Đề tài Thực trạng của lạm phát và hiệu quả chính sách kiềm chế lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 1986 - 2010

Một là, mối quan hệ giữa kiềm chế lạm phát và đẩy mạnh phát triển. Nước nào cũng vậy, khi phát sinh lạm phát đều phải tìm cách kiềm chế vì nếu không nó sẽ triệt tiêu thành quả phát triển, ảnh hưởng tới cuộc sống của mọi người dân. Ở nước ta, số đông dân chúng còn thu nhập thấp nên việc kiềm chế lạm phát không chỉ là nhiệm vụ kinh tế mà còn là nhiệm vụ chính trị-xã hội. Mặt khác yêu cầu phát triển nhanh vẫn là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài để nâng cao đời sống nhân dân, vì vậy nghệ thuật điều hành là ở chỗ tìm ra mối tương quan thoả đáng giữa hai yêu cầu kiềm chế lạm phát và phát triển. Cuối những năm 80, đầu những năm 90 thế kỷ trước nước ta đã thành công trong việc tạo ra tỷ lệ nghịch giữa tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng: chỉ số lạm phát đi xuống đi đôi với chỉ số tăng trưởng đi lên: nếu năm 1986 tỷ lệ lạm phát là 587,2% và GDP chỉ tăng 2,8% thì dần dần tới năm 1993 tỷ lệ lạm phát chỉ còn 8,5% nhưng GDP đã tăng 8,1%. Vì sao làm được như vậy là điều đáng được nghiên cứu.

doc52 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2467 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng của lạm phát và hiệu quả chính sách kiềm chế lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 1986 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á tiêu dùng tháng 9 tăng chậm lại, một mặt do giá trên thị trường thế giới của một số hàng hoá nước ta nhập khẩu đã giảm và sản xuất nông nghiệp trong nước được mùa, nhưng yếu tố quan trọng nhất là do những nỗ lực của các cấp, các ngành trong việc thực hiện 8 nhóm giải pháp của Chính phủ. Tuy nhiên, trong 9 tháng vừa qua giá hàng hoá và dịch vụ đã tăng với tốc độ cao. Giá tiêu dùng tháng 10/2008 giảm 0,19% so với tháng trước, là lần giảm đầu tiên kể từ đầu năm trở lại đây. Nguyên nhân chủ yếu một mặt do 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ tiếp tục phát huy tác dụng; mặt khác do giá cả nhiều mặt hàng trên thế giới giảm đã tác động đến giá tiêu dùng trong nước. Giá tiêu dùng tháng 11/2008 giảm 0,76% so với tháng trước, nguyên nhân chủ yếu một mặt do giá của các mặt hàng đã đứng ở mức cao; nhu cầu tiêu dùng giảm, lượng tồn kho của một số mặt hàng nhiều; giá một số mặt hàng trên thế giới giảm, đặc biệt giá dầu thô giảm mạnh đã tác động đến giá tiêu dùng trong nước; mặt khác do 8 nhóm giải pháp của Chính phủ tiếp tục phát huy tác dụng. Trong các nhóm hàng hoá và dịch vụ có giá giảm so với tháng trước, giá nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm nhiều nhất với 4,86%; tiếp đến là nhóm phương tiện đi lại, bưu điện giảm 4,4%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm nhẹ ở mức 0,07% (lương thực giảm 3,1%, thực phẩm tăng 0,91%). Giá tiêu dùng tháng 12 năm 2008 so với tháng trước giảm 0,68%, trong đó các nhóm hàng hoá và dịch vụ có giá giảm Nhìn chung giá tăng cao ngay từ quý I và liên tục tăng lên trong quý II, quý III, nhưng các tháng quý IV liên tục giảm (so với tháng trước, tháng 10 giảm 0,19%; tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12 giảm 0,68%) nên giá tiêu dùng tháng 12 năm 2008 so với tháng 12 năm 2007 tăng 19,89% và chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm tăng 22,97%. 