Đề tài Nội dung chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, liên hệ với thực trạng chi tiêu công ở Việt Nam hiện nay

- Thiết lập hệ thống thông tin minh bạch. Những thông tin tài chính về công việc thực hiện cần được công khai trong các bản báo cáo hằng năm và trong các tài liệu khác. - Chuyển dần từ kiểm soát chi phí đầu vào sang kiểm soát các yếu tố đầu ra. Theo đó, cần chi tiết hóa các kết quả đầu ra. Những kết quả cần được chi tiết hóa trong ngân sách và trong các bản báo cáo tài chính có lien quan, qua đó tạo điầu kiện cho người quản lý thấy trước kết quả thực hiện và giúp cho Chính phủ so sánh được kết quả mục tiêu và kết quả thực tế. - Phải tách bạch giữa người mua và người cung cấp. Đồng thời tăng cường vai trò kiểm soát của thị trường. - Tăng cường kiểm soát bên trong và bên ngoài; tăng cường trách nhiệm giải trình đối với việc sử dụng nguồn lực.

docx43 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5732 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nội dung chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, liên hệ với thực trạng chi tiêu công ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u kém về tài chính và năng lực thi công của nhiều nhà thầu cũng là nguyên nhân chậm tiến độ đầu tư xây dựng công trình. Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng còn nhiều bất cập. Một số văn bản hướng dẫn thực hiện các Luật, Nghị định của Chính phủ về đầu tư, xây dựng, đấu thầu thanh toán vốn chưa được thống nhất và thiếu cụ thể, gây khó khăn cho việc thực hiện ở các đơn vị cơ sở. Việc thông báo giá của các địa phương thường không đầy đủ, và không cập nhật thường xuyên, nên khi lập dự toán các chủ đầu tư phải triển khai thêm nhiệm vụ thoả thuận với địa phương để bổ sung vào thông báo giả, gây lãng phí và chậm trễ trong công tác đấu thầu. Việc tính trượt giá chưa được quy định thống nhất, cũng là nguyên nhân kéo dài thời gian lập, thẩm định và phê duyệt dự án.. Chuẩn bị nguồn lao động: Theo các nhà tuyển dụng, những khuyết điểm của nhiều sinh viên khiến cho doanh nghiệp ngại khi tuyển dụng. Đó là tâm lý hay thay đổi công việc theo ý thích, không có tầm nhìn dài hạn, chỉ nghĩ đến việc làm để kiếm sống hôm nay, dễ nản lòng khi kết quả không như ý muốn và chưa biết cách tự thể hiện. Ngoài các điểm yếu có liên quan đến tâm lý nêu trên, phần lớn sinh viên ra trường còn yếu kém về kỹ năng làm việc và kinh nghiệm thực tế mà một trong các nguyên nhân chính là do chương trình đào tạo ở trường thường nặng về lý thuyết, ít thực hành; không quen làm việc theo nhóm hoặc chưa biết cách diễn đạt, trình bày ý tưởng của mình trước tập thể… Vấn đề đào tạo nghề: Tính đến nay, nguồn nhân lực được đào tạo khoảng 8 triệu người chiếm 21%. Đó là một tỷ lệ còn rất thấp so với yêu cầu. Cũng có nghĩa là, số người chưa qua đào tạo, làm lao động thủ công cũng quỏ lớn, xấp xỉ 80%. Số người chưa qua đào tạo tập trung ở nông thôn nhiều (gần 88% nguồn nhân lực ở nông thôn).. Chuẩn bị kế hoạch vốn đầu tư cho thời kỳ đầu tư kéo dài Các công trình đầu tư phát triển có thời gian đầu tư rất dài, nhiều công trình có vốn nằm khê đọng trong quá trình thực hiện đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lưc tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn. Và quan trọng là chuẩn bị tốt một kế hoạch vốn đầu tư, phải quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư như: 1. Công trình xây dựng trước khi triển khai phải được lập tiến độ thi công xây dựng. Tiến độ thi công xây dựng công trình phải phù hợp với tổng tiến độ của dự án đã được phê duyệt. 2. Đối với công trình xây dựng có quy mô lớn và thời gian thi công kéo dài thì tiến độ xây dựng công trình phải được lập cho từng giai đoạn, tháng, quý, năm. 3. Nhà thầu thi công xây dựng công trình có nghĩa vụ lập tiến độ thi công xây dựng chi tiết, bố trí xen kẽ kết hợp các công việc cần thực hiện nhưng phải bảo đảm phù hợp với tổng tiến độ của dự án. 4. Chủ đầu tư, nhà thầu thi công xây dựng, tư vấn giám sát và các bên có liên quan có trách nhiệm theo dõi, giám sát tiến độ thi công xây dựng công trình và điều chỉnh tiến độ trong trường hợp tiến độ thi công xây dựng ở một số giai đoạn bị kéo dài nhưng không được làm ảnh hưởng đến tổng tiến độ của dự án. Chú ý: Trường hợp xét thấy tổng tiến độ của dự án bị kéo dài thì chủ đầu tư phải báo cáo người quyết định đầu tư để quyết định việc điều chỉnh tổng tiến độ của dự án. 5. Khuyến khích việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng trên cơ sở đảm bảo chất lượng công trình. Chú ý: Trường hợp đẩy nhanh tiến độ xây dựng đem lại hiệu quả cao hơn cho dự án thì nhà thầu xây dựng được xét thưởng theo hợp đồng. Trường hợp kéo dài tiến độ xây dựng gây thiệt hại thì bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại và bị phạt vi phạm hợp đồng. Và các nhà đầu tư cần có chiến lược đầu tư dài hạn về nguồn nhân lực, về đối tác chiến lược, về công nghệ và phải có nguồn tài chính dài hạn có tính ổn định. b.Tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển vào thực hiện dự án đầu tư ở VN Hoàn tất thủ tục triển khai đầu tư: Thực tế quá trình thực hiện DA DTPT ở nước ta thời gian qua diễn ra đã có rất nhiều sai sót, ở cả phía chủ quan và khách quan đã gây ra hậu quả lớn ảnh hưởng tới chất lượng của công trình. Thứ nhất, các công trình xây dựng xin giao đất, cấp đất để được đúng tiến độ thời gian đề ra là rất khó khăn. Nguyên nhân có thể do các bên. Hiện nay trong môi trường đầu tư ở Việt Nam các nhà đầu tư đang phải đối mặt với một “khái niệm” rất mới, đó là “đất sạch”. “Đất sạch” là đất đã bồi hoàn, giải tỏa và tiến hành xây dựng hạ tầng hoàn chỉnh, hiện nay đó là vấn đề nóng phải giải quyết. Các nhà đầu tư thực hiện nghiêm túc chức năng nhiệm vụ của mình trong đầu tư nhưng lại không nhận được sự thiện chí giúp đỡ từ các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương. Nguyên nhân khác, các nhà đầu tư VN còn thiếu kỹ năng và tính chuyên nghiệp trong quá trình chuẩn bị dự án đầu tư. Đối với các DA DT vốn Ngân sách nhà nước rót về cho các tỉnh còn khó khăn thì điều này càng được thể hiện rõ. Chủ đầu tư là các UBND Tỉnh, xã có thể trong suốt nhiệm kỳ thời gian hoạt động của họ chưa từng nhận được một dự án nào hoặc rơi rớt, sự thiếu chuyên nghiệp trong các khâu là điều không thể tránh khỏi. Thực tế cho thấy nhiều dự án được cấp đất nhưng vẫn bỏ không do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan như chậm giải phóng mặt bằng, thiếu vốn, cũng đã thất thoát lãng phí hàng chục tỷ đồng của NN trong khi đó giá thuê