Đề tài Tăng cường công tác thanh tra thu chi ngân sách nhà nước tỉnh Đồng Nai

MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 2 1. Sự cần thiết của đề tài 2 2. Mục tiêu nghiên cứu 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5 4. Phương pháp nghiên cứu 5 5. Kết cấu của luận văn 5 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC THANH TRA 6 1.1. Quan niệm về công tác thanh tra 6 1.1.1. Khái niệm về thanh tra 6 1.1.2. Đặc điểm và vai trò của công tác thanh tra 7 1.1.3. Mục tiêu của công tác thanh tra 8 1.2. Phân loại hoạt động thanh tra 10 1.2.1. Thanh tra hành chính 11 1.2.2. Thanh tra chuyên ngành 11 1.3. Công tác thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước 12 1.3.1. Khái niệm thanh tra thu chi ngân sách nhà nước 12 1.3.2. Nội dung của thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước 13 1.3.3. Mục tiêu của thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước 16 1.3.4. Yêu cầu về nguyên tắc công tác thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước 17 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THANH TRA THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỈNH ĐỒNG NAI 18 2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, dân số, kinh tế xã hội của tỉnh Đồng Nai 18 2.1.1. Về điều kiện tự nhiên, dân số, tiềm năng và thế mạnh 18 2.1.2. Về kinh tế, xã hội 19 2.1.3. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 21 2.2. Tổ chức, bộ máy thanh tra trên địa bàn tỉnh Đồng Nai 22 2.2.1. Các cơ quan hành chính và các cơ quan chuyên môn 22 2.2.2. Tổ chức bộ máy thanh tra tỉnh Đồng Nai 24 2.3. Thực trạng về thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước tỉnh Đồng Nai 24 2.3.1. Những quy định của pháp luật hiện hành về công tác thanh tra 24 2.3.2. Những cơ quan có chức năng thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước 27 2.3.3. Tình hình thu chi ngân sách nhà nước tỉnh Đồng Nai 28 2.3.4. Kết quả thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước tỉnh Đồng Nai 31 2.3.4.1. Những thành tựu đã đạt được 31 2.3.4.2. Những dạng sai phạm phát hiện qua thanh tra 34 2.3.5. Những hạn chế, tồn tại về công tác thanh tra 40 2.3.5.1. Những hạn chế, tồn tại 40 2.3.5.2. Nguyên nhân khách quan 42 2.3.5.3. Nguyên nhân chủ quan 44 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THANH TRA THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỈNH ĐỒNG NAI 46 3.1. Những yêu cầu phải tăng cường công tác thanh tra thu chi ngân sách nhà nước tỉnh Đồng Nai 46 3.1.1. Yêu cầu từ việc nâng cao chức năng quản lý nhà nước 47 3.1.2. Yêu cầu từ mục tiêu kinh tế xã hội 48 3.1.3. Yêu cầu từ công cuộc phòng chống tham nhũng 49 3.1.4. Yêu cầu từ quá trình hội nhập 49 3.2 Các giải pháp tăng cường công tác thanh tra thu chi ngân sách nhà nước tỉnh Đồng Nai 51 3.2.1. Nhóm giải pháp tăng số lượng cuộc thanh tra 51 3.2.1.1. Bổ sung quyền và nhiệm vụ cho Thanh tra tỉnh, đẩy mạnh công tác thanh tra hành chính của các cơ quan thanh tra sở, ngành ở cấp tỉnh. 51 3.2.1.2. Tăng cường nhân sự cho các tổ chức thanh tra 52 3.2.1.3. Xây dựng chế độ đãi ngộ đối với người làm công tác thanh tra 52 3.2.1.4. Thiết lập đường dây nóng tại cơ quan Thanh tra tỉnh 53 3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả cuộc thanh tra 54 3.2.2.1. Xây dựng kênh thông tin về các văn bản pháp luật và tổ chức thường xuyên các cuộc hội thảo 54 3.2.2.2. Xây dựng chuẩn mực về công tác thanh tra. 55 3.2.2.3. Tổ chức thường xuyên các cuộc hội thảo về công tác thanh tra. 56 3.2.2.4. Nâng cao hiệu lực của kết luận thanh tra 57 3.2.2.5. Nâng cao trình độ, phẩm chất của người làm công tác thanh tra. 58 3.2.2.6. Bổ sung nội dung kiểm tra việc bố trí nhân sự và kiểm soát nội bộ của đơn vị được thanh tra trong quá trình thanh tra tài chính. 59 KẾT LUẬN 61 TÀI LIỆU THAM KHẢO 63 1. Sự cần thiết của đề tài Thanh tra là một chức năng thiết yếu của các cơ quan quản lý Nhà nước, đồng thời là một công cụ kiểm tra kiểm soát nhằm bảo vệ pháp luật, tăng cường pháp chế Xã hội chủ nghĩa, tăng cường hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước và thực hiện dân chủ xã hội. Trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay, với một cơ chế chính sách quản lý tài chính chưa được chuyển biến kịp thời để đáp ứng cho yêu cầu quản lý ngân sách nhà nước thì hiện tượng tham ô, tham nhũng, lãng phí, thất thoát đang diễn ra một cách công khai, trầm trọng, gây nên những thiệt rất lớn cho đất nước. Ngân sách nhà nước chúng ta có được từ nguồn thu trong nước và từ nguồn thu do được tài trợ hoặc đi vay ở nước ngoài. Do vậy, nếu như tệ nạn tham ô, tham nhũng lãng phí, thất thoát không bị đẩy lùi, thì ngân sách của nhà nước bỏ ra không những không tạo hiệu quả kinh tế để phát triển đất nước mà còn tạo ra một sự bất tín nhiệm từ các nước trên thế giới, ảnh hưởng đến vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời làm giảm những nguồn tài trợ của nước phát triển dành cho Việt Nam, tạo gánh nặng trả nợ cho thế hệ mai sau. Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác xây dựng Đảng tại Đại hội X của Đảng, tại phần phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ tới có nêu: “ đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Ðảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Các cấp ủy và tổ chức Đảng phải nhận thức sâu sắc tính cấp thiết, lâu dài, phức tạp và khó khăn của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; có quyết tâm chính trị cao, đấu tranh kiên quyết, kiên trì, liên tục, có hiệu quả từ Trung ương đến cơ sở, trong Ðảng, Nhà nước và toàn xã hội; có hệ thống giải pháp đồng bộ, cụ thể và có hiệu lực về tuyên truyền, giáo dục về hành chính, về kinh tế, tài chính và pháp luật, về thanh tra, kiểm tra và giám sát, về chế độ chính sách đãi ngộ và kỷ luật Ðảng .” Diễn văn bế mạc đại hội X của Đảng có đoạn: “ .Chúng ta đặc biệt coi trọng các biện pháp có hiệu quả nhằm phát huy cao nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa; xây dựng sự vững mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị, đẩy mạnh đồng bộ cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn này làm lành mạnh tổ chức và bộ máy của chúng ta. Chúng ta nhất quyết tạo nên một sự chuyển biến rõ rệt và đạt tới chất lượng cao hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng, làm cho Đảng ta luôn xứng đáng là đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân .”. Trong báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 và phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu 2006-2010 được trình bày tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Đồng Nai lần thứ VIII nhiệm kỳ 2006-2010, một trong những giải pháp để đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội đến năm 2010 là: “ .Nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát tài chính bằng các biện pháp kiểm toán, thanh tra tài chính, chế độ báo cáo thông tin đảm bảo mọi hoạt động tài chính đều công khai minh bạch .” Như vậy, việc phòng chống tham nhũng, lãng phí, thất thoát hiện nay được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, xem như đây làm nhiệm vụ để bảo vệ sự sống còn của Đảng, của Nhà nước và của cả dân dân tộc. Đồng thời, qua đó ta cũng thấy được rằng ngành thanh tra đóng góp một phần không thể thiếu được trong việc thực hiện các biện pháp để đạt được các mục tiêu về kinh tế xã hội. Ngành thanh tra được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ như là một công cụ quan trọng trong công cuộc phòng chống tham nhũng, lãng phí, thất thoát, những vấn đề mà trong thời gian qua gây bức xúc, làm xói mòn niềm tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Nhằm đóng góp một phần nhỏ bé của của mình trong công cuộc phòng chống tham nhũng, lãng phí và thất thoát mà Đảng và Nhà nước đang quyết tâm thực hiện, cũng như để đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội mà Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X đã đưa ra, tác giả chọn đề tài: “TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THANH TRA THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỈNH ĐỒNG NAI” để làm đề tài cho Luận văn tốt nghiệp của mình.