2.3. Hậu quả của lạm phát giai đoạn này: Đối với ngân hàng, lạm phát làm cho hoạt động bình thường của ngân hàng bị phá vỡ, ngân hàng không thu hút được các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội. Làm cho lãi suất Ngân hàng có những thời điểm vượt trên 18-19%, đối với huy động tiền gửi, và 21-24% với cho vay. Phân phối lại thu nhập, làm cho một số người nắm giữ các hàng hóa có giá trị tăng đột biến giàu lên nhanh chóng và những người có các hàng hóa mà giá cả của chúng không tăng hoặc tăng chậm và người giữ tiền bị nghèo đi. Đối với tiêu dùng: làm giảm sức mua thực tế của nhân dân về hàng tiêu dùng và buộc nhân dân phải giảm khối lượng hàng tiêu dùng, đặc biệt là đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng khó khăn. Mặt khác lạm phát cũng làm thay đổi nhu cầu tiêu dùng, khi lạm phát gay gắt sẽ gây nên hiện tượng là đồng tiền tìm cách tháo chạy ra khỏi tay người tiêu dùng và họ sẽ tìm cách mua bất cứ hàng hóa dù không có nhu cầu. Từ đó làm giàu cho những người đầu cơ tích trữ. Sức tiêu thụ của trong nước có dấu hiệu chậm lại, hoạt động kinh doanh san xuất trong tháng 5 có dấu hiệu có xu hướng chậm lại. Do thắt chặt chính sách tiền tệ làm cho thị trường chứng khoán và bất động sản giảm lại nợ ứ đọng nhiều, tính thanh khoản của Ngân hàng ngày càng giảm. 2.4. Chính sách kiềm chế lạm phát giai đoạn này: Một là, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng theo nguyên tắc thị trường một cách chặt chẽ, chủ động và linh hoạt, bảo đảm mục tiêu chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm huy động các nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế. Hai là, tăng thu gắn liền với thắt chặt, tiết kiệm chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, hạn chế bội chi ngân sách. Thủ tướng yêu cầu hệ thống chính trị phải gương mẫu thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên; cắt giảm các khoản chi chưa thật cần thiết; thực hiện các biện pháp tiết kiệm xăng, dầu; rà soát và giảm các hạng mục, công trình chưa thật bức thiết, đồng thời kêu gọi nhân dân thực hành tiết kiệm tiêu dùng. Ba là, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành dứt khoát phải chịu trách nhiệm đảm bảo cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống và sản xuất như xăng, dầu, gạo, thuốc, xi măng, sắt, thép, phân bón... gắn liền với kiểm soát chặt chẽ giá cả. Một lần nữa Thủ tướng khẳng định, không tăng giá bán than cho ngành điện, không tăng giá điện và giá xăng dầu. Nhà nước tiếp tục bù lỗ cho các mặt hàng này nhằm ổn định giá. Bốn là, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, chính quyền các địa phương, hiệp hội các ngành hàng tăng cường các biện pháp quản lý thị trường giá cả, tổ chức tốt thương mại trong nước, kêu gọi các doanh nghiệp có trách nhiệm với đất nước không đầu cơ trục lợi và tăng giá các mặt hàng. Năm là, tìm mọi cách đẩy mạnh xuất khẩu để giảm nhập siêu. Thủ tướng nhấn mạnh, không có xuất khẩu thì không có tăng trưởng nên tập trung đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh như thuỷ sản, dệt may và da giầy... Thủ tướng nhấn mạnh, Chính phủ sẽ kiểm soát quyết liệt nhập siêu bằng cả biện pháp thị trường và hành chính vì lợi ích của nhân dân và đất nước. Bộ Công thương nghiên cứu hạn chế nhập siêu các mặt hàng không thiết yếu như ô tô nguyên chiếc, phụ tùng xe máy... phấn đấu kiểm soát nhập siêu trong năm 2008 tương đương năm ngoái, tiến tới cân bằng cán cân thương mại. 2.5. Hiệu quả của chính sách kiềm chế lạm phát trong giai đoạn này: Về mặt tích cực: Mặc dù giá tiêu dùng năm 2008 tăng khá cao, nền kinh tế năm 2007 bắt đầu trì trệ rồi khủng hoảng trầm trọng năm 2008, nhưng xu hướng diễn biến theo chiều hướng tích cực vào các tháng cuối năm là do : Kết quả thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó ưu tiên mục tiêu kiềm chế lạm phát với giải pháp thắt chặt tiền tệ là nguyên nhân cơ bản giữ cho lạm phát thấp hơn 20%. Điều này cũng khẳng định những giải pháp mà Chính phủ đề ra là hoàn toàn đúng hướng, kịp thời và đạt kết quả tích cực, giá tiêu dùng đã giảm dần từ tháng 10 năm 2008; Nhưng vào những tháng cuối năm 2008, giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên liệu hàng hoá khác trên thị trường thế giới nước ta nhập khẩu với khối lượng lớn cũng đã giảm mạnh vào những tháng cuối năm, tạo thuận lợi cho giảm giá đầu vào của sản xuất trong nước; Tình hình sản xuất trong nước những tháng cuối năm cũng đã bớt khó khăn hơn, do tiếp cận các nguồn vốn và mức độ giải ngân khá hơn. Về mặt tiêu cực: - Do chính sách tài khóa không hiệu quả làm cho lạm phát ở nước ta ngày một trầm trọng hơn. Để hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế, Chính phủ đã có những kế hoạch chi tiêu nâng cấp cơ sở hạ tầng của đất nước và liên tục bội chi ngân sách trong nhiều năm trên 5% GDP. Đầu tư cho tăng trưởng kinh tế là điều cần thiết, nhưng đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, gây lãng phí lớn trong thời gian dài là nguy hiểm cho nền kinh tế nước nhà . Công tác xây dựng, thẩm định, phê duyệt dự án, tổng dự án và thiết kế kỹ thuật quá chậm trễ, thủ tục rườm rà và phức tạp. - Việc chi tiêu thì không hiệu quả, tình trạng tham nhũng thì gia tăng đã hưởng đến niềm tin của công chúng vào cơ chế và bộ máy điều hành của chúng ta. Đảng và Nhà nước ta đã thấy và đang điều chỉnh, như thành lập cơ quan chống tham nhũng, nhưng cần quyết liệt hơn. - Trong năm 2007, và đầu năm 2008 Nhà nước chủ động thực hiện lộ trình điều chỉnh theo giá thị trường đối với một số loại hàng hóa, vật tư cơ bản như: điện, xăng dầu, than,… làm ảnh hưởng đến việc tăng giá các hàng hóa khác. - Chính sách tiền tệ năm 2007 cũng có những vấn đề cần xem xét, cung tiền tăng nhanh năm 2005 là 23.4%, năm 2006 là 33.6%, năm 2007 là 53.8%, tổng cộng 3 năm cung tiền M2 tăng 134.2%, trong khi 3 năm GDP chỉ tăng 25.09%. Chênh lệch giữa cung tiền tăng trong 3 năm qua (134.5%) với tăng trưởng kinh tế GDP (25.09%) là rất lớn, chắc chắn sẽ đè nặng lên giá cả trong nước, và cuối năm 2007, đầu năm 2008 nó bộc phát mạnh là do có sự cộng hưởng bởi lạm phát quốc tế (USD yếu) và thiên tai. 3. Giai đoạn 3 (2009 – nay): 3.1. Tổng quan về tình hình lạm phát năm 2009: 3.1.1. Nguyên nhân: - Áp lực tăng giá trong nước là do giá thế giới tăng, Việt Nam phải nhập khẩu với tỷ lệ lớn các nguyên nhiên liệu cơ bản, điển hình là xăng dầu. - Giá điện tăng, tín dụng tung ra nhiều,… - Do yếu tố tâm lý xã hội, nhất là sự lo ngại về việc tăng giá cả hàng hóa của ngừơi tiêu dùng. 3.1.2. Thực trạng lạm phát năm 2009: Biểu đồ 1: Biểu đồ diễn biến CPI năm 2009 Nguồn: Tổng cục thống kê CPI năm 2009 có mức tăng chậm hơn so với các năm trước, không có những đột biến lớn, không bất thường về quy luật. Lạm phát cả năm 2009 được công bố chính thức là 6.88% và thấp hơn mục tiêu 7%. Trong tháng 1/2009 CPI lên nhẹ 0,32%, chủ yếu do yếu tố tâm lý, người tiêu dùng chấp nhận giá cao hơn trong tháng giáp Tết Nguyên đán. Sang tháng hai, CPI tăng 1,17% do vào dịp Tết Kỷ Sửu và rằm tháng Giêng kéo giá lương thực, thực phẩm và nhiều loại hàng hóa, dịch vụ đồng loạt lên mức cao. Sang tháng 3 thì CPI hạ nhiệt còn -0,17%. Giá xăng dầu đã tăng 7 lần liên tiếp cho đến ngày 30/8 chốt lại mặt bằng giá mới ở mức xăng A92 có giá bán 15.700 đồng/lít. Tháng 10 giảm nhẹ và ngày 20/11 giá xăng A92 tăng thêm 800 đồng/lít. Chỉ số giá USD đã tăng 10,7% trong vòng 1 năm, tính đến tháng 12/2009 gây áp lực rất lớn lên giá hàng hóa nhập khẩu và các mặt hàng sử dụng nguyên liệu nhập khẩu. Có 10/11 nhóm hàng hoá và dịch vụ tăng giá, chỉ một nhóm giảm giá là nhóm Bưu chính viễn thông giảm 5,27%. Nhóm hàng tăng giá mạnh nhất là nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 11,02%, so với mức tăng chung 5,07%. 