đất ở VN được đánh giá là cao trong khu vực và trên thế giới.Chính sự thiếu chuyên nghiệp đó làm kéo dài thời gian chuẩn bị gây ra sự kém hiệu quả trong thực hiện dự án đầu tư. Nhưng sự thiếu hiệu quả trong khâu chuẩn bị thực hiện dự án không chỉ xuất phát từ nguyên nhân chủ quan. Thứ hai, khó khăn trong khâu xin giấy phép XD và các giấy tờ liên quan. Hiện nay các quy định đầu tư xây dựng của Nhà nước nhiều nhưng vẫn còn sơ hở, không phải là một hệ thống ban hành đồng bộ, thường xuyên bị thay đổi, chủ quan duy ý chí và tạo kẽ hở cho người thi hành vi phạm định chế vì lợi ích cá nhân. NN đã ban hành bộ luật Xây dựng nhưng cũng chưa quy định rõ nguyên tắc đầu tư dẫn đến tình trạng phổ biến là tất cả các khâu tham gia trong một công trình đều do một cơ quan quản lý và theo dõi. Việc tổ chức thực hiện đều theo một chu trình khép kín từ khâu thiết kế thi công, đến giám sát đấu thầu, nghiệm thu đều do một bộ một cơ quan quản lý, trọng tài là người cùng đơn vị, hiện tượng “vừa đá bóng vừa thổi còi” thế làm sao đảm bảo khách quan, trung thực được.Cơ chế quản lý phân công công việc chồng chéo, không quy rõ trách nhiệm, thủ tục phiền hà đã tạo nên môi trường cho sự phát sinh tình trạng cục bộ, bản vị, khép kín, hạch sách NĐT. Thứ ba, công tác đền bù giải phóng mặt bằng là khâu chủ đạo nhưng cũng không tránh khỏi tình trạng không hiệu quả. Cơ chế chính sách của NN còn nhiều bất cập đã gây trở ngại không nhỏ cho quá trình đền bù, giải phóng mặt bằng. Giải phóng mặt bằng là vấn đề khó khăn nhất đối với các dự án, chứ không phải là thiếu vốn, 2 nhân tố đảm bảo cho công tác này có hiệu quả là nâng cao nhận thức của người dân trong việc Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế; tiếp đó là hoạt động của chính quyền địa phương khi thực thi phải đúng luật, nghiêm chỉnh. Nếu làm tốt những việc này thì mới có thể giải quyết được những vấn đề rất nan giải, vướng mắc hiện nay liên quan đến đất đai. Nhưng từ phía NĐT cũng góp phần làm chậm quá trình nảy bởi sự non nớt về kinh nghiệm thực hiện. Công tác đền bù giải phóng mặt bằng rất cần sự phối hợp nhịp nhàng của nhà ĐT và chính quyền, UBND sở tạị. Sự chủ động phối hợp của chính quyền địa phương là chìa khóa mở cánh cửa thúc đẩy tiến độ đền bù giải phóng mặt bằng. Đây cũng là kinh nghiệm quý báu cho các nhà đầu tư khi bắt tay chuẩn bị thực hiện dự án. Thiết kế lập dự toán thi công Hiện nay công tác tuyển chọn nhà thầu tư vấn và khảo sát đưa ra dự toán của công trình là 2 bước thực hiện còn nhiều bất cập. Thứ nhất, công tác tuyển chọn nhà thầu tư vấn hiệu quả còn nhiều khó khăn. Đối với các nhà thầu trong nước có một số nhà thầu có chất lượng nhưng đa số còn rất yếu trong kinh nghiệm hoạt động. Do đó sự giúp đỡ của nhà thầu tư vấn đến chủ đầu tư còn thấp. Công tác quan trọng của nhà thầu tư vấn là khảo sát thiết kế, đưa ra tổng mức dự toán hiện nay còn thực hiện cũng kém hiệu quả. Điều đó là rất nguy hiểm cho công tác đấu thầu sau này. Tình trạng chú yếu vẫn diễn ra thường xuyên hiện nay tại các cuộc đấu thầu tại VN là các nhà thầu đưa giá thấp, thắng thầu bằng mọi giá rồi trong khi thi công công trình sẽ đưa ra đủ lý do để tăng vốn cho dự án. Điều đó diễn ra tại hầu hết các tỉnh thành, ngành làm hiệu quả đầu tư xuống rất thấp. Để khắc phục điều đó, việc đưa ra mức tổng dự toán công trình chính xác là rất quan trọng. Thi công xây lắp công trình - Trình độ chuyên môn và năng lực các nhà thầu xây lắp của Việt Nam ngày càng được cải thiện, tiến độ thi công còn chậm - Tồn tại trong công tác đấu thầu. - Nguyên vật liệu sử dụng hiệu quả chưa cao thể hiện trong thất thúat, lóng phớ, - Đội ngũ giám sát và thực hiện thi công công trình còn chưa đáp ứng nhu cầu trong kỹ năng quản lý và trình độ chuyên môn. - Vai trò của chủ đầu tư còn mờ nhạt. - Sự quản lý của các cơ quan chức năng đối các công trình còn buông lỏng. - Lãng phí thất thoát trong đầu tư, nợ đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản. Vận hành khai thác kết quả đầu tư Đầu tư phát triển là một hoạt đông lâu dài mà kết quả của nó là những công trình có tuổi đời kinh tế lâu dài. Vận hành các kết quả đầu tư của giai đoạn thực hiện đầu tư nhằm đạt được các mục tiêu của dự án. Như phần lý luận dã trình bày những kết quả này và mục tiêu của dự án sẽ phụ thuộc trực tiếp vào quá trình tổ chức quản lý hoạt động các kết quả đầu tư. Thực tế có rất nhiều công trình xây dựng cơ bản, từ một vài tỷ đồng đến hàng nghìn tỷ đồng, sau khi hoàn thiện thi công thì không thể đưa vào khai thác ngay chỉ vì thiếu đồng bộ của quy trình đầu tư. Đó là một thực tế yếu kém của về năng lực quản lý ở Việt Nam. Ta có thể đưa ra một vài ví dụ về những trường hợp cụ thể: + Dự án cầu Thanh Trì hiện nay được ghi nhận là dự án cầu lớn nhất Đông Dương, với chiều dài 3084m, rộng 33, m và 6 làn xe chạy (trong đó có 4 làn xe cao tốc với tốc độ cho phép 100km/h). Tổng mức dự toán đầu tư ban đầu 410 triệu USD được khởi công vào năm 2002, theo kế hoạch đến tháng 11 năm 2006 là hoàn tất và thông xe. Nhưng phải đến tận 02/02/2007 bộ Giao Thông vận tải mới chính thức làm lễ “thông xe phần chính của cầu”. Còn các phần khác vẫn nằm trong tình trạng dở dang do còn vướng nhiều nút cỏ trai chưa được giải tỏa không bàn giao mặt bằng đúng tiến độ.Theo đánh giá sơ bộ, với kinh phí đầu tư 410 triệu USD xấp xỉ 6600 tỷVNĐ. Mặc dù nguồn vốn vay chính là ODA của Nhật với lãi suất ưu đãi nhưng cái giá phải trả cho nó là không nhỏ. Nếu lấy lãi suất huy động trái phiếu chính phủ 8%, ước tính con số 6600 tỷ VNĐ sẽ cho số tiền lãi phát sinh là 525 tỷ VNĐ mỗi năm hay tương đương 1 tỷ VNĐ mỗi ngày vốn đã giải ngân. Cầu đã xây xong, chưa đưa vào sử dụng có nghĩa là chưa sinh ra một đồng lợi nhuận nào nhưng sau mỗi ngày lại lãng phí mất 1 tỷ VNĐ. Đó là riêng lẻ một công trình trong khi thực tế thỡ cú hàng trăm công trình khác với tổng số vốn đầu tư hàng nghìn tỷ VNĐ khi hoàn thành không được đưa vào sử dụng ngay.Có thể nói cho dù các công trình với quy mô khác nhau, thời gian đắp chiếu dài ngắn khác nhau nhưng tất cả đều có chung một nguyên nhân là: Sự không đồng bộ trong quá trình triển khai dự án, sự ách tắc trong quá trình giải tỏa bàn giao mặt bằng và sự bất cập của quản lý hành chính. Sự lãng phí thể hiện rõ nhất khi hàng loạt công trình xây dựng đưa vào sử dụng không đạt hiệu quả kinh tế xã hội do không khai thác hết công suất, thiếu nguyên liệu mà chủ yếu là do quy hoạch kém, không đồng bộ, không gắn kết với quy hoạch phát triển ngành, vùng.Như thực trạng nhà máy xay xát lúa gạo cầu Nguyễn, nhà máy chế biếnthủy