pdf53 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3260 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường công tác thanh tra thu chi ngân sách nhà nước tỉnh Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh. Khi Đoàn thanh tra đi xác minh các đối tượng cho vay, do đã có thông đồng từ trước nên đều công nhận có cho vay, nhưng thực tế họ không cho vay. Đây là một dạng sai phạm trong việc cố tình nâng khống chi phí nhằm giảm khoản thuế phải nộp cho ngân sách. + Trong hạch toán kế toán, các đối tượng nộp thuế không hạch toán các khoản doanh thu và thu nhập kịp thời mà hạch toán treo những khoảng doanh thu và thu nhập đó vào một tài khoản công nợ phải trả, trong khi vẫn hạch toán phần giá vốn hay chi phí phát sinh trong kỳ, dẫn đến cuối kỳ kế toán doanh thu không tương 31 ứng với chi phí, làm cho kết quả kinh doanh không chính xác, cụ thể là lãi từ quá trình kinh doanh thấp hơn thực tế rất nhiều, thậm chí bị lỗ. + Một số công ty, đơn vị lợi dụng chính sách ân hạn thuế nhập khẩu đã cố tình dây dưa, kéo dài hoặc có thể bỏ trốn không chịu nộp thuế, gây thất thu rất lớn cho ngân sách nhà nước. + Một số công ty lợi dụng chính sách hoàn thuế, khấu trừ thuế giá trị gia tăng của nhà nước mà lập hồ sơ khống để chiếm đoạt tiền hoàn thuế hoặc giảm thuế phải nộp cho nhà nước. + Lợi dụng chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế trong ngành xây dựng và ngành sản xuất, một số đơn vị, công ty đã lập ra công ty con để nhằm hưởng ưu đã về miễn giảm thuế, mà thực chất tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh do chính công ty mẹ thực hiện, nhưng về mặt hồ sơ pháp lý lại đứng tên là công ty con. Đây là dạng lách luật, thể hiện là một hình thức trốn thuế tinh vi. + Cố tình thực hiện sai nguyên tắc kế toán như thay đổi cách tính giá hạch toán hàng xuất hoặc thay đổi cách tính giá thành sản phẩm, trích khấu hao sai quy định theo hướng tăng chi chí hoặc tăng giá thành sản phẩm trên mặt sổ sách. + Không thực hiện kê khai đầy đủ các hóa đơn bán hàng, hoặc các liên của một hóa đơn bán hàng ghi nhiều thông tin khác nhau theo hướng có lợi cho doanh nghiệp, làm cho việc thanh tra kiểm tra rất khó khăn. + Hiện tại, người dân chưa có nhu cầu và ý thức trong việc nhận hóa đơn bán hàng khi mua hàng hóa, do vậy tạo một kẽ hở rất lớn trong việc quản lý doanh số bán hàng thực tế của doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý không thể biết chính xác được doanh số bán của đơn vị là bao nhiêu, chỉ căn cứ vào việc khai báo của đơn vị nộp thuế là chủ yếu. Điều này, hiện tại gây thất thu cho ngân sách rất lớn. + Hợp thức hóa các khoản chi phí không hợp lý, hợp lệ, hoặc muốn nâng khống chi phí bằng cách mua hóa đơn giá trị gia tăng và hợp thức hóa về mặt chứng từ. Đây là một dạng sai phạm phố biến hiện nay. + Kê khai thuế giá trị gia tăng đầu ra với thuế suất thấp hơn quy định. + Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp có thu thường phát sinh những dạng sai phạm như: • Thu thấp hoặc cao hơn quy định do không cập nhật văn bản quy định kịp thời hoặc hiểu sai nội dung của quy định về thu hoặc cố tình thu cao hơn quy định 32 • Việc kiểm soát nội bộ về các khoản thu không được lãnh đạo đơn vị quan tâm dẫn đến xảy ra tình trạng nhân viên đơn vị lợi dụng sự lỏng lẻo mà chiếm đoạt tiền và tài sản từ các nguồn thu của đơn vị. • Các khoản thu bị bỏ ngoài sổ sách, không thực hiện nộp theo quy định của Luật ngân sách. Có trường hợp đơn vị thực hiện thu, nhưng lại không hạch toán vào sổ sách theo tài khoản doanh thu hoặc thu nhập, mà hạch toán vào tài khoản phải trả. Tất nhiên tài khoản phải trả này là không có đối tượng để trả. Đến một thời gian nào đó, đơn vị sẽ thực hiện bút toán chi trả nợ, nhưng thực chất là chiếm đoạt tiền của ngân sách. - Trên lĩnh vực thanh tra chi ngân sách thể hiện những dạng sai phạm nổi bật điển hình như: + Về các khoản chi thường xuyên: Công tác thanh tra, kiểm tra thường xuyên có tác dụng giúp cho các đơn vị chấn chỉnh những thiếu sót, tồn tại trong quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước; chấp hành tốt Luật Ngân sách và các quy định khác về quản lý tài chính ngân sách. Việc thực hiện khoán kinh phí đối với các cơ quan hành chính, sự nghiệp đã nâng cao tính chủ động của thủ trưởng các đơn vị trong việc sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm kinh phí nhà nước, nâng cao đời sống cán bộ. Tuy nhiên, qua thanh tra, việc quản lý và sử dụng kinh phí nhà nước ở một số đơn vị cũng còn nhiều thiếu sót, tồn tại, vi phạm cần chấn chỉnh và xử lý kịp thời. Sai phạm trong việc quản lý và sử dụng kinh phí nhà nước nổi lên: Chi sai chế độ, vượt chế độ, chi khống, chi phí không hợp lệ hoặc không đầy đủ chứng từ, ghi chép sổ sách kế toán không chính xác. Đây là những sai phạm rất phổ biến tại các đơn vị sử dụng kinh phí ngân sách. + Về khoản chi đầu tư phát triển: Qua báo cáo công tác thanh tra trong 3 năm 2003, 2004 và 2005, trong công tác thanh tra các khoản chi về đầu tư phát triển, ngành thanh tra tỉnh Đồng Nai tập trung chủ yếu thanh tra các công trình XDCB, mua sắm máy móc thiết bị từ nguồn vốn ngân sách nhà nước của các đơn vị trên địa bàn tỉnh. Qua công tác thanh tra nổi lên những sai phạm như sau: • Trong đầu tư XDCB các dự án, công trình phát hiện những vấn đề như : * Việc lập báo cáo nghiên cứu khả thi không xác với thực tế, hoặc làm theo hình thức chỉ là thủ tục để được phê duyệt thực hiện dự án, công trình, dẫn đến sau 33 khi công trình hoàn thành đã không thể mang lại hiệu quả như yêu cầu ban đầu đưa ra, gây lãng phí tài sản của nhà nước, gây bất bình trong nhân dân. * Khảo sát thiết kế không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, không khảo sát địa chất thủy văn công trình dẫn đến phải thay đổi thiết kế, phát sinh khối lượng, chậm tiến độ thi công, thậm chí có công trình chất lượng không đảm bảo. * Công tác lập và thẩm định dự toán cũng có những sai sót, áp sai đơn giá, tăng khối lượng không cần thiết, làm tăng giá trị công trình, làm cho công tác xét thầu chấm thầu và thông báo kết quả trúng thầu không đạt được mục đích là chọn nhà thầu với giá thấp nhất với chất lượng công trình tốt nhất, gây thiệt hại đến kinh phí ngân sách Nhà nước. * Có những công trình, đơn vị dự toán không tính đầy đủ khối lượng các hạn mục của công trình, nên khi đấu thầu phát sinh trường hợp là sau khi có giá trúng thầu, đơn vị trúng thầu lập hồ sơ đề nghị bổ sung kinh phí những phần khối lượng bị thiếu, không có trong dự toán, do vậy những khoản kinh phí đề nghị bổ sung này đã không được đấu thầu. * Việc thực hiện Quy chế đấu thầu tại một số dự án có những vi phạm như: Có những công trình theo quy định phải tổ chức đấu thầu rộng rãi nhưng các chủ đầu tư lại không không tổ chức đấu thầu mà tiến hành xét thầu hoặc chỉ định thầu không đúng quy định. Hoặc có những dự án, công trình, chủ đầu tư tổ chức đấu thầu công khai nhưng lại bị các nhà dự thầu tổ chức thông thầu nhằm đạt được mục đích là giá trúng thầu cao hơn rất nhiều so với giá trị thực tế thi công công trình. Có những trường hợp đơn vị trúng thầu lại tiến hành bán thầu cho đơn vị khác, không những công trình bị bán thầu một lần