm 2007 với 5 mặt hàng chủ yếu (chiếm tỷ trọng 76% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này) gồm: Hàng dệt may, dầu thô, gỗ và sản phẩm gỗ, giày dép, thủy sản C) KIM NGHẠCH NHẬP KHẨU 2007 Tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 60,83 tỷ USD, cũng là mức kỷ lục từ trước tới nay, tăng tới 35,5% so với năm trước. Đã có 13 mặt hàng đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên. Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đạt trên 10 tỷ USD, xăng dầu đạt trên 7 tỷ USD, sắt thép đạt gần 5 tỷ USD, vải 4 tỷ USD, điện tử máy tính và linh kiện đạt gần 3 tỷ USD. Do tốc độ tăng nhập khẩu cao gấp rưỡi tốc độ tăng xuất khẩu, nên nhập siêu đã gia tăng so với cùng kỳ năm trước cả về kim ngạch tuyệt đối (13,1 tỷ USD so với gần 5,1 tỷ USD) và cả về tỷ lệ so với xuất khẩu (25,6% so với 12,7%). Mặc dù nhập siêu tăng chủ yếu so nhập thiết bị máy móc, nguyên nhiên vật liệu tăng cao, một phần do giá nhập tăng: xăng dầu, sắt thép, phân bón, chất dẻo, giấy sợi, dệt, bông, nhưng có ba vấn đề đáng lưu ý. Một, mức nhập siêu như thế là rất cao, vượt xa so với năm trước và cao gấp hơn hai lần so với kế hoạch, có những lĩnh vực không thể coi là hợp lý hay cần thiết, bởi có nhiều loại mà trong nước có thể sản xuất được. Hai, do hiệu quả và sức cạnh tranh của sản xuất trong nước, nên nhiều mặt hàng đã thua ngay trên sân nhà. Ba, trong khi xuất siêu với Mỹ, EU... nhưng lại nhập siêu lớn đối với các nước trong khu vực, nhất là Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan... D) KIM NGHẠCH NHẬP KHẨU 2008 Tính đến hết năm 2008, tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước là 80,71 tỷ USD, xét về số tuyệt đối tăng 18,03 tỷ USD và số tương đối tăng 29,1% so với năm 2007 và hoàn thành vượt 6,2% mức kế hoạch năm. Cả nước có 12 nhóm mặt hàng có kim ngạch trên 1 tỷ USD, trong đó nhóm mặt hàng xăng dầu các loại và máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng nhập khẩu trên 10 tỷ USD. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu - Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng: trong tháng nhập khẩu 1,42 tỷ USD, tăng 45% so với tháng 11. Trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong tháng tăng cao là do nhập khẩu 1 máy bay trị giá 73 triệu USD, và 5 chiếc tàu chở dầu, tàu chở container.. với trị giá hơn 145 triệu USD. Như vậy, kim ngạch nhập khẩu nhóm mặt hàng này năm 2008 là 13,99 tỷ USD, tăng 25,8% so với năm trước và thực hiện vượt 3,7% mức kế hoạch năm. Nhập khẩu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 4,64 tỷ USD, tăng 39,4% so với năm 2007 và chiếm 33,2% tổng trị giá nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước. Các thị trường chính cung cấp nhóm hàng này cho Việt Nam là: Trung Quốc: 3,77 tỷ USD, tăng 57,4% so với năm 2007; Nhật Bản: 2,48 tỷ USD, tăng 27,5%; Hàn Quốc: 1,02 tỷ USD, tăng 22,6%; Đài Loan: 984 triệu USD, tăng 24,5%,.... - Phân bón các loại: trong tháng nhập khẩu 134 nghìn tấn, tăng 62,7% so với tháng 11. Hết tháng 12/2008, tổng lượng phân bón các loại nhập khẩu vào Việt Nam là 3,03 triệu tấn, giảm 20% so với năm 2007. Đây cũng là nhóm hàng có tốc độ tăng giá cao trong năm 2008 (tăng 84% so với giá nhập khẩu trung bình của năm 2007) nên trị giá nhập khẩu đạt 1,47 tỷ USD, tăng tới 47,3% so với năm 2007. Trung Quốc tiếp tục là thị trường lớn nhất cung cấp phân bón các loại cho Việt Nam với 1,5 triệu tấn, chiếm gần 50% tổng lượng phân bón cả nước nhập về, tiếp theo là Nga: 346 nghìn tấn, Nhật Bản: 199 nghìn tấn,… - Xăng dầu: trong tháng nhập khẩu gần 1,17 triệu tấn, tăng 44,8% so với tháng 11 và trị giá là 443,7 triệu USD. Tính đến hết tháng 12 năm 2008, tổng lượng xăng dầu nhập vào Việt Nam là 12,96 triệu tấn, tăng nhẹ (0,9%) so với năm 2007 và lượng nhập khẩu chỉ đạt 89,4% mức kế hoạch năm. Xăng dầu được xem là nhóm mặt hàng có nhiều biến động về giá nhất trong năm. Giá nhập khẩu nhóm hàng này tăng liên tục trong hai quý đầu năm và đạt đỉnh vào hồi tháng 7, sau đó liên tiếp giảm mạnh và giá nhập khẩu bình quân vào tháng 12 chưa bằng 30% giá của tháng 7. Tuy nhiên, do những tháng đầu năm khi giá cao, chúng ta nhập khẩu nhiều nên giá nhập khẩu bình quân mặt hàng này cả năm tăng 41%, trị giá lên tới 10,97 tỷ USD, tăng 42,2% so với năm 2007. Xăng dầu nhập vào Việt Nam trong năm 2008 chủ yếu từ Singapore với hơn 6,12 triệu tấn, chiếm 47% tổng lượng nhập khẩu mặt hàng này của cả nước, tiếp theo là Đài Loan: 2,6 triệu tấn, Trung Quốc: 516 nghìn tấn,… - Sắt thép: trong tháng nhập khẩu 703 nghìn tấn, tăng tới 215,4% so với tháng trước nâng tổng lượng sắt thép nhập vào Việt Nam trong năm 2008 lên 8,26 triệu tấn, tăng nhẹ (2,9%) so với năm 2007 và chỉ đạt 87% kế hoạch năm.Tính đến hết tháng 12 năm 2008, kim ngạch nhập khẩu sắt thép đạt 6,72 tỷ USD, tăng 31,5%  so với năm 2007. Lượng phôi thép nhập khẩu trong tháng 12 là 274 nghìn tấn, tăng hơn 7 lần so với tháng 11, nâng lượng nhập khẩu cả năm 2008 lên 2,39 triệu tấn, tăng 11,1% so với năm 2007 và hoàn thành được 95,7% kế hoạch năm. Giá nhập khẩu bình quân phôi thép trong năm 2008 là  684 USD/tấn, tăng 33,5% và trị giá đạt 1,64 tỷ USD, tăng 48,3% so với năm 2007. Nhập khẩu sắt thép từ Trung Quốc trong năm qua giảm mạnh 30% trong khi nhiều thị trường khác lại có tốc độ tăng trưởng khá cao như: Nhật Bản tăng 24%, Hàn Quốc 107%, Liên Bang Nga 106%,… - Ôtô nguyên chiếc: trong tháng nhập khẩu hơn 2,66 nghìn chiếc, tăng 73,3% so với tháng trước. Hết năm 2008, tổng lượng ô tô nguyên chiếc nhập về là hơn 51 nghìn chiếc, tăng 68,3% với trị giá là 1,04 tỷ USD, tăng 79,6% so với năm 2007. Ô tô nguyên chiếc chủ yếu được nhập khẩu trong 5 tháng đầu năm (khoảng 72% lượng nhập khẩu cả năm). Do thuế cao và chính sách nhập khẩu đối với nhóm hàng này thắt chặt hơn nên những tháng còn lại của năm lượng ôtô nhập khẩu giảm nhiều. Hàn Quốc tiếp tục là thị trường chính cung cấp ô tô nguyên chiếc cho Việt Nam với 24,17 nghìn chiếc, chiếm tới 7% tổng lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu của cả nước, tiếp theo là Hoa Kỳ: 9,9 nghìn chiếc, Trung Quốc: 7,9 nghìn chiếc, Nhật Bản: 2 nghìn chiếc, … Trị giá nhập khẩu linh kiện ôtô các loại trong tháng là 60,3 nghìn USD, giảm 18,8% so với tháng trước, nâng tổng trị giá nhập khẩu cả năm lên gần 1,4 tỷ USD, tăng 51,9% so với năm 2007. Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: trong tháng nhập khẩu  gần 309 triệu USD, giảm 0,2% so với tháng trước, nâng tổng trị giá nhập khẩu trong năm 2008 lên 3,71 tỷ USD, tăng 25,5% so với năm 2007 và thực hiện được 100,4% kế hoạch năm. Trong đó, nhập khẩu nhóm hàng này theo loại hình nhập để sản xuất hàng xuất khẩu và nhập gia công là hơn 1,83 tỷ USD, chiếm khoảng 50% trị giá nhập khẩu nhóm hàng này. Việt Nam nhập khẩu mặt hàng này chủ yếu từ Nhật Bản với 929 triệu USD, Singapore: 815 triệu USD, Trung Quốc: 654 triệu USD, Hồng Kông: 368 triệu USD, Maylaysia: 252 triệu USD,… - Nhóm hàng nguyên, phụ liệu phục vụ ngành dệt may và da giày: trong tháng nhập 615 triệu USD, giảm nhẹ so với tháng 11, nâng tổng trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong cả năm 2008 lên 8,06 tỷ USD, tăng 13,2% so với cùng kỳ năm 2007. Trong đó, trị giá vải nhập khẩu là: 4,46 tỷ USD, nguyên phụ liệu: 2,36 tỷ USD, bông: 467 triệu USD (300 nghìn tấn) và sợi là 775 triệu USD (414 nghìn tấn). Hết năm 2008, Việt Nam nhập khẩu nhóm mặt hàng này chủ yếu từ các nước Đông Á, trong đó Trung Quốc dẫn đầu với 2,03 tỷ USD, Đài Loan: 1,62 tỷ USD, Hàn Quốc: 1,38 tỷ USD, Hồng Kông: 732 triệu USD, Nhật Bản: 482 triệu USD,… Tổng trị giá nhập khẩu từ 5 thị trường này là 6,24 tỷ USD, chiếm 77%  tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước. - Vàng các loại: trị giá nhập khẩu năm 2008 là 2,73 tỷ USD, tăng 108% so với năm 2007, tập trung vào 5 tháng đầu năm (chiếm tới 98%). Các thị trường chính cung cấp mặt hàng này cho Việt Nam là: Thụy Sỹ là 1,64 tỷ USD, tiếp theo là Hồng Kông: 469 triệu USD, Úc: 341 triệu USD, Anh: 121 triệu USD Nhìn chung, các mặt hàng nhập khẩu chủ lực nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất trong nước đều tăng so với năm 2007. Tuy nhiên, nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất những tháng cuối năm có xu hướng giảm nhiều, đây là một trong những dấu hiệu của sự chững lại trong đầu tư và sản xuất. Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng đang có xu hướng tăng vào các tháng cuối năm cho thấy hàng tiêu dùng nước ngoài đang tạo sức ép lớn lên hàng tiêu dùng của Việt Nam ngay tại thị trường trong nước Thức ăn gia súc và nguyên liệu: trong tháng nhập khẩu 127 triệu USD, tăng 82,4% so với tháng trước, nâng tổng trị giá nhập khẩu mặt hàng này trong năm 2008 lên 1,75 tỷ USD, tăng 48% so với năm trước. Mặt hàng khô dầu đậu tương nhập khẩu trong tháng là 259 nghìn tấn, trị giá 95 triệu USD, nâng lượng nhập khẩu nhóm hàng này cả năm lên 2,31 triệu tấn với trị giá là 1,05 tỷ USD. Giá nhập khẩu trung bình khô dầu đậu tương tăng cao so với năm 2007 (tăng 55%), vì vậy mặc dù lượng nhập khẩu mặt hàng này chỉ tăng 0,8% nhưng trị giá nhập khẩu tăng tới 55,9%. Trong bối cảnh khó khăn nhiều hơn thuận lợi, nhất là suy thoái kinh tế toàn cầu tác động trực tiếp đến nước ta, những thành tựu đạt được trong 2 năm vào WTO là to lớn và cơ bản. Những hạn chế và bất cập tuy còn nhiều nhưng chỉ là khó khăn tạm thời, khó tránh khỏi trong bối cảnh chung của nền kinh tế đang chuyển đổi với điểm xuất phát thấp và bước đầu hội nhập vào WTO. 2.2) TÌNH HÌNH NGOẠI THƯƠNG GIA ĐOẠN 2009-2010 Hoạt động thương mại nói chung về xuất khẩu (XK) nói riêng năm 2009 chịu ảnh hưởng rất lớn từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, làm cho nhu cầu nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam và giá cả quốc tế giảm sút mạnh. Đồng thời, các nước gia tăng các biện pháp bảo hộ mới, đặt ra nhiều hơn các rào cản phi thuế. Do đó, hoạt động xuất khẩu chịu tác động tiêu cực trên cả ba phương diện: (1) đơn đặt hàng ít đi do bạn hàng gặp khó khăn về tài chính, nhu cầu của người tiêu dùng nước nhập khẩu suy giảm; (2) giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dầu thô, than đá, lúa gạo, cao su, cà phê, hạt tiêu, thủy sản... bị sụt giảm mạnh so với năm 2008; (3) các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu gặp khó khăn về vốn và đầu ra, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trước tình hình đó, ngành công thương đã tích cực phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan, các Hiệp hội ngành nghề, các địa phương đề ra nhiều giải pháp tích cực, chủ động tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu, nên phần lớn mặt hàng đã có khối lượng xuất khẩu tăng hơn năm 2008 (lượng XK tăng làm tăng kim ngạch khoảng 1,5 tỷ USD), nhưng do tốc độ giảm giá lớn hơn (khoảng 11 tỷ USD, tương đương giảm 17 - 18% kim ngạch xuất khẩu, trong đó: nhóm nông sản, thủy sản giảm 2,7 tỷ USD; nhóm nhiên liệu khoáng sản giảm 4,6 tỷ USD; nhóm công nghiệp chế biến giảm 3 - 4 tỷ USD) nên tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm bị giảm 9,7% so với năm 2008. Tuy nhiên, mức giảm này cũng là kết quả rất đáng khích lệ so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. QUY MÔ VÀ TỐC ĐỘ XUẤT ,NHẬP KHẨU 2009 Về quy mô xuất khẩu Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá (KNXK) năm 2009 đạt khoảng 56,7 tỷ USD, giảm 9,7% so với năm 2008 và bằng 87,6% kế hoạch . Kim ngạch