3.1.3. Chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ - Thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát; bảo đảm cân đối cung cầu hàng hoá, đặc biệt các hàng hoá là đầu vào của sản xuất và tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân. Tăng cường kiểm soát thị trường, đồng thời xây dựng và phát triển mạng lưới phân phối để bảo đảm cung ứng hàng hoá với giá cả hợp lý, nhất là hàng tiêu dùng thiết yếu và tại những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. - Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát có hiệu quả việc nhập khẩu để giảm tỷ lệ nhập siêu. Tháo gỡ các trở ngại liên quan đến xuất khẩu để giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam - Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí… - Chính phủ VN đã áp dụng một loạt biện pháp kích thích tài chính như: + Cắt giảm tạm thời 30% tỷ lệ thuế DN cho các DNNN. + Hỗ trợ thêm tài chính cho các hộ nghèo. + Hỗ trợ lãi suất 4% và thúc đẩy việc chi tiêu cho cơ sở hạ tầng. Cụ thể gói kích cầu của Chính phủ năm 2009: - “Liệu pháp kích cầu” về bản chất là việc Nhà nước chủ động tác động tích cực tới tổng cung và tổng cầu xã hội một cách thống nhất, có tổ chức và có chủ đích, theo hướng khuyến khích đầu tư và mở rộng quy mô tiêu dùng; kích hoạt và tăng động lực phát triển kinh tế trong bối cảnh có sự suy giảm các động lực phát triển kinh tế do các khó khăn về nguồn vốn và thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp, nhất là khu vực kinh tế tư nhân... - Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu năm 2009, sự xuất hiện các “gói kích cầu” này là phổ biến ở các quốc gia, các tổ chức khu vực và quốc tế như IMF, EU, ASEAN, với quy mô ngày càng tăng, từ hàng ngàn tỷ USD như ở Mỹ, hàng trăm tỷ USD như ở Nhật, Trung Quốc, Nga và các nước thành viên EU… - Trong năm 2009 Chính phủ sẽ triển khai 2 gói kích cầu: + Gói kích cầu thứ nhất trị giá 17. 000 tỷ đồng đã được Chính phủ quyết định thông qua và sớm được giải ngân nhanh chóng  để hỗ trợ 4% lãi suất vay ngân hàng thương mại cho các khoản vay ngắn hạn dưới 1 năm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng, sử dụng không quá 300 công nhân, không nợ đọng thuế và nợ tín dụng quá hạn … + Tiếp đó, gói kích cầu thứ hai cũng đã được công bố với quy mô lớn hơn, thời hạn cho vay dài hơn (tới 2 năm), điều kiện nới lỏng hơn (doanh nghiệp và cả HTX có vốn dưới 20 tỷ đồng, sử dụng dưới 500 lao động, có thể nợ thuế và tín dụng quá hạn nhưng có dự án phù hợp vẫn được xét cho vay) và lĩnh vực cho vay cũng mở rộng hơn… - Sử dụng các chính sách tiền tệ và tài khóa nới lỏng trong năm này làm bội chi ngân sách tăng cao, điều này có khả năng tác động tới tình hình tái lạm phát trong năm 2010. Và để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, Chính phủ VN đã vay 500 triệu USD từ ADB 3.1.4. Hiệu quả của chính sách kiềm chế lạm phát năm 2009: Giá tiêu dùng năm 2009 tương đối ổn định, ngoài tháng 2 và tháng 12 có chỉ số giá tiêu dùng tăng trên 1%, các tháng còn lại giảm hoặc tăng thấp hơn 1% nên chỉ số giá tiêu dùng tháng 12-2009 so với tháng 12-2008 tăng 6,52%, thấp hơn mục tiêu 7% mà Quốc hội đã thông qua. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2009 tăng 6,88% so với năm 2008, thấp nhất trong 6 năm trở lại đây (chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2004 tăng 7,71%; năm 2005 tăng 8,29%; năm 2006 tăng 7,48%; năm 2007 tăng 8,3%; năm 2008 tăng 22,97%). Có thể nói lạm phát năm 2009 nằm trong dự tính và kiểm soát được lạm phát là một thành công của Việt Nam trong năm này. Đạt được kết quả này cũng nhờ vào việc triển khai chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ đạt hiệu quả. Thành công đó càng đặc biệt hơn khi đi đôi với tốc độ tăng trưởng kinh tế 5,2% và thất nghiệp không tới mức nguy hiểm như dự đoán những tháng đầu năm trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu tác động tiêu cực tới nền kinh tế nước ta. Gói kích cầu trước hết có hiệu ứng tâm lý tích cực, làm tăng tức