mà còn bị bán thầu qua nhiều lần để các đơn vị trung gian hưởng chênh lệch giá, làm cho đơn vị thực hiện thi công cuối cùng phải làm cách nào đó nhằm bớt xén vật tư, mua vật tư không đúng tiêu chuẩn quy định để thực hiện công trình và tất nhiên chất lượng công trình không đảm bảo, có những công trình vừa thi công xong đã không thể đưa vào sử dụng được, gây lãnh phí, thất thoát rất lớn cho Nhà nước. * Lợi dụng những hạn mục ẩn, đơn vị thi công thực hiện thi công thiếu khối lượng vật tư, chất lượng vật tư không đảm bảo. Hoặc khi đang thi công tiến hành khai báo những hạn mục phát sinh khống để quyết toán với ngân sách nhà nước. 34 * Thay đổi chủng loại vật tư có giá thấp hơn giá dự toán ban đầu, hoặc phát sinh giảm khối lượng thi công những vẫn lập hồ sơ quyết toán như dự toán ban đầu. * Một số sai phạm khác: Các công trình thường được thi công trước khi ký kết hợp đồng thi công, thậm chí có công trình thi công trước khi có thiết kế kỹ thuật thi công - dự toán được duyệt, trước khi phê duyệt đơn vị được chỉ định thầu. Những công trình thuộc diện được miễn các loại thuế theo quy định, nhưng đơn vị dự toán không loại trừ ra khỏi giá trị công trình, chủ đầu tư không kiểm tra mà thanh toán hết các khoản thuế cho bên thi công. • Trong công tác mua sắm máy móc thiết bị phát hiện những sai phạm như: * Việc mua máy móc, thiết bị không được chủ đầu tư tìm kiếm những nhà cung cấp trong nước mà chủ đầu tư tìm mua từ nước ngoài về, với những lý do như chất lượng, hoặc độ an toàn của máy móc tiết bị, làm cho giá máy móc thiết bị cao hơn thực tế sản xuất trong nước rất nhiều. * Các cơ quan thẩm định hồ sơ đã không thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ làm thiệt hại ngân sách rất nhiều. Có những trường hợp máy móc thiết bị thuộc diện miễn thuế GTGT và thuế nhập khấu khi nhập khẩu, nhưng các cơ quan thẩm định, tư vấn giám sát và chủ đầu tư đã không xem xét các quy định của pháp luật dẫn đến thanh quyết toán các khoản thuế trên cho nhà cung cấp. * Mua sắm máy móc thiết bị không phù hợp, đánh giá không chính xác về hiệu quả hoạt động của máy, nên khi đầu tư vào thì không thể đưa vào sử dụng được, hoặc khi sử dụng thì hiệu quả kinh tế không cao, không thể cạnh tranh được nên ngưng hoạt động. + Về khoản chi khác: Đây là những chi mang tính đột xuất, ngoài kế hoạch chi thường xuyên và chi cho đầu tư phát triển như trong thời gian vừa qua chi các khoản như hỗ trợ các hộ nông dân nuôi gia súc, gia cầm, hỗ trợ gia đình bị thiên tai, gia đình chính sách, các chương trình mục tiêu của trung ương và của tỉnh....Qua công tác kiểm tra cũng đã phát hiện ra những sai phạm phổ biến như chi không đúng đối tượng, lập hồ sơ để chi không nhằm chiếm đoạt, chi vươt, chi sai chế độ, chi không hiệu quả gây lãng phí.... Tuy nhiên, đánh giá về mặt tổng thể, ngành thanh tra tỉnh Đồng nai còn nhiều mặt hạn chế trong công tác, làm cho chức năng thanh tra chưa được phát huy tối đa, những sai phạm vẫn còn tiếp diễn với mức độ ngày càng trầm trọng hơn, 35 những sai phạm lớn bị phát hiện không phải từ công tác thanh tra mà từ quần chúng nhân dân, phương tiện thông tin đại chúng.... 2.3.5. Những hạn chế, tồn tại trong công tác thanh tra. 2.3.5.1. Những hạn chế, tồn tại Bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động công tác thanh tra trong những năm qua cũng còn nhiều những hạn chế, tồn tại như: - Việc chấp hành chỉ đạo của trung ương và của tỉnh về thanh tra đầu tư và xây dựng tiến hành còn chậm. Đây là một chủ trương lớn, song chưa được sự quan tâm chỉ đạo của các địa phương và các sở, ban, ngành. Kết quả thanh tra về đầu tư và xây dựng còn hạn chế so với đánh giá của trung ương về những sai phạm, tiêu cực trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng. Công tác thanh tra đầu tư xây dựng tiến độ triển khai còn chậm so với kế hoạch đề ra, trong đó có nguyên nhân chủ quan một số đơn vị Thanh tra huyện chưa chấp hành tốt chỉ đạo của UBND tỉnh và Thanh tra tỉnh, chưa tham mưu đề xuất kịp thời cho lãnh đạo để triển khai theo kế hoạch. - Việc xử lý kết luận, kiến nghị sau thanh tra từng lúc, từng nơi còn chưa kịp thời, làm hạn chế đến hiệu quả của công tác thanh tra; việc theo dõi, đôn đốc thực hiện các kết luận, kiến nghị cũng có nơi còn chưa tốt, kết quả thu hồi còn đạt thấp, chủ yếu tập trung ở cấp huyện và sở ngành. Việc thực hiện kiến nghị xử lý kinh tế sau thanh tra toàn ngành nhìn chung có hiệu quả, đạt tỷ lệ cao, song từng cấp, từng ngành thì tỷ lệ thu hồi còn đạt thấp. Tồn tại này có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có việc theo dõi, đôn đốc, tham mưu cho lãnh đạo cùng cấp xử lý tồn đọng này chưa tốt. - Đội ngũ cán bộ thanh tra viên của ngành trình độ còn bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ và chưa đồng đều; bên cạnh đó, trang bị phương tiện, điều kiện vật chất phục vụ cho công tác thanh tra còn thiếu, chưa tiếp cận được với công nghệ thông tin và các phương tiện kỹ thuật khác áp dụng cho hoạt động của ngành, từ đó hạn chế đến hiệu quả công tác thanh tra kinh tế xã hội. Công tác xây dựng ngành trong thời gian qua cũng còn có những khó khăn và tồn tại, đó là: Một số đơn vị Thanh tra huyện, sở còn chậm được củng cố, nhất là vấn đề thực hiện biên chế, ảnh hưởng phần nào đến kết quả thực hiện nhiệm vụ, công tác bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra cho cán bộ ngành Thanh tra tỉnh theo quy định của ngành còn có khó khăn, hiện còn khoảng trên 90 cán bộ, công chức chưa qua bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra. 36 - Đối với công tác chống tham nhũng: Mặc dù công tác thanh tra, kiểm tra trong những năm qua đã tập trung trên các lĩnh vực trọng điểm về tham nhũng, tiêu cực, đã phát hiện nhiều vụ việc sai phạm, song số vụ việc tham nhũng phát hiện chưa nhiều. Các vụ việc tham nhũng phát hiện trên địa bàn trong những năm qua, đối tượng vi phạm cũng chủ yếu là những cán bộ, nhân viên cấp cơ sở. - Những vụ việc tham nhũng tiêu cực lớn bị phát hiện chủ yếu từ các cơ quan truyền thông đại chúng và quần chúng nhân dân, rất ít trường hợp bị phát hiện qua công tác thanh tra. Đây là tồn tại thể hiện sự yếu kém của bộ máy thanh tra. 2.3.5.2. Nguyên nhân khách quan Đánh giá tình hình ngành thanh tra trong tỉnh và ngành thanh tra trong cả nước, có một số nguyên nhân khách quan dẫn đến hạn chế trong công tác thanh tra như sau : - Tại điều 18 của Luật Thanh tra quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Thanh tra tỉnh, thì Thanh tra tỉnh chỉ thực hiện thanh tra hành chính cấp sở, ban ngành, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Do vậy, từ khi thi hành Luật thanh tra, Thanh tra tỉnh không thể chủ động thực hiện các cuộc thanh tra tài chính ngân sách của các đơn vị trực thuộc sở, ban ngành trong tỉnh. Trong khi đó, hiện nay, thanh tra các sở, ban ngành chưa đủ lực lượng thực hiện các cuộc thanh tra tài chính ngân sách trong phạm vi các đơn vị trực thuộc sở, ban ngành mình quản lý. - Chưa có cơ chế khen thưởng nhằm khích lệ hoặc động viện lực lượng thanh tra trong quá trình làm nhiệm vụ. Một thực tế trước đây là việc đòan thanh tra phát hiện sai phạm kiến nghị thu hồi tiền hoặc tài sản nộp