của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 29,85 tỷ USD, chiếm 52,8% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giảm 13,5% so với năm 2008; của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt  26,7 tỷ USD, chiếm 47,2%. giảm  5,1%, so với năm 2008. Như vậy, kim ngạch xuất khẩu bình quân năm 2009 ước đạt gần 4,72 tỷ USD/tháng, thấp hơn 520 triệu USD so với mức bình quân năm 2008 (5,22 tỷ USD/tháng). Tuy nhiên, nếu loại trừ yếu tố đột biến về thị trường và giá hàng hoá trên thế giới năm 2008, xuất khẩu năm 2009 vẫn có tốc độ tăng khá so với dãy số thời gian của các năm trước:  tăng 74,1% so với năm 2005, tăng 41,8%  so với năm 2006, tăng 16,3% so với năm 2007. Xuất khẩu của khu vực FDI vẫn giữ vị trí quan trọng. Doanh nghiệp FDI tham gia xuất khẩu hầu hết các mặt hàng chủ lực và chiếm tỷ trọng cao trong xuất khẩu nhiều mặt hàng, đặc biệt là nhóm hàng công nghiệp chế biến. Một số mặt hàng khối FDI chiếm tỷ trọng lớn là: túi xách, va li mũ ô dù, hàng dệt may,  giày dép,  điện tử, máy tính, máy móc, thiết bị, dây cáp điện. Nhóm hàng công nghiệp chế biến là nhóm hàng chiếm tỷ trọng cao nhất (63,5%) trong xuất khẩu của Việt Nam hiện nay và tỷ trọng xuất khẩu của FDI cũng chiếm cao nhất. Nếu loại trừ 2 tỷ USD xuất khẩu vàng của khối doanh nghiệp trong nước thì tỷ trọng khối FDI còn cao hơn. Vì vậy, việc đẩy mạnh xuất khẩu năm 2010 và các năm tiếp theo phụ thuộc rất lớn vào khối này. Về nhóm hàng xuất khẩu - Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản ước đạt 12,15 tỷ USD, chiếm 21,5% trong tổng KNXK. So với năm 2008, lượng XK của nhiều mặt hàng nông sản tăng mạnh, như: sắn và các sản phẩm từ sắn tăng gấp 2,2 lần, hạt tiêu tăng 40,2%, chè tăng 21,1%, gạo tăng 18%... nhưng do giá XK bình quân của các mặt hàng đều giảm, như: cao su giá giảm 33,6%, hạt tiêu giá giảm 28,6%, gạo giá giảm 26%, cà phê giá giảm 24,2%... khiến KNXK nhóm hàng này giảm khoảng 7%. - Nhóm khoáng sản ước đạt 8,51 tỷ USD, chiếm 15% trong tổng KNXK. Lượng XK dầu thô giảm 7,9%, giá XK giảm 60% đã làm cho KNXK mặt hàng này giảm khoảng 4,1 tỷ USD so với năm 2008; mặt hàng than đá mặc dù lượng tăng 16,5% nhưng do giá XK giảm nên KNXK giảm khoảng 62 triệu USD so với năm 2008. Tính chung xuất khẩu nhóm khoáng sản giảm 34,1%. ĐỐI VỚI NHẬP KHẨU Với nhiều biện pháp tăng cường kiểm soát để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng không cần thiết hoặc trong nước đã sản xuất được, khối lượng một số hàng hóa nhập khẩu năm 2009 cũng đã giảm hơn năm 2008, tuy nhiên một số loại hàng hóa khác vẫn còn có mức nhập khẩu cao. Do đó, mặc dù giá nhập khẩu giảm nhưng kim ngạch nhập khẩu giảm chậm, dẫn đến mức nhập siêu vẫn còn cao hơn mục tiêu đề ra Tổng kim ngạch nhập khẩu (KNNK) hàng hoá năm 2009 khoảng 68,8 tỷ USD, giảm 14,7% so với năm 2008 (năm 2008 so với 2007 tăng 28,7%), trong đó khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 24,87 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 36,1% tổng KNNK cả nước, giảm 10,8%; Kim ngạch nhập khẩu của khối doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 43,96 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 63,9%, giảm 16,8% so với năm 2008. Nhập khẩu hàng hoá giảm chủ yếu do sản xuất trong nước giảm và giá hàng hóa nhập khẩu cũng giảm hơn năm 2008, nhất là trong những tháng đầu năm. Tuy nhiên, nhập khẩu đã tăng dần trong những tháng cuối năm, do sự phục hồi của nền kinh tế và chính sách kích cầu của Chính phủ có tác dụng, bên cạnh đó có tâm lý tranh thủ nhập khẩu để dự trữ khi giá nhập khẩu thấp. Tính chung cả năm 2009 giá trị nhập khẩu của hầu hết các nhóm mặt hàng là nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu và một số mặt hàng tiêu dùng giảm so với năm 2008, như: nguyên phụ liệu dệt may da giầy giảm 17,8%, gỗ và sản phẩm gỗ giảm 19,1%, chất dẻo nguyên liệu giảm 4,4%, dây điện và cáp điện giảm 20,8%, thuỷ sản giảm 10,1%, dầu mỡ động thực vật giảm 27,4%, clanhke giảm 23%, phôi thép giảm 37,4%... Tuy nhiên, một số mặt hàng có KNNK tăng cao, chủ yếu trong những tháng cuối năm như ô tô nguyên chiếc, rau quả... và việc nhập khẩu vàng đã làm cho tốc độ nhập khẩu tăng cao hơn tốc độ xuất khẩu. Bên cạnh đó, nhập khẩu nhiều mặt hàng phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh cũng tăng mạnh về lượng như: phân bón tăng 41,9%; thép các loại tăng 13,8%; kim loại thường khác tăng 14,8%; sợi các loại tăng 19,5%; chất dẻo nguyên liệu tăng 25,8%; cao su tăng 64,7%; giấy tăng 15,8%... đã làm tăng nhập siêu. - Nhóm hàng cần nhập khẩu (nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị ) đạt 56,76 tỷ USD, giảm 13,2% và chiếm tỷ trọng 82,5% kim ngạch nhập khẩu, giảm 1,4 điểm % so với năm 2008. Lượng nhập khẩu nhiều mặt hàng tăng mạnh, nhưng do giá giảm nên kim ngạch giảm hoặc chỉ tăng nhẹ, cụ thể: lúa mỳ lượng tăng 79,8% nhưng giá giảm 39,8% nên kim ngạch tăng 8,3%; phân bón lượng tăng 41,9% nhưng giá giảm 35,5% nên kim ngạch giảm 8,2%; chất dẻo nguyên liệu lượng tăng 25,8% nhưng giá giảm 23,8% nên kim ngạch giảm 4,1%; cao su các loại lượng tăng 64,7% nhưng giá giảm 51,3% nên kim ngạch giảm 19,9%;... Theo thống kê, lượng hàng hóa nhập khẩu thuộc nhóm nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất tăng mạnh kể từ quý II (quý II tăng 38,3% so với quý I; quý III tăng 6,7% so với quý II và quý IV tăng 3% so với quý III). - Nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu đạt 6 tỷ USD, giảm 36,7% và chiếm tỷ trọng 8,7% kim ngạch nhập khẩu, giảm 3,1 điểm % so với năm 2008  - Nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu đạt 6,06 tỷ USD, tăng 4,4% và chiếm tỷ trọng 8,8% kim ngạch nhập khẩu, tăng 1,6 điểm % so với năm 2008. Tỷ trọng của nhóm hàng này tăng  do nhu cầu nhập