sản đông lạnh Diêm Điền... sau khi đầu tư xong mới thấy chưa tính hết quy hoạch vùng nguyên liệu cung cấp, yếu tố đầu vào, đầu ra không đảm bảo nên nhà máy không hoạt động được.Hàng loạt cảng biển nhà máy đường... với hàng nghìn tỷ đồng hiện nay không phát huy tác dụng, sắp tới là hàng loạt các khu công nghiệp, sân bay, bến cảng mới và nhiều công trình, dự án nhóm B, ở các địa phương đang được dư luận quan tâm nếu chủ đầu tư không cẩn trọng thì cũng dễ dẫn đến thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản. 2. Chi thường xuyên Số liệu hàng năm 2008 2009 2010 2011 2012 Tổng 252375 326666 403151 546081 649428 2.1 Chi cho các đơn vị sự nghiệp Chi cho sự nghiệp kinh tế Năm 2008 2009 2010 2011 2012 Quyết toán 21193 27208 37632 55212 60870 Đây là khoản chi tiêu dùng phục vụ sản xuất, tạo điều kiện cho các ngành kinh tế hoạt động thuận lợi. Xuất phát từ mục đích hoạt động của các đơn vị sự nghiệp kinh tế không phải là hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận, do đó áp dụng chế độ cấp phát như một đơn vị dự toán Quy mô chi sự nghiệp kinh tế tăng mạnh đã góp phần tích cực trong việc tăng cường các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, bảo vệ thực vật, nghiên cứu và áp dụng nhiều giống mới phục vụ cho nông nghiệp. Ngoài ra, một số chương trình được nghiên cứu triển khai như: đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường đầu ra cho nông sản…Đặc biệt là trong thời gian vừa qua, do tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Chính phủ đã tập trung mọi nỗ lực ngăn chặn, hạn chế suy giảm kinh tế, duy trì sản xuất kinh doanh. Trong đó, giải pháp lớn nhất là về tiền tệ, chính sách miễn, giảm, hoàn các loại thuế. Đặc biệt phải kể tới sự gia tăng mạnh của các khoản chi để nâng cấp cơ sở hạ tầng, phục hồi các công trình đê, kè, giao thông thủy lợi và hầu như năm nào cũng nảy sinh khoản chi khắc phục hậu quả thiên tai. Tuy nhiên do quá trình quản lý và kiểm soát chi không được chặt chẽ nên tình trạng làm thất thoát lãng phí nguồn vốn của Nhà nước hiện vẫn còn tồn tại phổ biến đáng kể là các khoản chi để tu sửa cơ sở hạ tầng trong thời gian vừa qua. Chi cho hoạt động an sinh xã hội Năm 2008 2009 2010 2011 2012 Chi dân số và kế hoạch hóa gia đình 615 710 770 900 970 Chi lương hưu và bảo đảm xã hội 32683 50266 64218 82660 95664 Chi sự nghiệp bảo vệ môi trường 580 850 980 Cùng với sự tăng quy mô của chi ngân sách Nhà nước thì quy mô cho các khoản chi kể trên cũng có chiều hướng tăng lên đáng kể. Chi an sinh xã hội lại càng trở nên bức thiết trong điều kiện nền kinh tế xã hội chịu tác động sâu sắc từ cuộc khủng hoảng kinh tế. Bên cạnh hỗ trợ cho quỹ bảo hiểm xã hội, chi ASXH trong thời gian qua đã góp phần phát huy chức năng đảm bảo xã hội của Nhà Nước thông qua việc hỗ trợ tài chính một cách trực tiếp cho người lao động bằng các khoản chi cứu tế và chi bảo đảm xã hội… Đặc biệt là quy mô các khoản chi cho dân số và kế hoạch hóa gia đình, chi sự nghiệp bảo vệ môi trường ngày càng tăng…qua đó góp phần ổn định công bằng xã hội. Tuy nhiên, do khả năng nguồn thu của ngân sách còn hạn chế định mức trợ cấp cho các đối tượng chính sách hay các khoản chi cho các trại xã hội, chi giúp đỡ các vùng bị thiên tai…vẫn chưa đáp ứng nhu cầu. Mặt khác do quá trình kiểm soát tài chính đối với ASXH chưa chặt chẽ nên hiện tượng tiêu cực, tham ô gây thất thoát lãng phí, trong khi đó nhiều đối tượng chính sách chưa được hưởng những chính sách hỗ trợ đúng chế độ. 2.2 Chi cho quản lý nhà nước NĂM 2008 2009 2010 2011 2012 13200 40557 56129 68.202 87700 Nhà nước cần có các chính sách để: -Hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước hết là các thể chế về kinh tế, về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính. -Xóa bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm rà, gây phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân; hoàn thiện các thủ tục hành chính mới theo hướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân. -Các cơ quan trong hệ thống hành chính được xác định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm rõ ràng; chuyển được một số công việc và dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan nhà nước thực hiện cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận. -Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gọn nhẹ, hợp lý theo nguyên tắc Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, thực hiện chức năng chủ yếu là quản lý vĩ mô toàn xã hội bằng pháp luật, chính sách, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện. Trong tổng chi hành chính Nhà nước thì chi quỹ tiền lương chiếm tỷ trọng lớn nhất. Để phù hợp với biến động của cơ chế thị trường, đồng thời đảm bảo chính sách tiền lương, tiền thưởng phải là động lực nâng cao chất lượng dịch vụ công, do đó nhà nước đã và đang thực hiện nhiều chương trình cải cách tiền lương. 2.3 Chi cho an ninh quốc phòng Năm 2008 2009 2010 2011 2012 Quốc phòng 28500 34800 42700 An ninh 1320 16300 2500 Tình hình chính trị, xã hội trong nước và quốc tế ảnh hưởng đến chi ngân sách cho an ninh quốc phòng. 2.4 Chi sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Chính sách tài chính mà cụ thể là chi sự nghiệp giáo dục đào tạo của Ngân sách Nhà nướcphải nhằm mục đích thúc đẩy sự nghiệp giáo dục đào tạo phát triển. Trong thời gian qua, thực hiện chủ trương đường lối của Đảng va Nhà nước việc phân bổ và sử dụng ngân sách cho giáo dục đào tạo đã có những chuyển biến tích cực Nếu từ năm 91- 95, tỉ trọng chi ngân sách cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo chỉ chiếm bình quân 9% trên tổng chi NSNN và 15% tổng chi thường xuyên thì từ 2006 đến nay con số đó gia tăng và ổn định ở mức tương đối cao: 13 -14% trong tổng chi NSNN và từ 26 - 27% trong tổng chi thường xuyên. Bảng 1: Tình hình chi cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo (Đơn vị: tỷ đồng) Năm 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Tổng chi sự nghiệp giáo dục đào tạo 40182 47280 54060 67330 49375 50816 33000 Cùng với sự phát triển về quy mô và sự nghiệp giáo dục - đào tạo trong thời gian qua đã góp phần đem lại một số thành tựu nhất định trong hệ thống giáo dục đào tạo, cụ thể là: Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, đặc biệt tại các trường dạy nghề, khối đại học. Đời sống của giáo viên được quan tâm hơn qua các bước cải cách về chế độ tiền lương; đặc biệt nhiều địa phương đã thực hiện chính sách đãi ngộ cho giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, sinh viên ngành sư phạm được miễn học