vào ngân sách nhà nước, thì đòan thanh tra cũng như cán bộ trực tiếp phát hiện sai phạm không được trích hoặc thưởng từ khỏan tiền thu hồi đó. Do vậy rất dễ phát sinh tiêu cực trong quá trình thực hiện thanh tra, hoặc không là động lực phát huy tinh thần sáng tạo, nhiệt tình của các cán bộ làm công tác thanh tra. Từ tháng 5/2006, Bộ Tài chính và Thanh tra Chính phủ có thông tư liên tịch số 42/2006/TTLT-BTC-TTCP ngày 15/5/2006 về hướng dẫn lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí đảm bảo hoạt động thanh tra, trong đó cho phép cơ quan thanh tra trích 30% từ tiền thu được trong quá trình thanh tra để bổ sung vào kinh phí họat động của cơ quan. Tuy nhiên, thông tư chưa nói cụ thể được việc sử dụng 30% này như thế nào, ví dụ như : Trích cho đòan 37 thanh tra phát hiện sai phạm là bao nhiêu, thưởng cho cán bộ trực tiếp phát hiện vụ việc là bao nhiêu….. - Hiện nay ngành thanh tra chưa được quyền thực hiện các biện pháp chế tài đủ mạnh để các đối tượng thanh tra nghiêm túc thực hiện đầy đủ các kiến nghị sau thanh tra. Thực tế thời gian qua, sau khi kết thúc thanh tra, đòan thanh tra có kết luận kiến nghị xử lý sau thanh tra, nhưng có trường hợp các đối tượng thanh tra không thực hiện các kiến nghị của Đòan thanh tra. Trong trường hợp này, cơ quan thanh tra chỉ có biện pháp là báo cáo sự việc lên Ủy ban nhân dân cùng cấp đề nghị xử lý. Do vậy, hiệu lực của kết luận thanh tra hiện nay chưa có chế tài để đảm bảo đối tượng thanh tra phải thực hiện nghiêm túc các kiến nghị xử lý. - Cơ quan Thanh tra chính phủ chưa thực hiện việc tổ chức thường xuyên các cuộc hội thảo, họp giao ban giữ thanh tra các tỉnh để có sự phối hợp, chia sẽ thông tin, hoặc học hỏi nâng cao nghiệp vụ để ngành thanh tra từng tỉnh cập nhật các thông tin mới nhất về công tác thanh tra hoặc tình hình diễn biến của tội phạm, đặc biệt là tội phạm kinh tế. - Khối lượng công việc đề ra chương trình kế hoạch công tác năm hết sức nặng nề, ngoài ra còn có các công việc đột xuất do lãnh đạo giao; lực lượng cán bộ, công chức của nhiều đơn vị Thanh tra cấp huyện và sở ngành chưa đủ theo biên chế được duyệt, hoặc chưa đáp ứng theo yêu cầu công việc, nên có ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện nhiệm vụ kế hoạch, cụ thể là tiến độ triển khai các cuộc thanh tra tài chính, ngân sách. - Công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ thanh tra không được tổ chức thường xuyên, các cán bộ, thanh tra viên không được cập nhật các kiến thức chuyên môn mới nhất về lĩnh vực của mình. Điều này làm hạn chế rất nhiều đến chất lượng các cuộc thanh tra. 2.3.5.3 Nguyên nhân chủ quan Qua nghiên cứu, xem xét thực tế tại tỉnh Đồng Nai, để xảy ra những hạn chế trong công tác thanh tra trong những năm qua tập trung chủ yếu vào những nguyên nhân chủ quan sau : - Một số Sở, ngành chưa có bộ phân thanh tra Sở, hoặc nếu có thì hoạt động không hiệu quả, còn bị động trong công tác, chủ yếu chờ ý kiến chỉ đạo từ cấp trên. 38 Do vậy, những sai phạm, những việc làm chưa đúng ở những bộ phận do Sở mình quản lý chưa được uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời. - Thanh tra các Sở, ngành hiện nay tập trung thực hiện thanh tra chuyên ngành là chủ yếu, chưa chú trọng vào công tác thanh tra hành chính ở lĩnh vực do Sở, ngành mình phụ trách. Trong khi đó, Thanh tra tỉnh và Thanh tra Sở Tài chính không thể đảm đương hết việc thanh tra công tác thu chi ngân sách của tất các các sở ngành, các huyện trên địa bàn tỉnh. - Thanh tra huyện hiện nay chủ yếu thực hiện công tác giải quyết khiếu nại và tố cáo, chưa quan tâm lĩnh vực thanh tra tài chính, ngân sách trên địa bàn huyện. Đồng thời lực lượng thanh tra huyện hiện nay đa phần không có chuyên môn về lĩnh vực tài chính một cách chính quy. Do vậy, khi triển khai các cuộc thanh tra tài chính, ngân sách trên địa bàn thường đạt hiệu quả thấp. - Việc tổ chức giao ban khối sở, ngành, huyện còn chưa thường xuyên; ngoài ra việc chấp hành chế độ thông tin báo cáo của Thanh tra các sở, ngành còn chưa nghiêm (không báo cáo hoặc báo cáo không đúng thời gian quy định), chất lượng báo cáo chưa đạt yêu cầu, ảnh hưởng phần nào đến công tác chỉ đạo, điều hành của Thanh tra tỉnh đối với hoạt động thanh tra các sở, ngành. - Lực lượng thanh tra tòan tỉnh hiện nay đa phần là chuyển ngành từ các cơ quan khác với độ tuổi trung bình từ 40 trở lên. Do vậy, trong việc học tập nâng cao trình độ còn hạn chế rất nhiều. - Lãnh đạo các cấp, các ngành chưa quan tâm đến kết luận, xử lý các vụ việc sau thanh tra nên việc kết luận thanh tra, xử lý kiến nghị sau thanh tra còn chậm so với thời gian quy định của Luật thanh tra. Đồng thời kết luận, quyết định xử lý sau thanh tra còn chưa được các đơn vị được thanh tra chấp hành nghiêm túc dẫn đến còn tồn đọng; bên cạnh đó, cũng còn có nguyên nhân là việc theo dõi, đôn đốc của một số cơ quan thanh tra còn chưa thường xuyên, chưa kịp thời báo cáo, tham mưu đề xuất lãnh đạo xử lý dứt điểm. 39 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THANH TRA THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỈNH ĐỒNG NAI 3.1. Những yêu cầu phải tăng cường công tác thanh tra thu chi ngân sách nhà nước : Tăng cường công tác thanh tra là một đòi hỏi tất yếu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong giai đoạn hiện nay. Tăng cường công tác thanh tra phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau đây: - Nghiên cứu tăng cường công tác thanh tra phải dựa trên cơ sở tổng kết một cách có hệ thống thực tiễn công tác thanh tra trong những năm qua, đặc biệt là những năm gần đây để có phương hướng đổi mới phù hợp với tình hình và nhiệm vụ của giai đoạn hiện nay. - Tăng cường công tác thanh tra dựa trên cơ sở quán triệt những quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về cải cách bộ máy nhà nước và cải cách một bước nền hành chính nhà nước; xác định rõ vị trí, vai trò của công tác thanh tra trong quá trình đổi mới, phải đảm bảo tăng cường hiệu quả công tác thanh tra trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời phải tạo các điều kiện, môi trường thuận lợi, lành mạnh để mọi thành phần kinh tế phát huy hết tiềm năng xây dựng và phát triển đất nước. - Hoàn thiện tăng cường công tác thanh tra phải trên cơ sở phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các tổ chức Thanh tra nhà nước với các cơ quan, tổ chức khác, nhất là những cơ quan, tổ chức có chức năng kiểm tra, thanh tra, giám sát; tạo ra cơ chế kiểm tra, thanh tra, giám sát hữu hiệu, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước, đấu tranh chống các tệ tham nhũng, cửa quyền, phòng và chống các hành vi vi phạm pháp luật, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong các cơ quan nhà nước và trong toàn xã hội; phải nhằm vào mục tiêu thiết lập được một hệ thống tổ chức cơ quan Thanh tra nhà nước tinh gọn, bảo đảm tăng cường sự chỉ đạo tập trung, thống nhất trong hoạt động từ Trung ương đến cơ 40 sở, có phương thức hoạt động linh hoạt, đảm bảo tính nhanh nhạy, kịp thời và có hiệu quả, không chồng chéo, trùng lặp và cũng không bỏ sót đối tượng cần thanh tra, kiểm tra, giám sát. - Tăng cường thanh tra phải trên cơ sở sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992 và các luật về tổ chức, đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống các văn bản pháp luật và có bước đi thích hợp, phù hợp với yêu cầu cải cách cơ chế quản lý kinh tế, cải cách một bước nền hành chính nhà nước, đáp ứng được các bước đi trong lộ trình hội nhập quốc tế của nước ta. 3.1.1. Yêu cầu từ việc nâng cao chức năng quản lý nhà nước Trong những qua, tình hình tội phạm về lĩnh vực kinh tế diễn biến rất phức tạp, có chiều hướng tăng lên về số lượng và mức độ nghiêm trọng. Các vụ án lớn bị phát hiện liên quan đến rất nhiều bộ phận, nhiều lĩnh vực trong hệ thống chính trị của nước ta. Tuy các vụ án bị phát hiện và các cơ quan bảo vệ pháp luật tiến hành xử lý những sai phạm, nhưng một điều thực tế là việc khắc phục hậu quả rất khó thực hiện, gây tổn thất nghiêm trọng đến tiền bạc, tài sản của quốc gia. Qua những vụ án lớn và nổi bật trong thời gian vừa qua cho ta thấy một điều là việc phanh phui, phát hiện ra những sai phạm được thực hiện bởi lực lượng quần chúng nhân dân và các lực lượng báo chí, thông tin đại chúng. Từ những thông tin đó, các cơ quan chức năng mới vào cuộc. Điều này khẳng định rằng, công tác thanh tra, kiểm tra để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về mặt kinh tế đã không mang lại hiệu quả cao trong vấn đề phòng ngừa và phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Từ những thực trạng đó, việc nâng cao chức năng quản lý nhà nước thông qua viêc tăng cường công tác thanh tra là một đòi hỏi tất yếu, một việc cần phải làm ngay để thực hiện nhà một nhà nước pháp quyền XHCN đích thực. 3.1.2. Yêu cầu từ mục tiêu kinh tế xã hội Với mục tiêu kinh tế xã hội phải đạt được đến năm 2010 như Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ VIII đã vạch ra và đặc biệt là mục tiêu đến năm 2020 thì Đồng Nai trở thành tỉnh công nghiệp là những áp lực năng nề mà các cấp, các ngành của tỉnh cần phải có những nỗ lực, phấn đấu cao mới có khả năng hoàn thành các mục tiêu đề ra. Thực tiễn đã chứng minh, với vai trò và vị trí của công tác thanh tra, kiểm soát tốt đã góp phần đáng kể đến sự phát triển của một lĩnh vực, một địa phương. 41 Từ yêu cầu của mục tiêu kinh tế xã hội, ngành thanh tra phải thực sự phát huy tối đa vai trò và trách nhiệm của mình để thực tốt chức năng quản lý nhà nước. Mục tiêu qua công tác thanh tra là phát huy những nhân tốt tích cực, uốn nắn, chấn chỉnh những yếu tố tiêu cực, góp phần làm lành mạnh hóa công tác quản lý tài chính ngân sách nhà nước, làm cho ngân sách nhà nước đạt mục tiêu thu đúng thu đủ, chi có hiệu quả góp phần hoàn thành các mục tiêu kinh tế đã đề ra. Thực tiễn công tác thanh tra trong những năm qua cho thấy, số lượng các cuộc thanh tra về tài chính, ngân sách nhà nước chưa xứng với tầm vóc của của tỉnh như Đồng Nai, chất lượng và hiệu quả các cuộc thanh tra chưa đảm bảo, làm ảnh hưởng nhiều đến mục tiêu kinh tế xã hội chung của tỉnh. Từ những vấn đề trên, tăng cường công tác thanh tra là một trong những yếu tố quyết định đến việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế, xã hội đã đề ra. 3.1.3. Yêu cầu từ công cuộc phòng chống tham nhũng Tham nhũng hiện nay được Đảng và Nhà nước xác định là một quốc nạn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn tại của một chế độ, một nhà nước. Từ thực tế đó, trong thời gian vừa qua, nhà nước ta đã có rất nhiều những chương trình hành động nhằm giải quyết nạn tham nhũng. Trong việc giải quyết tình trạng tham nhũng thì vấn đề phòng ngừa tham những được đặt lên hàng đầu. Do vậy, từ năm 2004 đến nay, Quốc hội ban hành một số Luật có liên quan đến công tác phòng chống, ngừa ngăn chặn hành vi tham nhũng lãng phí, trong đó, công tác thanh tra được xác định như một trong những công tác then chốt để phòng ngừa và phát hiện hành vi tham nhũng lãng phí. Như vậy, để đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của Đảng và Nhà nước trong công cuộc phòng chống tham nhũng, lãng phí hiện nay, ngành thanh tra tỉnh Đồng Nai nói riêng và thanh tra cả nước nói chung phải xác định trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó. Từ đó, phải có những đổi mới, những chương trình hành động, những nỗ lực, những biện pháp của ngành để có thể đáp ứng được các yêu cầu trong tình hình đất nước hiện nay. 3.1.4. Yêu cầu từ quá trình hội nhập Trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng có ý nghĩa, tác dụng to lớn trên nhiều mặt. Làm tốt công tác phòng chống tham nhũng trước hết sẽ góp phần xây dựng bộ máy nhà nước, đội ngũ cán 42 bộ công chức ngày càng trong sạch vững mạnh, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, công tác phòng chống tham nhũng còn có vai trò, đóng góp nhất định trong việc đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế, cụ thể là: - Thông qua việc thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, các cơ quan, tổ chức, đơn vị sẽ góp phần xây dựng một môi trường đầu tư lành mạnh, hấp dẫn, giành được lòng tin, sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài, khuyến khích họ tích cực bỏ vốn đầu tư, kinh doanh, làm ăn ở nước ta. Từ đó thu hút vốn, tài chính, công nghệ, kỹ thuật quản lý của nước ngoài, thực hiện tốt chủ trương của Đảng về phát huy nội lực, khai thác, tận dụng ngoại lực phục vụ cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Hiện tại, nước ta đang là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế đa phương, nhiều thể chế, diễn đàn hợp tác kinh tế ở phạm vi khu vực và thế giới như: Liên Hợp Quốc, ASEAN, APEC... và đang trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Tham gia vào nỗ lực chung của cộng đồng thế giới trong đấu tranh chống tham nhũng. Nước ta đã ký kết công ước của Liên hiệp quốc về chống tham nhũng; tham gia chương trình hành động chống tham nhũng khu vực châu Á – Thái Bình Dương do tổ chức các nước công nghiệp phát triển (OECD) và Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) khởi xướng, bảo trợ. Nước ta còn tham gia chương trình hành động chống tham nhũng trong khuôn khổ APEC. Đặc biệt trong công ước Liên hiệp quốc về chống tham nhũng đã quy định và đề ra hàng loạt các yêu cầu đối với các quốc gia thành viên về phòng ngừa tham nhũng, hình sự hóa hành vi tham nhũng, hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Vì vậy, đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng hiện nay chính là nhằm đáp ứng các yêu cầu đặt ra trong tiến trình hội nhập quốc tế. Mặt khác, thông qua quá trình này, chúng ta cũng có được cơ hội, điều kiện tiếp thu, tham khảo, học tập được nhiều kinh nghiệm hữu ích của cộng đồng thế giới và có được sự hợp tác quốc tế chặt chẽ trên những lĩnh vực như: Dẫn độ người phạm tội tham nhũng, tịch thu, thu hồi tài sản tham nhũng, trao đổi thông tin về tham nhũng, các biện pháp hỗ trợ pháp lý trong việc phòng, chống tham nhũng...