khẩu hàng tiêu dùng và ô tô tăng. Về thị trường nhập khẩu, Châu Á vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất là 77,8% KNNK cả nước. Trong đó, từ ASEAN chiếm hơn 19,8%, các nước Đông Á chiếm 53,9%, riêng Trung Quốc chiếm hơn 23,2%. TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU NĂM 2010 Tính đến hết hết năm 2010 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam đạt gần 157 tỷ USD, tăng 23,6% so với năm 2009. Trong đó, trị giá xuất khẩu đạt 72,19 tỷ USD, tăng 26,4% và nhập khẩu là 84,8 tỷ USD, tăng 21,2%. Nhập siêu là 12,61 tỷ USD, bằng 17,5% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tổng trị giá xuất nhập khẩu của khu vực FDI là 70,92 tỷ USD, tăng 41,5% so với năm trước. Trong đó, trị giá xuất khẩu là 34,1 tỷ USD, tăng 41,2% và chiếm 47% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trị giá nhập khẩu của khu vực này là 36,97 tỷ USD, tăng 41,8%, chiếm 43,6% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Một số mặt hàng xuất khẩu chính - Hàng dệt may: kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong tháng 12/2010 đạt gần 1,19 tỷ USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong năm 2010 lên 11,21 tỷ USD, tăng 23,7% so với năm 2009. Trong đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt hơn 6,8 tỷ USD, tăng 25%. Trong năm qua, Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản tiếp tục là 3 đối tác lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam với kim ngạch và tốc độ tăng so với năm 2009 lần lượt là 6,12 tỷ USD và 22,5%; 1,92 tỷ USD và 16,5%; 1,15 tỷ USD và 21%. Tổng kim ngạch hàng dệt may xuất sang 3 thị trường này đạt gần 9,2 tỷ USD, chiếm 82% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. - Giày dép các loại: trong tháng trị giá xuất khẩu đạt 563 triệu USD, tăng 13,5% so với tháng 11, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 lên 5,12 tỷ USD, tăng 26% so với năm trước. - Thuỷ sản: xuất khẩu trong tháng đạt 514 triệu USD, tăng 6,1% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong năm 2010 đạt hơn 5 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2009. Xuất khẩu thuỷ sản của nước ta trong năm 2010 sang EU đạt 1,2 tỷ USD, tăng 7,6%; sang Hoa Kỳ đạt 956 triệu USD, tăng 34,4%; sang Nhật Bản đạt 894 triệu USD, tăng 17,5%; sang Hàn Quốc đạt 389 triệu  USD, tăng 24,2%  so với năm 2009. Tổng giá trị thuỷ sản xuất khẩu sang 4 thị trường này đạt 3,44 tỷ USD, chiếm 68,6% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước. - Dầu thô: lượng xuất khẩu dầu thô trong tháng là hơn 714 nghìn tấn, giảm 0,9%, kim ngạch xuất khẩu đạt 505 triệu USD, tăng 6,7% so với tháng 11/2010. Tính đến hết năm 2010, lượng dầu thô xuất khẩu của nước ta đạt gần 8 triệu tấn, giảm 40,4% và kim ngạch đạt 4,96 tỷ USD, giảm 20% so với năm 2009. Dầu thô của nước ta trong năm 2010 chủ yếu được xuất sang Ôxtrâylia với 2,9 triệu tấn, giảm 13%; sang Malaysia: 1,3 triệu tấn, giảm 28%; sang Singapore: 997 nghìn tấn, giảm 56%; sang Hàn Quốc: 875 nghìn tấn, tăng 4,3%; sang Hoa Kỳ: 594 nghìn tấn, giảm 44%… -  Gạo: xuất khẩu gạo trong tháng đạt gần 500 nghìn tấn với trị giá là 260 triệu USD, tăng 0,5% về lượng và tăng 6,4% về trị giá. Tính đến hết năm 2010, lượng gạo xuất khẩu của nước ta đạt 6,89 triệu tấn, tăng 15,6% và kim ngạch đạt 3,25 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2009. Philippin là đối tác dẫn đầu về nhập khẩu gạo của Việt Nam trong năm qua với 1,48 triệu tấn, giảm 13,6% so với năm trước; tiếp theo là các thị trường: Singapore đạt 539 nghìn tấn, tăng 64,7%; Cuba đạt 472 nghìn tấn, tăng 5%. Mặc dù, xuất khẩu gạo giảm ở thị trường lớn nhất Philippin, nhưng tăng mạnh ở một số thị trường mới nổi như thị trường Inđônêxia đạt 687 nghìn tấn (năm 2009 chỉ là 17,8 nghìn tấn); Bănglađét đạt 359 nghìn tấn (năm 2009 là hơn 5 nghìn tấn);… - Cao su: lượng xuất khẩu trong tháng đạt 101nghìn tấn với trị giá gần 393 triệu USD, tăng 13,3% về lượng và tăng 21,9% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết năm 2010, lượng cao su xuất khẩu đạt 782 nghìn tấn, tăng 6,9% và kim ngạch đạt 2,39 tỷ USD, tăng 94,7% so với năm 2009. Trung Quốc là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu cao su của Việt Nam trong năm 2010 với 464 nghìn tấn, giảm 9% so với năm 2009 và chiếm 59,4% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước. Tiếp theo là Malaixia: 58,9 nghìn tấn, tăng 95,5%; Hàn Quốc: 34,7 nghìn tấn, tăng 22,4%; Đài Loan: 31,9 nghìn tấn, tăng 27,5%; Đức: 27,8 nghìn tấn, tăng 29,9%; … Một số mặt hàng nhập khẩu chính - Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng: trong tháng, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này là 1,38 tỷ USD, tăng 15,7% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2010 lên 13,69 tỷ USD, tăng 8% so với năm 2009. Các thị trường chính cung cấp nhóm hàng này cho Việt Nam là: Trung Quốc: 4,48 tỷ USD, tăng 7,8% so với năm 2009; Nhật Bản: 2,5 tỷ USD, tăng 11,4%; Hàn Quốc: 1,1 tỷ USD, tăng 37,7%; Đức: 906 triệu USD, tăng 11%; Hoa Kỳ: 815 triệu USD, tăng13,8%; Đài Loan: 811triệu USD, tăng 25%,.... - Nhóm hàng nguyên liệu, phụ liệu ngành dệt may, da, giày: trong tháng, nhập khẩu nhóm hàng này là hơn 1 tỷ USD, tăng 5,8% so với tháng 11/2010. Hết năm 2010, nhập khẩu nhóm hàng này đạt 9,8 tỷ USD, tăng 33,6% so với năm 2009. Trong đó, trị giá vải nhập khẩu là: 5,36 tỷ USD, nguyên phụ liệu: 2,62 tỷ USD, xơ sợi dệt: 1,18 tỷ USD và bông là 674 triệu USD. Hết năm 2010, Việt Nam nhập khẩu nhóm mặt hàng này chủ yếu từ thị trường: Trung Quốc dẫn đầu với 3,13 tỷ USD, tăng 50%;  Hàn Quốc: 1,73 tỷ USD, tăng 20,3%; Đài Loan: 1,73 tỷ USD, tăng 17,3%; Hồng Kông: 539 triệu USD, tăng 30%; Nhật Bản: 514 triệu