phí… Hoàn thành chương trình xóa mù chữ theo đúng mục tiêu Nghị quyết TW2 đề ra đồng thời đang thực hiện triển khai chương trình phổ cập tiểu học trên cả nước, chương trình du học bằng nguồn vốn ngân sách… Trong thời gian qua với chủ trương xã hội hóa giáo dục đã và đang được triển khai mạnh mẽ nhằm mục đích xây dựng cộng đồng trách nhiệm của tất cả tầng lớpnhân dân, mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân tài vật lực trong xã hội để phát triển sự nghiệp giáo dục, góp phần giảm áp lực cho sự nghiệp giáo dục đào tạo, từ đó tạo điều kiện để Nhà nước thực hiện những chương trình trọng điểm của ngành giáo dục. Mặc dù có những chuyển biến tích cực và đóng góp nhất định cho việc phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo trong thời gian qua, tuy nhiên thực trạng quản lý chi sự nghiệp giáo dục đào tạo hiện vẫn tồn tại một số vấn đề cần giái quyết: Quy mô chi sự nghiệp giáo dục – đào tạo vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu, phân bố ngân sách cho giáo dục – đào tạo chưa hợp lý. Hiện nay, định mức phân bổ ngân sách cho giáo dục được căn cứ theo dân số nhằm mục đích tạo sự công bằng về nhịp độ phát triển giữa các vùng, ngoài ra các định mức khác cũng được vận dụng như tỷ lệ học sinh/giáo viên, tỷ lệ chi lương và ngoài lương, có thể nói cách phân bổ ngân sách cho giáo dục theo yêu cầu chỉ tiêu căn cứ trên dân số hiện nay có ưu điểm là đơn giản cho việc tính toán khi thực hiện phân bổ. Tuy nhiên, việc phân bổ như trên hiện đang phát sinh những hạn chế sau: Định mức phân bổ căn cứ theo dân số là một chỉ tiêu mang tính ước lượng khó chính xác vì tình trạng dân di cư giữa các địa phương hiện nay khá phổ biến, thiếu minh bạch trong quá trình phân bổ. Không kích thích được địa phương quản lý số lượng người đi học một cách hiệu quả bởi lẽ trường hợp số lượng trẻ em trong độ tuổi đến trường của địa phương có tăng hay giảm thì cũng không ảnh hưởng đến nguồn tài chính đã được phân bổ. Hệ thống phân bổ hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc phân bổ nguồn tài chính mà chưa đặt ra yêu cầu phải cung cấp một số lượng hàng hóa dịch vụ công là bao nhiêu để đáp ứng nhu cầu thực tế.Mặc dù trong thời gian qua tiền lương đã có cải cách tuy nhiên chế độ tiền lương vẫn chưa là nguồn sống chủ yếu cho những người hưởng lương từ NSNN nói chung và đội ngũ giáo viên vật chất cho đội ngũ giáo viên. Điểm qua một số thành tựu và hạn chế nổi bật của của thực trạng chi sự nghiệp Giáo dục đào tạo ở nước ta từ năm 2006 đến nay cho thấy việc phát huy thành tựu đạt được đồng thời tìm giải pháp thích hợp để khắc phục những hạn chế là yêu cầu khách quan hiện nay để khoản chi của ngân sách thực sựu là động lực góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo của đất nước 2.5 Chi về khoa học - công nghệ. Đây là một trong những khoản chi của ngân sách nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Nếu trong thời gian từ 1991-1995 mức chi binh quân cho khoa học công nghệ và môi trường chỉ chiếm 1 % tổng chi ngân sách Nhà Nước thì từ năm 2006 đến nay tỷ lệ chi khoa học công nghệ tăng gần 2% tổng chi NSNN. Bảng 2: Tình hình chi cho khoa học công nghệ và môi trường Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Chi khoa học công nghệ 3191 3580 3827 4390 4963 Trong thời gian qua, chi cho khoa học công nghệ của Nhà nước đã đáp ứng cho hoạt động nghiên cứu phục vụ trong nông nghiệp như nghiên cứu giống cây trồng vật nuôi, phục vụ trong công nghiệp chế biến, bảo quản sản phẩm nông sản, hải sản…từng bước đưa khoa học công nghệ về nông thôn, miến núi.Ngoài ra một số chương trinh mục tiêu về lĩnh vực công nghệ, môi trường đã được triển khai như chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Khoa học công nghệ và môi trường cũng là một trong những loại hình hoạt động sự nghiệp thuộc cơ chế “khoản 10 đối với khu vực sự nghiệp có thu” theo tinh thần của NĐ 10/2001/NĐ-CP, nếu được triển khai sẽ tạo điều kiện cho các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ tự chủ quản lý tài chính, cụ thể là quản lý lao động và tiền lương Mặc dù đạt được một số thành tựu và có những đổi mới nhất định trong cơ chế quản lý tài chính, song chi khoa học công nghệ và môi trường trong thời gian qua vẫn tồn tại một số vấn đề cần giải quyết: Qui mô chi quá nhỏ so với yêu cầu phát triển kinh tế nên tác động của khoản chi này còn rất hạn chế. Từ quy mô chi còn khiêm tốn nên thu nhập của người lao động làm việc trong khu vực này chưa thỏa đáng, từ đó, vấn đề khuyến khích, thu hút lực lượng chất xám chưa đạt hiệu quả mong muốn. Như vậy, xu hướng chung của kỷ nguyên phát triển kinh tế tri thức hiện nay là tri thức và thông tin đang trở thành nguồn lực trung tâm, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò quyết định đến phát triển kinh tế là nguồn lực mà xã hội cần trân trọng và thực thi những chính sách đãi ngộ tương xứng. 2.6 Chi về y tế Quy mô tổng chi sự nghiệp y tế từ NSNN không ngừng tăng lên qua các năm, bình quân đạt mức 27%/năm. Bảng 3: Tình hình chi về y tế (Đơn vị : tỷ đồng) Năm 2006 2007 2008 2009 Tổng chi về y tế 11346 14660 16643 23360 Với phương châm đa dạng các hoạt động của ngành, xã hội hoá công tác y tế công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân đã tiến một bước dài, bao gồm một hệ thống các cơ sở y tế nhà nước, y tế tư nhân, hướng tới việc phục vụ nhân dân với số lượng nhiều hơn và chất lượng cao hơn, hiệu quả hơn, công bằng hơn. Các chỉ tiêu sức khỏe nhân dân ngày càng được cải thiện rõ rệt. Theo đánh giá của Cơ quan phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), nước ta đứng vào hàng các nước có thành tựu nổi bật về y tế so với tổng sản phẩm quốc dân,6 bệnh truyền nhiễm ở trẻ em trước đây đứng đầu danh sách các bệnh có tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong cao, nay nhờ việc tiêm chủng rộng rãi chúng ta đã thanh toán được bệnh bại liệt, khống chế được bệnh uốn ván sơ sinh, ho gà, bạch hầu. Từ tiêm phòng 6 loại vaccine do ta tự sản xuất chống viêm gan siêu vi trùng và viêm não Nhật Bản, các chương trình phòng chống bệnh sốt rét, bệnh lao, bướu cổ do thiếu iốt, hiễm HIV/AIDS, thanh toán bệnh phong đã đạt những kết quả khả quan. Sức khỏe bà mẹ, trẻ em tiến bộ rõ rệt. Theo số liệu thống kê năm 2007: Tỷ lệ chết mẹ là 0, 5 phần ngàn, tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi là 16 phần ngàn, tỷ lệ trẻ sơ sinh cân nặng dưới 2.500 gam là 5%, tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em cũng ngày càng giảm. Tuổi thọ người dân tăng đáng kể, hiện nay bình