để đấu tranh có hiệu quả với tệ nạn tham nhũng đang diễn biến phức tạp với những thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn. 43 3.2. Các giải pháp tăng cường công tác thanh tra thu chi ngân sách nhà nước tỉnh Đồng Nai. Từ những thực trạng về công tác thanh tra hiện nay trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và những đòi hỏi phải tăng cường công tác thanh tra trong tình hình mới, tác giả đề nghị một số nhóm giải pháp để thực hiện như sau: 3.2.1. Nhóm giải pháp tăng số lượng cuộc thanh tra 3.2.1.1. Bổ sung quyền và nhiệm vụ cho Thanh tra tỉnh. Đẩy mạnh công tác thanh tra hành chính của các cơ quan thanh tra sở, ngành ở cấp tỉnh. Hiện nay, để thực hiện công tác thanh tra thu chi ngân sách nhà nước ở cấp tỉnh được thực hiện chủ yếu từ Thanh tra tỉnh và thanh tra Sở Tài chính, ở cấp huyện có Thanh tra huyện. Do vậy, chỉ với các cơ quan này thì không thể đảm nhận toàn bộ công tác thanh tra thu chi ngân sách của toàn tỉnh môt cách đầy đủ, có hiệu quả. Trong khi đó, thanh tra các sở ngành hiện nay chỉ thực hiện các cuộc thanh tra chuyên ngành mà ít quan tâm đến các cuộc thanh tra hành chính về lĩnh vực ngân sách theo thẩm quyền. Do vậy, Thanh tra tỉnh phải chủ trì chỉ đạo cho thanh tra các sở, ban, ngành phải tăng cường thanh tra hành chính về lĩnh vực thu chi ngân sách theo thẩm quyền. Hàng năm, trên cơ sở đặc điểm, thẩm quyền của từng sở, ban, ngành, các huyện, Thanh tra tỉnh phải giao kế hoạch thanh tra hành chính về lĩnh vực thanh tra thu chi ngân sách cho thanh tra các sở ngành, và các huyện một cách cụ thể, đặt biệt là công tác thanh tra chi ngân sách. Định kỳ hàng quý, Thanh tra tỉnh tiến hành họp giao ban để theo dõi tiến độ, đôn đốc, cũng như hỗ trợ cho thanh tra sở ban, ngành, các huyện hoàn thành các cuộc thanh tra theo kế hoạch, hoặc giải quyết các vướng mắc phát sinh. Đồng thời, để góp phần làm tốt công tác thanh tra tài chính ngân sách, Chính phủ phải tăng quyền hạn cho Thanh tra tỉnh theo hướng được quyền thanh tra tài chính ngân sách của các đơn vị trực thuộc sở, ban ngành của tỉnh nhằm làm cho Thanh tra tỉnh chủ động hơn trong công tác thanh tra tài chính ngân sách, đồng thời công tác thanh tra sẽ được thường xuyên, khách quan hơn (bổ sung quyền hạn của Thanh tra tỉnh tại điều 18 Luật Thanh tra). 3.2.1.2. Tăng cường nhân sự cho các tổ chức thanh tra Hiện nay, nhân sự ở các tổ chức thanh tra không đáp ứng được những yêu cầu nhiệm vụ được giao trong tình hình mới. Có những đơn vị thanh tra sở, ngành chi có 3 cán bộ làm công tác thanh tra. Với lực lượng như thế thì không thể đảm bảo 44 tốt công tác thanh tra chuyên ngành và thanh tra hành chính trong phạm vi quản lý của mình. Thanh tra tỉnh phải tiến hành rà soát lại đội ngũ nhân sự của các tổ chức thanh tra trong toàn tỉnh, trên cở sở đặc điểm của từng sở, ban, ngành, huyện mà đề xuất các cấp lãnh đạo về bố trí nhân sự cho phù hợp với những yêu cầu nhiệm vụ. Từ đó, mới có thể tăng số lượng các cuộc thanh tra theo yêu cầu. 3.2.1.3. Xây dựng chế độ đãi ngộ đối với người làm công tác thanh tra Theo quy định hiện hành, Thanh tra viên của hệ thống Thanh tra Nhà nước hưởng lương theo bảng lương riêng, thuộc hệ thống tiền lương của cơ quan hành chính. So với bảng lương của chuyên viên thì hệ số lương của ngạch Thanh tra viên không cao hơn. Ngoài tiền lương, hiện tại ngạch Thanh tra viên được hưởng phụ cấp nghề với mức 25% trên tiền lương. Ngoài ra thanh tra viên thuộc hệ Thanh tra Nhà nước không được hưởng trích thưởng như một số chức danh khác. Xét về tính chất, đặc điểm công việc hiện tại và những yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, cho thấy chế độ tiền lương và phụ cấp nghề theo như quy định hiện nay đối với bậc thanh tra viên là còn bất hợp lý. Những khoản lương và phụ cấp nghề hiện tại chưa đảm bảo cho Thanh tra viên yên tâm công tác, chưa tạo động lực, động cơ để thanh tra viên tận tâm, tận lực trong công tác. Cụ thể như việc phát hiện ra những sai phạm, thu hồi tài sản tiền bạc về cho ngân sách, thì bản thân Thanh tra viên không trích thưởng hoặc được hưởng gì từ những khoản thu hồi đó. Đây là một trong những yếu tố làm cho ngành thanh tra chưa thu hút được nhân lực có trình độ, có tâm huyến phục vụ với ngành. Thanh tra Chính phủ hiện tại đang xây dựng quy chế làm việc của đoàn thanh tra để phù hợp với tình hình mới và phù hợp với những quy định pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, trong quy chế đang dự thảo chưa nêu lên vấn đề về việc trích thưởng cho đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra đối với các khoản tiền, tài sản thu hồi. Do vậy, để tạo động lực, phát huy sáng tạo, khích lệ tinh thần làm việc cũng như tạo mội trường thu hút nhân tài cho hoạt động của ngành thì trong quy chế làm việc của đoàn thanh tra phải nêu rõ những khoản tiền được trích thưởng cho đoàn thanh tra và thành viên đoàn thanh tra trong việc phát hiện những sai phạm, thất thoát. 3.2.1.4. Thiết lập đường dây nóng tại cơ quan Thanh tra tỉnh 45 Công tác phòng chống tham nhũng hiện nay được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Trong đó, lực lượng thanh tra là một trong những lực lượng nòng cốt để thực hiện nhiệm vụ. Tuy nhiên, hiện nay người dân khi muốn phản ánh những sai phạm, tiêu cực, có dấu hiệu tham ô, tham nhũng thì thường báo cho các cơ quan thông tin đại chúng để phản ánh mà không biết phải báo cho cơ quan chức năng nào theo số điện thoại nào cho phù hợp tính chất của sai phạm. Dẫn đến, hiện nay việc xử lý tin báo tội phạm trong lĩnh vực kinh tế còn chồng chéo, hoặc khi nhận tin báo mà không đúng với chức năng của cơ quan mình thì các cơ quan nhận tin cũng không thông báo đến những cơ quan đúng thẩm quyền, làm cho việc phát hiện xử lý tội phạm về lĩnh vực kinh tế bị hạn chế rất nhiều. Do vậy, Thanh tra tỉnh phải chủ trì phối hợp với cơ quan công an, viện kiểm soát để phân loại những dạng sai phạm trong lĩnh vực kinh tế, từ đó sẽ xác định trách nhiệm xử lý tin báo của từng cơ quan và thiết lập nên đường dây nóng cho các cơ quan. Thanh tra tỉnh phải lập bộ phận để nhận tin báo từ quần chúng nhân dân. Số điện thoại đường dây nóng phải dễ nhớ, được thông tin tuyên truyền phổ biến đến người dân một cách công khai, thường xuyên và mang tính khích lệ người dân tham gia tố giác tội phạm, tham gia cung cấp thông tin những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Làm được như thế thì công tác phòng chống tham nhũng cũng như hiệu quả hoạt động của ngành thanh tra được nâng lên, đồng thời Thanh tra tỉnh có chỉ đạo kịp thời trong việc thực hiện các cuộc thanh tra nhằm ngăn ngừa, phòng chống những sai phạm có thể xảy ra, góp phần thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước của mình. 3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả cuộc thanh tra 3.2.2.1. Xây dựng kênh thông tin về các văn bản pháp luật và tổ chức thường xuyên các cuộc hội thảo giữa thanh tra các tỉnh. Thanh tra Chính phủ đã có trang web chuyên ngành. Trong đó đã có cập nhật các văn bản có liên quan đến ngành thanh tra. Tuy nhiên, đa số các cơ quan thanh tra trong tỉnh hiện nay chưa kết nối được với mạng thông tin internet. Do vậy, việc cập nhật thông tin về các văn bản pháp luật hiện nay chủ yếu từ báo chí, công báo, mà đặc điểm của công tác thanh tra là phải nắm những văn bản pháp luật thời điểm trước đây (thời điểm phát sinh vụ việc thanh tra), không phải hiện tại. Chính vì thế, người làm công tác thanh tra phải tra cứu những văn bản cũ từ công