USD, tăng 10,2%… Tổng trị giá nhập khẩu từ 5 thị trường này là 7,63 tỷ USD, chiếm 78%  tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước. - Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: nhập khẩu trong tháng là 545 triệu USD, giảm 0,8% so với tháng trước, nâng tổng trị giá nhập khẩu trong năm 2010 là 5,21 tỷ USD, tăng 31,7% so với năm 2009. Việt Nam nhập khẩu mặt hàng này chủ yếu từ: Trung Quốc với 1,68 tỷ USD, tăng 15%; Nhật Bản: hơn 1 tỷ USD, tăng 22%; Hàn Quốc: 927 triệu USD, tăng gấp 3 lần; Malaysia: 306 triệu USD, tăng 31%;…so với năm 2009. - Sắt thép các loại: lượng nhập khẩu sắt thép trong tháng là 953 nghìn tấn với trị giá gần 517 triệu USD, tăng 15,6% về lượng và giảm 13,9% về trị giá. Hết năm 2010, tổng lượng nhập khẩu sắt thép của cả nước là hơn 9 triệu tấn, trị giá là 6,15 tỷ USD, giảm 6,8% về lượng và tăng 14,8% về trị giá so với năm 2009. Hoạt động xuất nhập khẩu năm 2010 tăng cả về quy mô và tốc độ, xuất khẩu hàng hoá đều vượt mức kế hoạch đề ra. Do sự phục hồi của nền kinh tế nên nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tác có sự tăng trưởng vượt trội, xuất khẩu khu vực FDI tiếp tục duy trì vị trí dẫn đầu trong việc tạo giá trị xuất khẩu, tỷ trọng xuất khẩu FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu vẫn tiếp tục tăng. Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu năm 2010 thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu . Do vậy, tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu đã giảm dần và bảo đảm mục tiêu do Chính phủ đề ra. 2.3) BỨC TRANH NỀN KINH TẾ NƯỚC NHÀ 2 THÁNG ĐẦU NĂM 2011 Thời gian qua, kinh tế nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn. Giá cả một số mặt hàng trên thị trường trong nước và thế giới có xu hướng tăng, thị trường tài chính, tiền tệ biến động phức tạp… đã tác động mạnh đến nền kinh tế. Tuy nhiên, với sự nỗ lực không ngừng của Chính phủ, sự vào cuộc của các bộ, ngành và các địa phương, tình hình kinh tế trong nước 2 tháng đầu năm vẫn giữ vững sự ổn định và có bước tăng trưởng đáng kể. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU Điểm sáng đầu tiên trong bức tranh chung của nền kinh tế 2 tháng đầu năm nay cần phải nhắc đến bước tăng trưởng đáng ghi nhận của nông nghiệp. Xuất khẩu nông sản đạt được những thắng lợi rực rỡ, báo hiệu một năm nhiều thành công để giảm bớt những khó khăn cho nền kinh tế trong nước. Cụ thể, khối lượng xuất khẩu gạo tháng 2 ước đạt 600 nghìn tấn, với giá trị 310 triệu USD. Lượng gạo xuất khẩu 2 tháng đạt 1,1 triệu tấn thu về 592 triệu USD tăng 55,6% về khối lượng nhưng giá trị chỉ tăng 44,5% so với cùng kỳ. Chưa năm nào lượng gạo xuất khẩu giao vào đầu năm lại cao như năm nay. Cùng với đó, cà phê cũng đang là mặt hàng xuất khẩu được giá. Khối lượng xuất khẩu cà phê tháng 2 ước đạt 80 nghìn tấn, giá trị đạt 155 triệu USD, đưa khối lượng 2 tháng lên 225 nghìn tấn và giá trị lên 438 triệu USD, tăng nhẹ (2,2%) về lượng và 40,4% về giá trị so với cùng kỳ. Mặt hàng chè tháng 2 xuất khẩu ước đạt 11 ngàn tấn, với giá trị 16 triệu USD, đưa tổng khối lượng xuất khẩu 2 tháng năm 2011 lên 22 ngàn tấn và giá trị lên 32 triệu USD, so với cùng kỳ về lượng tăng 27,4%, kim ngạch tăng 34,3%. Đối với hạt điều, Việt Nam vẫn giữ được vị trí là nước xuất khẩu đứng đầu thế giới. Ước tháng 2 xuất khẩu hạt điều đạt 10 ngàn tấn với kim ngạch 70 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu 2 tháng đầu năm lên 24 ngàn tấn và giá trị lên 166 triệu USD, tăng 16% về lượng và tăng 55,2% về giá trị so với cùng kỳ. Cùng với nông nghiệp, lĩnh vực công nghiệp cũng đã và đang bứt phá. Giá trị sản xuất công nghiệp hai tháng đầu năm 2011 đạt 130,9 nghìn tỷ đồng, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm 2010. Một số ngành công nghiệp có giá trị sản xuất hai tháng đầu năm tăng cao so với cùng kỳ năm 2010 là: Sản xuất giày, dép tăng 52,1%; sản xuất đồ uống không cồn tăng 48,8%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 28,1%... Cũng trong 2 tháng đầu năm nay, xuất nhập khẩu hàng hóa tiếp tục tăng, tính chung hai tháng đầu năm 2011, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 12,3 tỷ USD, tăng 40,3% so với cùng kỳ năm 2010, trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 5,3 tỷ USD, tăng 40,4%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 7 tỷ USD, tăng 40,1% (Nếu không kể dầu thô thì đạt 6 tỷ USD, tăng 43,3%). Trong hai tháng đầu năm nay, nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt kim ngạch cao hơn cùng kỳ năm 2010 như: Hàng dệt may đạt 2,2 tỷ USD, tăng 54,2%; dầu thô đạt 981 triệu USD, tăng 23,3%; giày dép đạt 925 triệu USD, tăng 37,8%.... Cùng với xuất khẩu có nhiều thuận lợi, trong 2 tháng qua, công tác giải ngân vốn ODA, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài… cũng đạt được nhiều kết quả tích cực. TÌNH HÌNH NHẬP KHẨU Tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam trong nửa cuối tháng 2/2011 là gần 3,4 tỷ USD, tăng 35,4% so với kết quả thực hiện trong nửa đầu của tháng (tương ứng tăng gần 888 triệu USD về mặt số tuyệt đối). Trong đó, kim ngạch nhập khẩu của khu vực FDI là 1,42 tỷ USD, tăng 22,8% và chiếm 42% tổng kim ngạch nhập khẩu trong kỳ 2 tháng 2/2011 của cả nước. So với kỳ 1 tháng 2/2011, một số nhóm hàng có mức tăng kim ngạch nhiều nhất trong kỳ 2 tháng 2/2011 là xăng dầu tăng 128 triệu USD; sắt thép tăng 121 triệu USD; máy móc thiết bị và phụ tùng tăng 83 triệu USD; chất dẻo tăng 60 triệu USD; … Tính từ đầu năm đến hết tháng 2/2011, trị giá hàng hóa nhập khẩu là 14,07 tỷ USD, tăng 30,4% so với cùng kỳ năm 2010. Trong đó, nhập khẩu của khu vực FDI là 5,89 tỷ USD, tăng 30,9% so với cùng kỳ năm 2010 và chiếm 