quân là 72,4 tuổi. Đến nay cả nước đó có 13.439 cơ sở khám chữa bệnh công, 75 khu điều dưỡng phục hồi chức năng, trên 1.000 phòng khám đa khoa và nhà hộ sinh khu vực, số giường bệnh nằm 1954 là 11, giường cho 100.000 dân, đến năm 1999 đã tăng lên 169 giường cho 100.000 dân. Điều đáng ghi nhận là chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh không ngừng được nâng cao. Các bệnh viện đều được trang bị các loại máy móc dùng trong chẩn đoán và điều trị hiện đại hàng đầu thế giới. Các công nghệ mũi nhọn của y học thế giới đang từng bước được ứng dụng ở nước ta như ghép tạng, mổ nội soi, mổ tim, mổ tách trẻ song sinh, thụ tinh nhân tạo... Bên cạnh các cơ sở y tế nhà nước, một hệ thống y tế tư nhân đã bắt đầu hình thành, bao gồm 19.895 cơ sở hành nghề y, 14.048 cơ sở hành nghề dược, 7.015 cơ sở hành nghề y học cổ truyền, nhiều bệnh viện tư có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần làm giảm bớt sự quá tải ở các bệnh viện nhà nước. Về đào tạo, chúng ta có một hệ thống các trường đại học y, dược phân bổ trên cả nước. Mỗi năm có khoảng trên 2.500 bác sĩ, 200 dược sĩ tốt nghiệp đại học ra trường. Chúng ta đã mở trường đào tạo kỹ thuật viên trung học y dược, trong vòng mấy năm trở lại đây đó đào tạo ở trong nước cán bộ có trình độ cử nhân, chuyên khoa I và II, bảo vệ luận án thạc sĩ và tiến sĩ. Từ chỗ chỉ có số ít cán bộ y tế vào những năm 60 của thế kỷ 20, đến nay đã có 25 vạn người, trong đó có 47 nghìn cán bộ đại học và trên 1.000 cán bộ trên đại học. Chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu lớn trong kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại. Kế thừa và phát huy hiệu quả nhiều bài thuốc, phương thuốc dân gian; thành lập được 2 viện và 48 bệnh viện y học cổ truyền, trên 300 khoa học cổ truyền trong các bệnh viện đa khoa, 8.000 cơ sở hành nghề tư nhân về y học cổ truyền; khám và chữa bệnh bằng y học cổ truyền cho khoảng trên 30% bệnh nhân. Chúng ta có những nhà máy sản xuất thuốc đạt tiêu chuẩn GMP, thị phần thuốc trong nước tăng nhanh, năm 2007 mức sử dụng thuốc khoảng 13 USD/ đầu người, tổng giá trị xuất khẩu thuốc và dược liệu đạt 40 triệu USD. Các nhà máy của Việt Nam đã liên doanh liên kết với các nước sản xuất dụng cụ y tế thông thường, dụng cụ bằng cao su, chất dẻo và lắp ráp một số máy móc hiện đại. Mạng lưới y tế cơ sở đã được xây dựng rộng khắp cả nước, từ Trung ương đến tỉnh, huyện, xã; từ đồng bằng trung du, các vùng xa xôi hẻo lánh đến tận biên giới hải đảo và đang mở rộng khắp thôn xóm bản làng với 11.544 trạm y tế xã, y tế cơ quan xí nghiệp. Nhờ mạng lưới đó nước ta đã thực hiện được nhiều mục tiêu của Tổ chức Y tế Thế giới đề ra. Tuy nhiên chi sự nghiệp y tế vẫn tồn tại một số hạn chế sau: Chi còn dàn trải, không trọng điểm, đặc biệt là những khoản chi nâng cấp trạm xá, phòng khám tại các địa phương vùng sâu vùng xa. Điều này đã dẫn đến thực trạng quá tải cho các bệnh viện trung tâm, do người dân thiếu tin tưởng vào chất lượng phục vụ của các cơ sở y tế địa phương. Mặc dù chính sách tiền lương đã được cải cách từng bước đối với hoạt động sự nghiệp trong đó có ngành y tế, song vẫn chưa đáp ứng yêu cầu mức thu nhập thỏa đáng đặc biệt là chế độ trợ cấp bồi dưỡng cho đội ngũ nhân viên làm việc trong các bệnh viện vẫn còn thấp như trực đêm, trực ca mổ…đó dẫn đến những tiêu cực phí trong ngành y tế đang ngày một gia tăng làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của ngành. 2.7 Chi sự nghiệp văn hóa nghệ thuật - thể dục - thể thao. Trong thời gian qua cùng với quy mô chi Ngân sách nhà nước tăng lên thì khoản chi cho sự nghiệp văn hóa nghệ thuật - thể dục - thể thao cũng không ngừng được cải thiện. Bảng 4: Chi văn hóa thông tin; chi phát thanh, truyền hình, thông tin; và chi thể dục thể thao (Đơn vị : tỷ đồng) Nội dung chi 2006 2007 2008 2009 2010 Chi văn hóa thông tin 718 810 850 980 1510 Chi phát thanh, truyền hình, thông tin 412 530 560 610 740 Chi thể dục thể thao 171 220 237 620 400 (Nguồn : Bộ Tài Chính) Bộ VH, T&DL đã tổ chức Hội nghị tổng kết công tác năm 2009 và triển khai kế hoạch công tác năm 2010 trong hai ngày 28- 29/12/ 2009 với nội dung: sơ kết thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về Văn hóa giai đoạn 2006 - 2010; sơ kết thực hiện đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng phát triển giai đoạn 2011 – 2015 tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình Hành động quốc gia về Du lịch; tổng kết thực hiện Chương trình xúc tiến Du lịch quốc gia năm 2008 - 2009; Tổng kết 10 năm phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Qua đó thấy được một số thành tựu mà nước ta đã được. Bên cạnh những thành tựu đạt được, chi sự nghiệp văn hóa thể thao trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế như: Nhiều dự án chi có quy mô lớn song hiệu quả chưa cao, các chương trình văn hóa nghệ thuật, chương trình khuyến nông, phổ biến kiến thức trong đời sống kinh tế xã hội…chưa được đầu tư đúng mức nhằm nâng cao đời sống tinh thần của người dân địa phương.Nguồn nhân lực của ngành còn bất cập, chưa đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ đặt ra; Việc xây dựng các thiết chế văn hoá ở các cấp nhất là cấp tỉnh, cấp huyện còn chậm; Chưa triệt để thực hiện nếp sống văn minh trong tổ chức đám hiếu, hỷ…hiện tượng tổ chức ăn cỗ kéo dài 2 -3 ngày gây tốn kém, mất trật tự, thậm chí mất an toàn giao thông... Phân bổ các nguồn chi còn đan trải cùng với sự kiểm soát không sâu sát đã dẫn đến hiện tượng thất thoát kinh phí. Các định mức bồi dưỡng, chăm lo sức khỏe cho các vận động viên thể thao, đặc biệt là các vận động viên quốc gia đã từng giành dược những giải thưởng lớn trên trường quốc tế…chưa tương xứng với cống hiến của họ cho nền thể thao nước nhà. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa vẫn còn những mặt hạn chế, tồn tại. Việc triển khai xây dựng phong trào tại một số địa phương chưa được chú trọng đúng mức; hoạt động triển khai thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” ở khu vực cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp còn bị coi nhẹ, nhiều nơi chưa đề ra kế hoạch, chương trình cụ thể để triển khai thực hiện phong trào hoặc đề ra nhưng không được thực hiên hay thực hiện chưa tốt. Trong lĩnh vực xây dựng đời sống văn hóa; tỷ lệ gia đình văn hóa, khu dân cư tiên tiến, làng văn hóa, tổ dân phố văn hóa khá cao, nhưng thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội chưa có chuyển biến rõ rệt nhất là trong khu vực cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, cán bộ, đảng viên.Việc xây cất mồ mả tự phát đốt vàng mã; các biểu hiện thiếu văn hoá nơi sinh hoạt công cộng tăng; trên cùng một địa bàn dân cư, với cùng một đối tượng là toàn bộ người dân sinh sống, đang triển khai quá nhiều phong trào và cuộc vận động do nhiều cơ quan chủ trì, với nhiều nội dung trùng lập nhau, dẫn đến vừa chồng chéo vừa phân tán trong công tácchỉ đạo, triển khai thực hiện, gây lãng phí thời gian, công sức, kinh phí và khó khăn trong việc tổ chức thực hiện, thi đua ở cơ sở. 3.Mối liên hệ giữa lạm phát với chi tiêu công “Lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và liên tục trong thời gian dài”. Các nhà khoa học đã thống nhất có ba nguyên nhân cơ bản gây lạm phát bao gồm: Lạm phát do cầu kéo, tức là tổng cầu (tổng chi tiêu) tăng lên vượt quá mức cung ứng hàng hóa dẫn đến áp lực tăng giá cả dẫn đến lạm phát cả trong ngắn hạn và dài hạn. Lạm phát do chi phí đẩy, tức là do áp lực tăng giá cả sản xuất do tốc độ tăng của chi phí sản xuất vượt quá tốc độ tăng của năng suất lao động xã hội và giảm mức cung ứng hàng hóa của xã hội, làm giá cả đồng loạt tăng. Các nhân tố chủ yếu đẩy chi phí dẫn tới lạm phát bao gồm: Mức tăng tiền lương vượt quá mức tăng năng suất lao động xã hội; lợi nhuận ròng của nhà sản xuất tăng đẩy giá cả tăng; thuế và nghĩa vụ với ngân sách nhà nước (NSNN), giá nội địa của hàng nhập khẩu tăng làm tăng giá hàng nhập khẩu… Lạm phát do hệ thống chính trị không ổn định, xã hội bất ổn, người dân thiếu tin tưởng vào sự điều hành của Nhà nước và đồng tiền bản địa, dùng tiền bản địa mua hàng hóa có thể dự trữ được như vàng, ngoại tệ, bất động sản… để bảo toàn vốn, làm lạm phát bùng phát. Theo như phân tích trên, chi tiêu công tăng đột biến và hiệu quả chi tiêu công thấp sẽ làm gia tăng lạm phát. Về lượng, chi tiêu công tăng đột biến làm tổng cầu tăng đột ngột, tức là làm nảy sinh lý do thứ nhất của lạm phát là cầu kéo. Về chất, chi tiêu công không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp so với kỳ vọng của chính phủ, hoặc hiệu quả chi đầu tư công thấp so với hiệu quả đầu tư toàn xã hội (Icor tăng cao), làm tăng chi phí xã hội là nguyên nhân đẩy chi phí sản xuất - nguyên nhân thứ hai gây lạm phát gia tăng. Khi chi tiêu công tăng về số lượng mà chất lượng chi tiêu giảm sẽ khiến người dân nghi ngờ khả năng quản lý kinh tế của chính phủ và tẩy chay đồng tiền bản địa, từ đó gia tăng tích trữ bằng cách mua sắm các tài sản như vàng, bất động sản… nhằm bảo toàn vốn, làm nảy sinh nguyên nhân thứ ba gây lạm phát. Thực trạng mối quan hệ giữa chi tiêu công và lạm phát ở Việt Nam Lạm phát thực sự đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ, doanh nghiệp và người dân. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến tháng 4/2011, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam đã tăng tới 9,4%, đã cao hơn mục tiêu kiềm chế ở 7% mà Quốc hội thông qua đầu năm. Trong thời gian qua, lạm phát của Việt Nam luôn cao hơn một cách bất thường so với các nước trong khu vực. Trong khi ở các nước này nhìn chung mức lạm phát luôn thấp hơn mức tăng trưởng GDP (cụ thể là hầu hết đều dưới 5%) từ năm 2004 đến nay, thì lạm phát ở Việt Nam luôn cao hơn tăng trưởng GDP, nguyên nhân cơ bản của lạm phát ở Việt Nam chính là yếu tố tiền tệ. Nói một cách khác nguồn vốn đã không được sử dụng hiệu quả do: đầu tư công quá mức; sự thiên lệch trong việc phân bổ vốn ở khu vực doanh nghiệp; và cuối cùng là việc theo đuổi chính sách ổn định tỷ giá đồng tiền trong bối cảnh lạm phát luôn tăng cao làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Giai đoạn 2008 – 2011, Chính phủ Việt Nam gia tăng cả chi thường xuyên và chi đầu tư với tốc độ cao. Khi chúng ta muốn tăng 1% hoặc 2% GDP thì phải tốn kém rất nhiều tiền. So sánh với các nước, chúng ta thấy Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng trên 10% nhưng tốc độ tăng tín dụng chỉ khoảng 17-18%; Malaysia có tốc độ tăng trưởng kinh tế 5-6% nhưng tốc độ tăng trưởng tín dụng chỉ 7-8%; đối với Việt Nam, tốc độ tăng trưởng tín dụng phải tới 30%, thậm chí có những năm trên 50% mới đạt được tốc độ tăng trưởng trên 7%. Nhưng trên thực tế, nhà nước đã tham gia quá nhiều vào các hoạt động kinh tế và nhiều khi còn cạnh tranh và chèn lấn khu vực tư nhân. Cũng liên quan đến đầu tư công, chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Cung- Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương bổ sung thêm: “Lạm phát của Việt Nam bắt nguồn từ mô hình tăng trưởng và cách thức mà chúng ta sử dụng để đạt được mục đích tăng trưởng. Tăng trưởng của chúng ta cho đến nay chủ yếu vẫn dựa vào mở rộng đầu tư, nhưng đầu tư nhìn chung lại kém hiệu quả, nhất là đầu tư nhà nước.” Trên thế giới, minh bạch là một trong yếu tố quan trọng để xác định việc quản trị/ quản lý chi tiêu công. Tại VN, yếu tố minh bạch đó lại khá mơ hồ, nếu không muốn nói là tuy có con số rất cụ thể về các khoản chi tiêu của các cấp chính quyền, các đơn vị quản lý hành chính, đơn vị sự nghiệp được kiểm soát và tài trợ của Chính phủ, nhưng việc xác định, đánh giá thực chất và hiệu quả của các khoản chi đã được rót ra và được Quốc hội thông qua hàng năm, vẫn phải cần một… “độ trễ” nhất định. . Để xác định lượng hàng hóa mà nhà nước cung cấp thông qua các khoản chi mà khu vực tư không thể tự cấp được ra xã hội có chất lượng ra sao, bao giờ người ta cũng phải chờ một “độ trễ”. Điển hình là các khoản chi cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong một thời gian dài, nền kinh tế duy trì hình thức đầu tư xây dựng BT (xây dựng - chuyển giao hay còn gọi là đổi đất lấy hạ tầng) khiến tình trạng tiêu cực trong cơ chế xin – cho tràn lan. Việc sử dụng nguồn vốn ODA sai mục đích hoặc chưa đạt hiệu quả như mong muốn cũng xảy ra. Tổng kết thời kỳ 2006 - 2010 về việc huy động vốn từ nguồn ODA cho phát triển cơ sở hạ tầng và kinh tế cả nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá: Do có nhiều dự án trong cùng một ngành/lĩnh vực với quy mô nguồn vốn tài trợ khác nhau đều đòi hỏi phải thực hiện các quy trình và thủ tục chuẩn bị, thẩm định và phê duyệt dự án như nhau, điều này làm gia tăng chi phí giao dịch và quá tải cho những đơn vị quản lý, nhất là cấp cơ sở, nơi năng lực quản lý dự án còn nhiều bất cập. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến thất thoát nguồn vốn chi NSNN, khiến hệ số đầu tư trong nền kinh tế luôn ở mức quá cao trong khi hiệu quả sử dụng các nguồn vốn lại khá thấp. II.NGUYÊN NHÂN Chi thường xuyên tăng đều đặn hàng năm và ở mức cao là do: - Phương thức lập dự toán NSNN chưa đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả trong chi thường xuyên. Việt Nam lập dự toán chủ yếu dựa theo các yếu tố đầu vào và theo khuôn khổ hàng năm; việc lập dự toán theo kết quả đầu ra còn gặp nhiều khó khăn, các yếu tố trong trung hạn còn ít được tính tới và khả năng lượng hoá gắn với cam kết chi còn yếu. - Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang dần hoàn thiện, các yếu tố chính trong đầu vào của sản xuất như năng lượng, nhân công… dần đi theo quy luật của thị trường, tức là thoát khỏi bao cấp, dẫn tới giá cả các loại hàng hóa đầu vào như điện, xăng, dầu, tiền lương… tăng cao. - Khối lượng và chất lượng dịch vụ công mà dân chúng đòi hỏi ngày càng tăng. Chi đầu tư tăng cao là do: - Việt Nam vừa thoát khỏi hàng ngũ các nước có thu nhập thấp và trở thành nước có thu nhập trung bình. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở hạ tầng yếu kém, kiến trúc thượng tầng chưa cao, để đạt mục tiêu đến năm 2020 cơ bản thành nước công nghiệp, Việt Nam đang đầu tư vào cơ sở hạ tầng với khối lượng vốn khổng lồ. - Giá cả thế giới tăng cao, tỷ giá tăng làm cho các yếu tố đầu vào của chi đầu tư phát triển tăng nhanh, đặc biệt là công nghệ, nhân lực chất lượng cao, nguyên nhiên vật liệu - Hiệu quả chi đầu tư ngày càng giảm, biểu hiện chủ yếu ở chỉ số Icor của Việt Nam ở mức cao và chưa có xu hướng giảm: nếu như trong giai đoạn 1991 – 1995, hệ số ICOR là 3, thì đến giai đoạn năm 2007 – 2008, hệ số này là 6, 5; năm 2009, hệ số ICOR tăng vọt lên 8; năm 2010, hệ số này giảm xuống còn 6, 8 và năm 2011 là 5, 5 nhưng vẫn còn cao hơn nhiều so với khuyến cáo của WB (đối với một nước đang phát triển, hệ số ICOR chỉ nên ở mức 3). So sánh với các nước trong khu vực, ICOR của Việt Nam gần gấp đôi, có nghĩa là hiệu suất đầu tư chỉ bằng một nửa. Nguyên nhân chi tiêu công không hiệu quả Quản lý tài chính công được thực hiện theo 4 nguyên tắc cơ bản sau: Nguyên tắc hiệu quả: Là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong quản lý tài chính công. Hiệu quả thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội. Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế là hai nội dung quan trọng phải được xem xét đồng thời khi hình thành một quyết định hay một chính sách chi tiêu ngân sách. Nguyên tắc thống nhất: thống nhất quản lý bằng pháp luật là nguyên tắc không thể bỏ qua trong quản lý tài chính công. Thực hiện nguyên tắc này sẽ đảm bảo tính bình đẳng, công bằng, hiệu quả, hạn chế những tiêu cực, nhất là những rủi ro có tính chất chủ quan khi quyết định các khoản chi tiêu. Nguyên tắc tập trung dân chủ: tập trung dân chủ đảm bảo cho các nguồn lực của xã hội được sử dụng tập trung và phân phối hợp lý. Các khoản đóng góp của dân thực sự phải do dân quyết định chi tiêu nhằm đáp ứng mục tiêu chung của cộng đồng. Nguyên tắc công khai, minh bạch: thực hiện công khai minh bạch trong quản lý sẽ tạo điều kiện cho cộng đồng có thể giám sát, kiểm soát các quyết định về thu, chi tài chính, hạn chế những thất thoát và bảo đảm tính hiệu quả. Việc chi tiêu công không hiệu quả là do vi phạm các nguyên tắc căn bản trên Chi đầu tư công không hiệu quả Đầu tư công bằng nguồn vốn nhà nước, bao gồm: Vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và các vốn khác do Nhà nước quản lý để Nhà nước thực hiện những chức năng cơ bản của mình. Trước hết là do phân cấp đầu tư quá rộng, lại thiếu các biện pháp quản lý đồng bộ dẫn tới tình trạng bộ, ngành, địa phương… phê duyệt quá nhiều dự án vượt khả năng cân đối vốn ngân sách nhà nước. Do đầu tư phân tán, vốn được phân bổ vào quá nhiều dự án nên các dự án thường bị thiếu vốn và kéo dài tiến độ, làm tăng chi phí đầu tư và chậm đưa công trình vào sử dụng, gây lãng phí. Tình trạng các địa phương cùng cạnh tranh để thu hút đầu tư công dẫn đến đầu tư dàn trải, phân tán, manh mún và hiệu quả đầu tư không cao Thiếu và yếu về quản lý, giám sát “Nhiều gói thầu khi triển khai thi công không đủ nguồn lực đáp ứng yêu cầu về tiến độ và chất lượng; chợ xây xong không có người sử dụng, khu công nghiệp không có nhà ở cho công nhân, nhiều biệt thự ở các khu đô thị mới bỏ hoang, nhưng lại thiếu trường học, bệnh viện, trường mẫu giáo… cho thấy nguồn vốn đổ vào các dự án này bị lãng phí nghiêm trọng.. Số lượng dự án được kiểm tra, thanh tra, kiểm toán hiện nay rất ít so với tổng số dự án, tổng số vốn đầu tư. Các cuộc thanh tra, kiểm tra các công trình cho thấy, nhiều dự án có sai phạm trong khâu lập thủ tục đầu tư, thiết kế, đấu thầu, sử dụng vốn đầu tư sai mục đích, nghiệm thu, thanh toán khống, quyết toán sai so với khối lượng thực tế đã thi công, đơn giá, định mức gây thất thoát, lãng phí vốn đầu tư. III.GIẢI PHÁP Cung cách quản lý tập trung, quan liêu là đặc tính của hệ thống lập ngân sách theo truyền thống mà kết quả của nó là nguồn lực chi tiêu công sử dụng kém hiệu quả và hiệu lực, các cơ quan nhà nước không chịu trách nhiệm về hàng hóa, dịch vụ công cung cấp cho xã hội. Những người quản lý và sử dụng ngân sách hoạt động trong một môi trường bị kiểm soát hết sức cứng. Những công cụ truyền thống để thực hiện kiểm soát là định mức và khoản mục hóa các khoản chi tiêu, mua sắm đầu vào. Thế nhưng, chính sự kiểm soát đầu vào đã gây ra tính không hiệu quả trong hoạt động bởi vì nó không khuyến khích tiết kiệm, không tạo ra sự gắn kết giữa khối lượng chi tiêu với khối lượng đầu ra. Từ những hạn chế đó, để nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động, quản lý chi tiêu công đòi hỏi: Tôn trọng kỷ luật tài chính tổng thể Đối với một nền kinh tế, nguồn lực tài chính cung ứng để thoả mãn nhu cầu là có hạn, nếu để chi tiêu ngân sách gia tăng sẽ dẫn đến những hậu quả: Gia tăng gánh nợ của nền kinh tế trong tương lai; Gia tăng gánh nặng về thuế; Phá vỡ thế cấn bằng kinh tế, đó là cân bằng về tiết kiệm- đầu tư cân bằng cán cân thanh toán, từ đó ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cần thiết phải giữ kỷ luật tài chính tổng thể để ổn định kinh tế vĩ mô. Kỷ luật tài chính tổng thể trước hết yêu cầu giới hạn tổng chi tiêu công phải được thiết lập dựa vào các chỉ tiêu tổng thể vĩ mô như: quy mô GDP; tỷ suất thu / GDP; sự gia tăng chi hằng năm trong tổng GDP; tỷ lệ nợ/GDP; tỷ lệ tiết kiệm đầu tư/GDP; mức độ thâm hụt cán cân thanh toán…Giới hạn tổng chi tiêu ngân sách phải được tăng cường trong suốt quá trình thực hiện ngân sách và được duy trì , giữ vững ổn định trong dài hạn.Thứ đến, nó yêu cầu chi ngân sách phải được dùng thiết lập một cách độc lập và trước khi ra quyết định chi tiêu từng phần( từng khoản mục chi tiêu ngân