báo, sách, 46 báo chí. Điều này làm mất rất nhiều thời gian, đôi khi lại không tìm thấy, khó khăn cho việc kết luận, xử lý vụ việc. Việc trang bị phương tiện kết nối Internet là một yêu cầu tất yếu, khách quan, qua đó người làm công tác thanh tra dễ dàng tiếp cận với các văn bản pháp luật qua từng thời kỳ, nâng cao kiến thức trình độ pháp luật của cán bộ thanh tra, thuận lợi trong quá trình kết luận, kiến nghị xử lý. Đồng thời Thanh tra Chính phủ phải cung cấp địa chỉ trang web một cách rộng rãi, công khai và thường xuyên trên phương tiện thông tin đại chúng. Trong trang web của Thanh tra Chính phủ phải bố trí cơ sở dữ liệu pháp luật không chỉ trong lĩnh vực thanh tra mà toàn bộ các lĩnh vực trong xã hội để cung cấp kịp thời việc tra cứu văn bản của các cơ quan thuộc hệ thống. Thanh tra Chính phủ phải thường xuyên chủ trì tổ chức các cuộc hội thảo chuyên ngành nhằm cung cấp những thông tin mới nhất về họat động của ngành, chia sẽ những kinh nghiệm cũng như diễn biến của tình hình tội phạm kinh tế, nhằm làm cho kiến thức của thanh tra các tỉnh nâng lên, tạo mối đòan kết thống nhất trong cả hệ thống thanh tra. 3.2.2.2.Xây dựng chuẩn mực về công tác thanh tra. Trong thực hiện nghiệp vụ công tác hiện nay, từng thanh tra viên thực hiện nghiệp vụ theo cách mình nhận định, suy nghĩ và đưa ra phương pháp thanh tra cho từng loại đối tượng. Do đó, để đánh giá hiệu quả của một cuộc thanh tra là rất khó. Hiện tại chưa có một quy định chung nhất về cách thức tiến hành thanh tra cho các loại nghiệp vụ thanh tra. Do vậy, để đảm bảo một cuộc thanh tra có hiệu quả, đồng thời để đánh giá công việc của thanh tra viên đã làm thì cần phải có một chuẩn mực chung về công tác thanh tra, trong đó hướng dẫn cụ thể thanh tra viên xử lý những tình huống phát sinh trong quá trình thanh tra cũng như hướng dẫn các bước, trình tự và công việc cụ thể mà thanh tra viên phải làm khi tiến hành thanh tra một khoản mục nào đó. Việc xây dựng chuẩn mực thanh tra phải được thực hiện bởi Thanh tra Chính phủ, nơi mà có thể tổng hợp được các dạng, loại hình thanh tra phát sinh trong thực tế. Khi xây dựng được chuẩn mực thanh tra, thì sẽ nâng cao vai trò của người làm công tác thanh tra, nếu như quá trình thực hiện các cuộc thanh tra mà người thanh tra viên không làm đúng và đủ các bước, công việc như theo chuẩn mực quy định 47 thì sau này nếu có những sai phạm phát sinh mà qua thanh tra không phát hiện được thì việc xử lý trách nhiệm của người thanh tra viên được thuận lợi dễ dàng. Thực tế hiện nay có những trường hợp qua thanh tra không phát hiện ra được những sai phạm, nhưng một thời gian sau, sai phạm bị phát hiện ra. Lúc này, vì không có chuẩn mực chung để xem xét thanh tra viên đã làm hết trách nhiệm chưa, có khách quan không trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Do đó việc xử lý gặp khó khăn. Khi có được chuẩn mực chung thì thanh tra viên phải thực hiện hết trách nhiệm của mình, tuân thủ đúng những bước, công việc, trình tự mà chuẩn mực đã quy định. Có được như vậy thì hiệu quả công tác thanh tra mới được nâng lên. 3.2.2.3. Tổ chức thường xuyên các cuộc hội thảo về công tác thanh tra. Trong những năm qua, có những dạng vi phạm pháp luật mới phát sinh, các cơ quan thanh tra trở nên lúng túng trong nghiệp vụ thanh tra. Trong khi đó Thanh tra Chính phủ không thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề về công tác thanh tra để người làm công tác thanh tra có cơ hội trao đổi, học tập kinh nghiệp lẫn nhau nhằm nâng cao nghiệp vụ, trình độ, phục vu tốt hơn trong tình hình mới. Thanh tra tỉnh Đồng nai có chế độ giao ban hàng quý đối với thanh tra các huyện và sở ban ngành. Tuy nhiên, các cuộc họp giao ban chủ yếu nắm tình hình công tác thanh tra, chưa đi sâu vào việc phân tích các hình thức sai phạm hoặc trao đổi nghiệp vụ thanh tra để từ đó nâng cao nhận thức và kiến thức cho thanh tra viên. Ở địa phương, Thanh tra tỉnh phải thường xuyên mở các lớp tập huấn hoặc các cuộc hội thảo chuyên ngành về lĩnh vực thanh tra mới phát sinh để các cán bộ thanh tra có dịp học hỏi, nắm bắt những kiến thức, nhận dạng những hình thức sai phạm mới nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác thanh tra. 3.2.2.4. Nâng cao hiệu lực của kết luận thanh tra Thực tế cho thấy, cơ quan thanh tra sau khi thanh tra xong chỉ có quyền kiến nghị xử lý đến cấp có thẩm quyền. Nhưng có trường hợp cấp thẩm quyền không muốn xử lý theo như kết luận và kiến nghị của cơ quan thanh tra thì các kiến nghị đó cũng không được thực thi. Và như thế kết luận thanh tra không mang tính hiệu lực cao. Cơ quan thanh tra hiện chưa có quyền thực hiện các hình thức chế tài nếu như đối tượng thanh tra hoặc cơ quan đơn vị có trách nhiện thực hiện kiến nghị thanh tra không thực hiện đúng như kiến nghị xử lý của Đoàn thanh tra. Do đó, hiện nay tính hiệu lực của kết luận thanh tra chưa phát huy hiệu quả cao. 48 Chính vì vậy, để tăng cường công tác thanh tra thì cơ quan hành chính địa phương như UBND tỉnh phải chỉ đạo sâu sát và có biện pháp xử lý đủ mạnh để các kiến nghị của thanh tra được thực hiện một cách nghiêm túc. Ở cấp Thanh tra Chính phủ phải có kiến nghị về mặt văn bản pháp luật để Chính phủ ban hành quy định chi tiết, cụ thể về trách nhiệm của các đơn vị thực hiện các kiến nghị sau thanh tra và quyền hạn của cơ quan thanh tra trong việc xử lý các trường hợp không chấp hành kiến nghị của thanh tra. Quyền hạn của cơ quan thanh tra trong vấn đề này phải được quy định bằng văn bản quy phạm pháp luật theo hướng tăng quyền hạn về hình thức thực hiện chế tài của cơ quan thanh tra. Đối với cơ quan Thanh tra tỉnh, có cơ chế phải tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện các kiến nghị xử lý sau thanh tra trong phạm vi của tỉnh để từ đó đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các kiến nghị của các đơn vị có liên quan cũng như xử lý kịp thời những trường hợp không thực hiện nghiêm các kiến nghị của đòan thanh tra, nhằm gióp phần làm cho các kiến nghị sau thanh tra được thực thi hơn. 3.2.2.5.Nâng cao trình độ, phẩm chất của người làm công tác thanh tra. Qua xem xét thực tế, lực lượng thanh tra hiện nay vừa thiếu lại vừa yếu. Để đáp ứng với nhiệm vụ và yêu cầu trong tình hình hiện nay, lực lượng thanh tra không chỉ tăng lên về số lượng mà phải tăng về chất lượng, trình độ phù hợp với đặc điểm của từng ngành, từng địa phương. Có Sở chỉ có lực lượng thanh tra chuyên ngành mà không có lực lượng có trình độ để làm công tác thanh tra hành chính. Tại một số huyện, cán bộ thanh tra trình độ chủ yếu là ngành Luật. Do vậy, khi thực hiện các cuộc thanh tra về lĩnh vực tài chính thì không có người làm hoặc nếu làm thì cũng không có hiệu quả cao. Thanh tra tỉnh phải chủ trì phối hợp với các ngành, các huyện rà soát lại, bổ sung đội ngũ thanh tra viên, bố trí lực lượng thanh tra cân bằng về trình độ theo hướng có trình độ về luật, về tài chính…để làm sao một tổ chức thanh tra ở huyện hoặc sở, ban, ngành có đủ lực lượng để thanh tra chuyên ngành và thanh tra hành chính, góp phần thực hiện tốt, có hiệu quả các cuộc thanh tra tài chính ngân sách ở ngành, địa phương của mình. Công tác đào tạo bồi dưỡng về