41,8% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước TÊN HÀNG Kim ngạch 2 tháng 2011 Triệu USD So với cùng kỳ năm 2010 Trị giá tăng Triệu USD Tốc độ tăng % Xăng dầu các loại 2,223 360 19,3 Máy móc,thiết bị ,dụng cụ,phụ tùng 1,568 581 58,9 Vải các loại 845 214 33,9 Máy vi tính,linh kiện 840 259 44,6 Chất dẻo,nguyên liệu 826 129 18,5 Sắt thép các loại 645 191 42,1 Đá quý,kim loại và sản phẩm 338 103 44 Kinh tế-xã hội hai tháng đầu năm đạt được một số kết quả tích cực. Sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng khá. Xuất khẩu có nhiều thuận lợi. Kinh doanh phục vụ khách du lịch trong và ngoài nước tiếp tục phát triển. Công tác khắc phục hạn hán và dịch bệnh trong sản xuất nông nghiệp được các địa phương tập trung triển khai tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được như trên, kinh tế-xã hội nước ta đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức lớn. Giá cả một số mặt hàng trên thị trường thế giới có xu hướng tăng. Chỉ số giá tiêu dùng hai tháng đã ở mức cao. Việc điều chỉnh tỷ giá cùng với việc tăng giá xăng, dầu và giá điện trong nước tác động mạnh đến sự tăng giá của một loạt các sản phẩm khác do chi phí đầu vào tăng, gây khó khăn lớn cho việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. STT CHỈ TIÊU I Xuất khẩu hàng hóa (XK) 1 1.1 Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 2/2011 Triệu USD 4,848 2 1.2 Tăng/giảm kim ngạch xuất khẩu của tháng 2/2011 so với tháng 1/2011 (%) -36,1 3 1.3 Tăng/giảm kim ngạch xuất khẩu của tháng 2/2011 so với tháng 2/2010 (%) 30,6 4 1.4 Tổng kim ngạch xuất khẩu 2 tháng/2011 (Triệu USD) 12,195 5 1.5 Tăng/giảm kim ngạch xuất khẩu 2 tháng/2011 so với cùng kỳ năm 2010 (%) 38,6 II Nhập khẩu hàng hóa 6 2.1 Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá tháng 2/2011 (Triệu USD) 5,960 7 2.2 Tăng/giảm kim ngạch nhập khẩu của tháng 2/2011 so với tháng 1/2011 (%) -25,2 8 2.3 Tăng/giảm kim ngạch nhập khẩu của tháng 2/2011 so với tháng 2/2010 (%) 17 9 2.4 Tổng kim ngạch nhập khẩu 2 tháng/2011 (Triệu USD) 14,074 10 2.5 Tăng/giảm kim ngạch nhập khẩu 2 tháng/2011 so với cùng kỳ năm 2010 (%) 25,9 III Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 11 3.1 Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá tháng 2/2011 (Triệu USD) 10,807 12 3.2 Tăng/giảm kim ngạch xuất nhập khẩu của tháng 2/2011 so với tháng 1/2011 (%) -29,6 13 3.3 Tăng/giảm kim ngạch xuất nhập khẩu của tháng 2/2011 so với tháng 2/2010 (%) 22,7 14 3.4 Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 2 tháng/2011 (Triệu USD) 26,269 15 3.5 Tăng/giảm kim ngạch xuất nhập khẩu 2 tháng/2011 so với cùng kỳ năm 2010 (%) 31,5 IV Cán cân Thương mại hàng hoá (XK-NK) 16 4.1 Cán cân thương mại tháng 2/2011 (Triệu USD) 1,112 17 4.2 Cán cân thương mại tháng 2/2011 so với tháng 1/2011 (%) 30 18 4.3 Cán cân thương mại 2 tháng/2011 (Triệu USD) 1,878 19 4.4 Cán cân TM 2 tháng/ 2011 so với tổng kim ngạch xuất khẩu 2 tháng/2011- Tỷ lệ nhập siêu (%) 15,4 Chương III: Những cơ hội và thử thách của kinh tế Việt Nam sau khi gia nhập WTO Kinh tế thế giới phát triển, quốc tế hóa thương mại đòi hỏi các nước phải xóa bỏ rào cản, chấp nhận tự do buôn bán,vì thế mỗi nước phải mở cửa thị trường trong nước, điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng cao sức cạnh tranh của nước đó phù hợp với sự phát triển của thế giới. Do đó, chúng ta phải làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Nhưng làm sao và làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nước ta hiện nay thì đang là một vấn đề đầy khó khăn và đang được nhiều người quan tâm. Việt Nam gia nhập WTO tổ chức thương mại thế giới WTO đã khẳng định quá trình đổi mới, mở cửa hội nhập với nền kinh tế quốc tế, đưa nền kinh tế nước ta tăng tốc và phát triển với nền kinh tế thế giới. 3.1) Cơ hội của Việt Nam khi gia nhập WTO Nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế _Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. _Trước sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, sẽ phải vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cũng sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận các yếu tố đầu vào với chi phí hợp lý hơn, từ đó có thêm cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh không những ở trong nước mà còn trên thị trường quốc tế. Sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO _Môi trường thương mại quốc tế, sau này nhiều nỗ lực của WTO, do đó trở nên thông thoáng hơn. Tuy nhiên, khi tiến ra thị trường quốc tế, các doanh nghiệp của nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại,trong đó có cả những rào cản trá hình núp bóng dưới các cụng cụ được WTO cho phép như: chống trợ cấp, chống bán phá giá… _Tranh thủ thương mại là điều khó khăn mà phần thua thiệt thường rơi về phía nước ta, bởi nước ta là nước nhỏ. Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để đấu tranh với các nước lớn, đảm bảo sự bình đẳng trong thương mại quốc tế. Thực tiễn cho thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động khá hiệu quả và nhiều nước đang phát triển đó thu được lợi ích từ việc sử dụng cơ chế này. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài _Gia nhập WTO sẽ giúp chúng ta có được một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và minh bạch hơn, có sức hấp dẫn hơn đối với đầu tư trực tiếp của nước ngoài. _Gia nhập WTO cũng là thông điệp hết sức rừ ràng về quyết tâm cải cách của nước ta, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư khi bỏ vốn vào đầu tư tại Việt Nam. Ngoài ra, cơ hội tiếp cận thị trường của các thành viên WTO khác một cách bình đẳng và minh bạch theo hướng đúng chuẩn mực của WTO, đó cũng là một yếu tố quan trọng để thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu _Do điều kiện tự nhiên và chi phí lao động rẻ, Việt Nam có lợi thế trong một số ngành, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp và dệt may. Đây là hai ngành được WTO rất quan tâm và đó đề ra nhiều biện pháp để xoá bỏ dần các rào cản thương mại. =>VD: theo Hiệp định Dệt may của WTO (ATC), mọi hạn chế định lượng đối với mặt hàng dệt may được xoá bỏ từ ngày 1/1/2005. Bên cạnh cơ hội, việc gia nhập WTO cùng tạo ra một số thách thức lớn đối với nền kinh tế nói chung và với các doanh nghiệp nói riêng. 