sách). Việc xây dựng một khuôn khổ tài chính luôn luôn là trách nhiệm của các cơ quan trung ương. Trần chi tiêu tài chính tổng thể nên đưa vào các cuộc thảo luận của Chính phủ để phân tích hợp lý của chính sách tài chính trong những năm ngân sách tiếp theo. Trong quá trình lập kế hoạch, mức trần có thể được điều chỉnh sao cho phù hợp với thực tiễn kinh tế xã hội, nhưng sự điều chỉnh được kiềm chế ở mức tối thiểu để đảm bảo tính minh bạch. Sau khi trần chi tiêu tổng thể đã được cơ quan lập pháp phê duyệt, các cơ quan hành pháp phải tăng cường các biện pháp để thực thi và thường xuyên kiểm tra chi tiêu thực tế trong suốt quá trình chấp hành ngân sách nhằm phát hiện sớm những điểm gây áp lực đến mức trần chi tiêu tổng thể. Một sự ràng buộc quan trọng nữa đối với những người hoạch định chính sách là yêu cầu họ phải tổng hợp tất cả các khoản chi tiêu thực tế vào dự toán ngân sách trong suốt quá trình chấp hành ngân sách và công khai khi kết thúc năm ngân sách. Tính toàn diện và minh bạch là những điều kiện cần thiết cho kỷ luật tài chính tổng thể hữu hiệu. Phân bổ nguồn lực tài chính theo những ưu tiên chiến lược Sau khi đã xác định tính kỷ luật tài chính tổng thể, vấn đề quan trọng trong quản lý chi tiêu công là làm thế nào để ưu tiên hóa những nhu cầu hay mục tiêu có tính cạnh tranh với nguồn lực tài chính khan hiếm. Nói khác đi, đối với một nền kinh tế, do nguồn lực tài chính là có giới hạn, cho nên chính phủ cần phải đánh đổi và lựa chọn giữa các mục tiêu chiến lược trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội. Thử thách ở đây là cấu trúc sắp xếp thể chế như thế nào để tạo ra động lực cho sự phân bổ nguồn lực theo các hướng ưu tiên chiến lược chặt chẽ và nâng cao chất lượng thông tin cần thiết để thực hiện điều đó có hiệu quả . Chuyển sang lập kế hoạch dài hạn với những giới hạn ngân sách bằng việc xây dựng khuôn khổ chi tiêu trung hạn nhằm ràng buộc các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương sử dụng các nguồn lực tài chính phải gắn liền với các ưu tiên tổng thể của quốc gia. Trong năm 2002, dưới sự hỗ trợ của UNDP (dự án VIE/96/028) Chính phủ đã bắt đầu thực hiện thí điểm xây dựng khuôn khổ chi tiêu trung hạn trong ngành giáo dục - đào tạo. Trên cơ sở kinh nghiệm tích lũy được từ việc thực hiện thí điểm này, Chính phủ cần triển khai rộng rãi cho các ngành khác. Từng bước chuyển quản lý ngân sách theo đầu vào sang quản lý ngân sách theo đầu ra. Một khi đã thay đổi quy trình lập ngân sách theo khuôn khổ chi tiêu trung hạn, thì phương thức quản lý ngân sách cũng phải có những thay đổi nhất định cho tương hợp. Quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra là một hoạt động quản lý dựa vào cách tiếp cận thông tin đầu ra qua đó giúp cho chính phủ và các cơ quan sử dụng ngân sách phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính hiệu quả và hiệu lực hơn. So với phương quản lý ngân sách theo đầu vào, quản lý ngân sách theo đầu ra có nhiều ưu điểm. Trong năm 2002, Chính phủ đã thực hiện mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước (theo QĐ 192/2001 ngày 17.12.2002). Cũng cần thấy rằng, cơ chế khoán chi này chỉ là bước đi ban đầu của quá trình chuyển đổi cung cách quản lý ngân sách theo đầu vào sang quản lý ngân sách theo đầu ra. Do đó, việc thiết lập hoàn chỉnh một quy trình quản lý ngân sách theo đầu ra trong thời gian tới là rất cần thiết (bao gồm quy trình lập, đánh giá, hệ thống báo cáo). Phát triển hệ thống thông tin quản lý tài chính và hệ thống kế toán công. Những vấn đề này là trong số các yếu tố cơ bản góp phần làm nâng cao năng lực của chính phủ để phân phối và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả và hiệu lực. Để tạo ra những thông tin đáng tin cậy và kịp thời, đòi hỏi phải có hệ thống kế toán và luật lệ hợp lý, hệ thống thông tin quản lý tài chính hoạt động hữu hiệu, cũng như năng lực kiểm soát và đánh giá của bộ máy hành pháp. Chức năng kiểm toán bên ngoài và sự độc lập của nó là yếu tố quan trọng trong việc sắp xếp thể chế nhằm tăng cường hoạt động kiểm tra và giám sát. Một khi bộ phận hành pháp soạn, lập xong ngân sách, thì những giải pháp chọn lựa chính sách để thực hiện ngân sách phải được trình bày trước cơ quan lập pháp nhăm tăng tính giám sát và hiệu lực. Giám sát việc thực hiện chính sách trong suốt thời gian điều hành ngân sách là trách nhiệm của mỗi bộ ngành. Kết quả hoạt động – tính hiệu quả và hiệu lực. Chiến lược này đòi hỏi Nhà nước phải cung cấp hàng hóa công với mức chi phí hợp lý để đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Để làm được điều này, đòi hỏi phải: - Người quản lý được trao quyền tự chủ trong việc điều hành hoạt động của họ và nâng cao tính chịu trách nhiệm của họ về kết quả. Những kết quả cần được chi tiết hóa trong ngân sách và trong những kế hoạch tài chính có liên quan, qua đó tạo điều kiện cho những người quản lý thấy trước kết quả thực hiện và giúp cho chính phủ so sánh được kết quả mục tiêu và kết quả thực tế - Người quản lý có đủ năng lực và chủ động đề ra những giải pháp làm giảm chi phí hoạt động và nâng cao khối lượng hoặc chất lượng đầu ra cung cấp cho xã hội. - Tạo ra những đòn bầy kinh tế khuyến khích người quản lý cải thiện và nâng cao chất lượng hoạt động. Các thể chế cần thiết để nâng cao hiệu quả quản lý chi tiêu công là: - Cần giới hạn chi phí hoạt động. Những người quản lý nên được trao quyền tự chủ rộng rãi trong việc sử dụng nguồn lực tài chính. Thực hiện tốt chế độ khoán chi để người quản lý chủ động trong phân bổ nguồn lực và tạo động lực kích thích tiết kiệm chi phí và nânh cao kết quả hoạt động. Đồng thời, cần tăng cường chế độ khuyến khích vật chất và chịu trách nhiệm vật chất của người quản lý. - Thiết lập hệ thống thông tin minh bạch. Những thông tin tài chính về công việc thực hiện cần được công khai trong các bản báo cáo hằng năm và trong các tài liệu khác. - Chuyển dần từ kiểm soát chi phí đầu vào sang kiểm soát các yếu tố đầu ra. Theo đó, cần chi tiết hóa các kết quả đầu ra. Những kết quả cần được chi tiết hóa trong ngân sách và trong các bản báo cáo tài chính có lien quan, qua đó tạo điầu kiện cho người quản lý thấy trước kết quả thực hiện và giúp cho Chính phủ so sánh được kết quả mục tiêu và kết quả thực tế. - Phải tách bạch giữa người mua và người cung cấp. Đồng thời tăng cường vai trò kiểm soát của thị trường. - Tăng cường kiểm soát bên trong và bên ngoài; tăng cường trách nhiệm giải trình đối với việc sử dụng nguồn lực.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxtai_chinh_hoc_3_1__7016.docx