nghiệp vụ thanh tra chưa được các cấp quan tâm đúng mức, hàng năm số lượng cán bộ thanh tra viên đi học các lớp nghiệp vụ thanh tra không nhiều. Trung bình trong 1 năm có khoảng 7 đến 10 cán bộ đi học, trong khi lực lượng thanh tra viên toàn tỉnh là 123 người, trong đó khoảng 95 49 thanh tra viên chưa được học qua lớp nghiệp vụ thanh tra. Điều này làm cho chất lượng các cuộc thanh tra chưa mang lại hiệu quả cao. Thanh tra tỉnh phải chủ động phối hợp với Trường cán bộ thanh tra thường xuyên mở các lớp nghiệp vụ thanh tra cơ bản, nâng cao để từng bước nâng cao chất lượng của đội ngũ thanh tra trong toàn tỉnh, đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới. 3.2.2.6. Bổ sung nội dung kiểm tra việc bố trí nhân sự và kiểm soát nội bộ của đơn vị được thanh tra trong quá trình thanh tra tài chính. Các nội dung chủ yếu trong quá trình thanh tra tài chính, ngân sách của các đoàn thanh tra tập trung vào các vấn đề như: Kiểm tra các nguồn thu, các khoản chi, xem xét xem các khoản thu có thu đúng thu đủ hay không, các khoản chi đảm bảo có chi hợp lý, hợp lệ hay không. Đây là những nội dung thanh tra chủ yếu trong thời gian qua của các đoàn thanh tra tài chính, ngân sách. Tuy nhiên, uốn nắn, chấn chỉnh và phòng ngừa sai phạm là mục tiêu hàng đầu trong công tác thanh tra. Do vậy, để làm tốt công tác phòng chống tham nhũng như hiện nay, trong quyết định thành lập đoàn thanh tra tài chính ngân sách phải bổ sung thêm nội dung kiểm tra việc bố trí nhân sự và quá trình thực hiện kiểm soát nội bộ để từ đó có kiến nghị chấn chỉnh đơn vị đề phòng những sai phạm sẽ phát sinh sau này. Thực tế cho thấy, có những trường hợp, đơn vị bố trí người vừa làm kế toán, vừa làm thủ quỹ, không thực hiện đối chiếu công nợ hoặc kiểm kê quỹ tiền mặt định kỳ. Các đoàn thanh tra qua quá trình thanh tra không quan tâm xem xét vấn đề này vì không nằm trong nội dung thanh tra để có kiến nghị đơn vị chấn chỉnh kịp thời đúng theo quy định quản lý tài chính hiện thời. Đến một thời điểm nào đó, do việc bố trí nhân sự như thế và do không quan tâm đến kiểm soát nội bộ như kiểm tra đối chiếu công nợ phải thu, phải trả, kiểm kê quỹ tiền mặt hoặc đối chiếu với ngân hàng và kho bạc đã xảy ra việc nhân viên của đơn vị lợi dụng kẽ hở mà chiếm đoạt tiền và tài sản của nhà nước. Khi phát hiện ra thì đã quá muộn, không có khả năng khắc phục được, gây tổn thất cho ngân sách nhà nước. Do vậy, phải bổ sung nội dung thanh tra việc bố trí nhân sự và kiểm soát nội bộ trong việc thanh tra tài chính ngân sách là một việc làm hết sức cần thiết trong công tác phòng ngừa, chống tham nhũng, đồng thời giúp cho đơn vị được thanh tra quản lý tốt hơn nửa trong quản lý tài chính của mình. 50 KẾT LUẬN Kể từ khi Ban Thanh tra đặt biệt được Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập ngày 23/11/1945 đến nay, ngành thanh tra Việt Nam đã trải qua hơn 60 năm xây dựng và trưởng thành. Qua mỗi thời kỳ của đất nước, tổ chức và hoạt động thanh tra lại có những bước phát triển mới, và qua mỗi thời kỳ, ngành thanh tra có những đóng góp quan trọng, góp phần vào thắng lợi chung của sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thanh tra, ngay sau ngày thống nhất đất nước, đầu năm 1976, Thanh tra tỉnh Đồng Nai được hình thành. Ngày 15/9/1977, UBND tỉnh Đồng Nai có các quyết định 758, 759, 760 chính thức thành lập Ủy ban Thanh tra tỉnh, Thanh tra các huyện và sở ngành, tạo thành một hệ thống gồm 3 cấp: Cấp tỉnh, cấp huyện và cấp sở, ngành. Gần 30 năm qua, ngành Thanh tra Đồng Nai đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của mình. Thực sự là “tai mắt của trên, là bạn của dưới”. Kết quả hoạt động của ngành Thanh tra đã góp phần tích cực nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Công tác thanh tra kinh tế- xã hội đã được đẩy mạnh trên các lĩnh vực tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp, đất đai, đầu tư xây dựng, văn hóa, giáo dục, y tế, chế độ chính sách về lao động, bảo vệ môi trường, an ninh, quốc phòng,… và đặc biệt đã triển khai những cuộc thanh tra lớn theo chỉ đạo của Thanh tra Chính phủ, như: thanh tra ngành tài chính (năm 1991); thanh tra tài chính tín dụng (năm 1996); thanh tra đầu tư xây dựng và quản lý đất đai theo Quyết định 273 của Thủ tướng Chính phủ (năm 2002 - 2005). Qua công tác thanh tra kinh tế xã hội, ngành đã có những kiến nghị kịp thời sửa đổi về cơ chế chính sách, chấn chỉnh công tác quản lý của các cơ quan, đơn vị; góp 51 phần lập lại trật tự kỷ cương pháp luật, ngăn ngừa tệ nạn tham nhũng, lãng phí, các hành vi vi phạm trên các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội; chấn chỉnh những thiếu sót tồn tại của các cơ quan quản lý nhà nước và các đơn vị cơ sở; xử lý nghiêm túc những hành vi vi phạm. Trong công tác đấu tranh chống tham nhũng, các cơ quan Thanh tra của tỉnh là thành viên trong Ban chỉ đạo chống tham nhũng các cấp, các ngành; chủ động tham mưu đề xuất trong việc củng cố kiện toàn Ban chỉ đạo chống tham nhũng nhằm đưa hoạt động của Ban đi vào nề nếp, phối hợp tốt giữa các cơ quan chức năng để kịp thời thông tin và xử lý nghiêm túc những hành vi tham nhũng, tiêu cực. Các vụ việc sai phạm phát hiện, ngành Thanh tra kịp thời kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý, có theo dõi đôn đốc để xử lý dứt điểm. Trong giai đoạn mới hiện nay của quá trình phát triển đất nước và của tỉnh, nhiệm vụ của ngành Thanh tra hết sức năng nề, đòi hỏi phải có những bước phát triển, đột phá vượt bậc về số lượng và chất lượng của đội ngũ Thanh tra viên cũng như phải tăng cường chất lượng hiệu quả các cuộc thanh tra để có thể đáp ứng đươc những yêu cầu trong nước và yêu cầu từ quá trình hội nhập quốc tế. Với những giải pháp kiến nghị như trên, tác giả hy vọng sẽ góp phần vào trong công cuộc xây dựng ngành Thanh tra vững mạnh về mọi mặt, góp phần cùng với các ngành, các cấp trong hệ thống chính trị nước ta xây dựng một nước Việt nam giàu mạnh, thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. 52 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đinh Văn Minh, Tìm hiểu Luật Thanh tra năm 2004, NXB Chính trị Quốc Gia 2005. 2. TS. Vũ Phạm Quyết Thắng, Những nội dung cơ bản của Luật Thanh tra năm 2004, Thanh tra Nhà nước. 3. PGS.TS. Trần Hậu Kiêm, Một số vấn đề về quản lý nhà nước, NXB Thống kê 2001. 4. TS. Vũ Phạm Quyết Thắng, Hỏi – Đáp về phòng chống tham nhũng, Tạp chí Thanh tra 2006. 5. Thanh tra Chính phủ, Lịch sử Thanh tra Việt Nam 1945-2005, NXB Chính trị Quốc gia 2005. 6. Kỷ yếu các kỳ họp Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai các khóa VI và VII. 7. Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra tài chính do Trung tâm bồi dưỡng cán bộ tài chính - Bộ Tài chính phát hành năm 2000. 8. Luật Ngân sách Nhà nước được Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 16/12/2002. 9. Tạp chí Thanh tra các số năm 2005, 2006 10. Báo thanh tra các số năm 2005, 2006 11. Trang web Thanh tra Chính phủ: www.thanhtra.gov.vn 12. Trang web của tỉnh Đồng Nai: www.dongnai.gov.vn 53

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTăng cường công tác thanh tra thu chi ngân sách nhà nước tỉnh đồng nai.pdf
Luận văn liên quan