3.2) Thách thức của Việt Nam khi gia nhập WTO Sức ép cạnh tranh _Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, loại bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường dịch vụ… sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Đây sẽ là thách thức không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp ở nước ta Tuy nhiên, các doanh nghiệp sẽ không có cách nào khác là chủ động và sẵn sàng đối diện với thách thức này bởi đó là hệ quả tất yếu của sự phát triển, là chặng đường mà mọi quốc gia đều phải đi qua trên con đường hướng tới hiệu quả và phồn vinh. _Riêng đối với khu vực nông nghiệp, việc gia nhập WTO có thể sẽ mang lại khó khăn nhiều hơn bởi chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp khó có thể diễn ra trong một sớm, một chiều. Chính phủ luôn lưu tâm đến yếu tố này trong đàm phán gia nhập WTO và hy vọng kết quả đàm phán cuối cùng sẽ là một kết quả chấp nhận được đối với lĩnh vực nông nghiệp của nước ta. Thách thức của chuyển dịch cơ cấu kinh tế _Một trong những hệ quả tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế là chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực. Dưới sức ép của cạnh tranh, một ngành sản xuất không hiệu quả có thể sẽ phải mất đi để nhường chỗ cho một ngành khác có hiệu quả hơn. _Quá trình này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. =>Đây là thách thức hết sức to lớn. Chúng ta chỉ có thể vượt qua được thách thức này nếu có chính sách đúng đắn nhằm tăng cường hơn nữa tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng cần củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khôi phục những khó khăn ngắn hạn. Thách thức về nguồn nhân lực Thực tế hầu hết các nước gia nhập WTO đều có nền kinh tế phát triển nhanh. Sớm gia nhập WTO, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang quyết tâm phấn đấu, chủ động tạo bước chuyển biến mới về phát triển kinh tế. Nắm bắt thời cơ, vượt qua những thách thức rất lớn, phát huy cao độ nội lực, khai thác tối đa các nguồn lực bên ngoài để tạo thế lực mới cho công cuộc phát triển kinh tế, xó hội, nhất định đất Việt Nam sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, sớm đưa nước ta ra khỏi tỡnh trạng nước kém phát triển vào năm 2010 và trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. _Để quản lý một cách nhất quán toàn bộ tiến trình hội nhập, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo dựng môi trường cạnh tranh năng động và cải cách có hiệu quả nền hành chính quốc gia, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ đủ mạnh xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương. =>Đây cũng là một thách thức to lớn đối với nước ta do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành một nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. _Để nắm bắt cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế, chúng ta đó tập trung đầu tư phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh để hướng vào xuất khẩu như nâng cao chất lượng và giá trị chế biến của các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản; đầu tư công nghệ và quản lý để nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng các mặt hàng xuất khẩu truyền thống như dệt may, da giày…; khuyến khích các ngành hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, có tiềm năng phát triển như điện tử, tin học… Đồng thời, tăng cường công tác xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường quốc tế. Đòi hỏi về an toàn và chất lượng ngày càng gay gắt. _Giới tiêu thụ ngày nay, đặc biệt là thị trường nhập khẩu, được tự do lựa chọn nơi mua hàng và có kiến thức ngày càng cao về chất lượng của nông sản, sẽ đòi hỏi những tiêu chuẩn mới vừa cao về chất lượng và an toàn vệ sinh, vừa nghiêm khắcvề chế độ nuôi trồng và tính bền vững trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên. . Phải đầu tư vốn, phát triển khoa học công nghệ _Chính phủ phải đầu tư cả tiền vốn và kỹ thuật. Điều này không thể làm trong thời gian ngắn mà phải có kế hoạch trung hạn.. Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam nên chuyển hẳn sang sản xuất hàng hóa thay vì sản xuất nhỏ lẻ. _Với những chương trình cụ thể về hướng đầu tư và nguồn vốn đầu tư về các hướng tăng cường năng lực cạnh tranh, phát triển khoa học công nghệ và đầu tư vào nông thôn tạo việc làm và hỗ trợ cho các vùng xa xôi và người nghèo, cải thiện môi trường đầu tư nông thôn, trợ giúp cho các doanh nghiệp nông thôn và các làng nghề. Thiếu thông tin về các thị trường _Các doanh nghiệp của chúng ta thường thiếu thông tin về các thị trường, thiếu hiểu biết về pháp luật thương mại quốc tế. Khi gặp những vấn đề liên quan đến pháp lý, doanh nghiệp phải dựa vào Hiệp hội nhưng trên thực tế, Hiệp hội lại chưa đủ mạnh để bảo vệ doanh nghiệp. Thực tế, số lượng doanh nghiệp cung cấp thông tin cho nông dân còn ít và chưa đáp ứng được nhu cầu của nông dân. _ Đặc biệt, năm 2010, các doanh nghiệp kinh doanh gạo sẽ gặp một số thách thức, bởitheo cam kết WTO, Việt Nam sẽ cho một số doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam, vì vậy sự cạnh tranh là khó tránh khỏi. CHƯƠNG IV: Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động ngoại thương sau khi gia nhập WTO 4.1) Đối với các doanh nghiệp Doanh nghiệp là nhân vật trung tâm của kinh tế thị trường khi chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang, lại càng là nhân vật trung tâm trong mở cửa hội nhập. Khi Việt Nam gia nhập WTO, trong rất nhiều công việc phải làm, các doanh nghiệp cần tập trung làm bốn việc chủ yếu sau đây. Thứ nhất, doanh nghiệp chủ động tỡm hiểu luật chơi của WTO, nghiên cứu kỹ những thỏa thuận về việc gia nhập WTO khi được phổ biến. Luật chơi cơ bản của WTO là cắt giảm thuế quan, xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan (như hạn ngạch, cấp phép xuất - nhập khẩu), xóa bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường, tạo "sân chơi" bình đẳng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, tài sản trí tuệ và bản quyền. Luật chơi đó tạo thuận lợi cho các nước thành viên mở rộng thị trường, thâm nhập thị trường các nước và tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ, kỹ năng quản lý củanước ngoài; tham gia vào quá trình thiết lập các luật chơi mới, xử lý tranh chấp thương mại; thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh; đem lại lợi ích cho người tiêu dùng. Thứ hai, rà soát, sắp xếp lại sản xuất, kinh doanh, n.ng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp được quyết định bởi việc giảm thiểu chi phí sản xuất, kinh doanh. Muốn giảm chi phí sản xuất kinh doanh, phải đổi mới kỹ thuật, thiết bị - công nghệ, tiết giảm chi phí nguyên nhiên vật liệu, nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu chi phí quản lý, chi phớ ngoài sản xuất, chi phớ lưu thông... Thứ ba, coi trọng việc nắm bắt, cập nhật thông tin, đặc biệt là thông tin liên quan đến tiêu thụ, nhất là sự biến động của thị trường thế giới, coi thông tin là lực lượng sản xuất trực tiếp. Thứ tư, đào tạo và nâng cao trình độ nguồn nhân lực, yếu tố nội lực có tầm quan trọng hàng đầu để hội nhập. Việt Nam có lợi thế về số lượng lao động dồi dào, giá cả rẻ, nhưng lợi thế rẻ đang giảm dần, trong khi tỷ lệ lao động đó qua đào tạo cũng rất thấp cơ cấu đào tạo chưa hợp lý; chất lượng đào tạo còn nhiều bấtcập. Doanh nghiệp cần phối hợp với các cơ sở đào tạo để đào tạo, bồi dưỡngnguồn nhân lực cho phù hợp. 4.2) CÁC CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC VÀ CHÍNH PHỦ Về nguyên tắc, WTO không cấm tất cả các hình thức hỗ trợ của Chính phủ. Nhà nước vẫn có thể tiếp tục đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, hỗ trợ nghiên cứu triển khai, khuyến nông, chuyển giao công nghệ, đào tạo giáo dục phát triển nguồn nhân lực. _ Để có thể phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh thực thi các cam kết gia nhập WTO, các ngành hàng và mỗi doanh nghiệp phải chủ động xây dựng và thực thi chiến lược đa dạng hóa thị trường. Bên cạnh việc tập trung vào các thị trường và sản phẩm chủ lực cần đa dạng hóa thị trường và mặt hàng để có thể chủ động phòng ngừa các biến động thường xuyên của thị trường _ Tăng cường hoạt động xây dựng và phát triển thương hiệu cho doanh nghiệp và nhãn hiệu sản phẩm để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm hàng hóa. Việc không có thương hiệu đã dẫn tới giá bán thấp, nhưng để có được thương hiệu và duy trì được hình ảnh tốt đẹp đối với người mua buộc chúng ta phải tuân thủ các quy định và tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế về chất lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm và những quy định về bảo vệ môi trường. _ Phổ biến thông tin về WTO cho doanh nghiệp không chỉ các cam kết của Việt Nam mà các dự báo tác động nhập khẩu và cơ hội về mở rộng thị trường – giảm thuế thị trường nhập khẩu của các nước đối với hàng Việt Nam. _ Nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá nông, lâm sản, nhất là sản phẩm, hàng hoá nôg, lâm sản xuất khẩu nhằm thực hiện các chỉ tiêu kinh tế xã hội cũng như về thương mại của đất nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng hiện nay của ngành nông nghiệp và PTNT trong giai đoạn hội nhập kinh tế hiện nay. Ngoài những nhóm giải pháp trên, Nhà nước cũng cần tập trung vào công tác quy hoạch, hoàn thiện chính sách và thể chế kinh doanh theo hướng minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho các doanh nghiệp cũng như các ngành hàng trong khuôn khổ các biện pháp hỗ trợ cho phép của WTO. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực để tham gia hội nhập một cách hiệu quả nhất. Với những giải pháp đồng bộ và nỗ lực của các bộ, ngành, doanh nghiệp chắc chắn chúng ta sẽ thực hiện thành công chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước. Nền kinh tế Việt Nam sau những năm đầu gia nhập sân chơi quốc tế đã có những bước khởi sắc; chống suy giảm kinh tế,duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý ,được coi là môi tường hấp dẫn thu hút vốn đầu tư nước ngoài,đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao ,cơ cấu các nghành đang có sự chuyển biến rõ rệt đã làm thay bộ mặt của nước nhà và dần có tiếng nói trên thị trường quốc tế.Bên cạnh những thành công thì qua những năm gần đây nền kinh tế vẫn ocn những tồn tại nhất định,lạm phát qua các năm vẫn duy trì hợp lý nhưng nhìn chung giá cả ngày càng tăng và tiềm ẩn nguy cơ gây tái lạm phát cao,những năm gần đây do tình hình thiên tai ,lũ lụt xảy ra liên miên nên cũng đã ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu...vv.Với những thành công đã đạt được đã chứng tỏ sụ điều hành đúng đắn của chính phủ và cùng toàn dân khắc phục những khó khăn trong bước đường hội nhập để đưa nền kinh tế vươn ra tầm thế giới ,hoàn thành mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThư chao hàng.docx
Luận văn liên quan