thời lòng tin của các doanh nghiệp, các ngân hàng và nhà đầu tư trong nước và quốc tế vào trách nhiệm của Nhà nước trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp đang gặp khó khăn, cũng như tin vào triển vọng thị trường và môi trường đầu tư trong nước. Gói kích cầu đã  trực tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp  tiếp cận được các nguồn vốn ngân hàng với chi phí rẻ hơn, từ đó giảm bớt chi phí kinh doanh, góp phần giảm giá thành sản phẩm, tăng cạnh tranh và tăng tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ trên thị trường; giúp các ngân hàng cải thiện hoạt động huy động vốn và cho vay tín dụng của mình, một mặt, không phải hạ thấp lãi suất huy động dễ gây giảm và biến động mạnh nguồn tiền gửi và huy động; mặt khác, mở rộng đầu ra nhờ không buộc phải nâng lãi suất cho vay dễ làm thu hẹp cầu tín dụng trên thị trường. Sự ổn định và hoạt động lành mạnh của hệ thống ngân hàng trong khi gia tăng dòng tiền vào thị trường là điều kiện tiên quyết cho sự ổn định kinh tế vĩ mô và gia tăng các hoạt động đầu tư xã hội, mà bài học khủng hoảng tài chính ở Mỹ hiện đang là bài học đắt giá nóng hổi. Hơn nữa, gói kích cầu còn trực tiếp góp phần gia tăng các hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo nền tảng và động lực của sự phát triển xã hội cả hiện tại, cũng như tương lai. Nhiều doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ kịp thời của gói kích cầu đã có thêm cơ hội giữ vững và mở rộng sản xuất, từ đó góp phần giảm bớt áp lực thất nghiệp và đảm bảo  ổn định xã hội. Những hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại quốc gia được tài trợ từ gói kích cầu nếu thực hiện có hiệu quả sẽ có tác động tích cực đến việc tăng dòng vốn chảy vào và mở rộng thị trường đầu ra cho doanh nghiệp và nền kinh tế, từ đó trực tiếp góp phần vào phát triển kinh tế -xã hội đất nước.. Bên cạnh những tác động tích cực trên, sự lạm dụng và sử dụng không hiệu quả các gói kích cầu sẽ có thể gây ra một số hậu quả, chẳng hạn, khi các dự án vay đầu tư có chất lượng thấp hoặc triển khai kém, giải ngân không đúng  mục đích,  sẽ làm thất thoát, lãng phí các nguồn vốn vay, gia tăng gánh nặng nợ nần và các hiện tượng “đầu cơ nóng” gây hệ quả xấu cho cả Chính phủ, doanh nghiệp, ngân hàng và xã hội nói chung. Sử dụng không hiệu quả các gói kích cầu sẽ làm tổn hại đến sức cạnh tranh của nền kinh tế nếu việc cho vay thiên về quy mô và thành tích   (tức là góp phần níu kéo, duy trì cơ cấu kinh tế, cũng như cơ cấu sản phẩm và thị trường kinh doanh lạc hậu, kém hiệu quả)  đồng thời, làm gia tăng hoặc kéo dài tình trạng bất bình đẳng thị trường giữa các loại hình doanh nghiệp, khu vực kinh tế và các địa phương nếu không tuân thủ tốt các nguyên tắc minh bạch và bình đẳng trong triển khai các gói kích cầu. Đặc biệt, về trung hạn, nếu kéo dài quá lâu “liệu pháp kích cầu” và sử dụng không hiệu quả gói kích cầu có thể khiến gia tăng tích tụ về mất cân đối hàng –tiền và vi phạm nghiêm trọng quy luật lưu thông tiền tệ. Tóm lại, về tổng thể và cơ bản, “liệu pháp kích cầu” có nhiều tác động tích cực hơn tiêu cực, đặc biệt các gói kích cầu có ý nghĩa lịch sử nhất định trong quá trình phát triển và quản lý kinh tế-xã hội đất nước, nhất là trong các tình huống khẩn cấp và đặc biệt … 3.2. Tổng quan về lạm phát năm 2010: 3.2.1. Nguyên nhân: Sự tăng giá của các mặt hàng do các khoản chi phí đầu vào tăng thêm như: sự tăng giá của tiền lương (Năm 2010 điều chỉnh tăng lương tối thiểu từ 650.000đ/tháng lên 730.000đ/tháng), điện, nước, than, sắt thép… Nhập khẩu lạm phát. Điều này thể hiện rất rõ trong tâm lý tiêu dùng của người Việt: sính đồ ngoại. Với việc nhập siêu diễn ra trong nhiều năm đã tích tụ một lượng lạm phát được nhập khẩu tương đối lớn. Phụ thuộc vào tâm lý. Sự kỳ vọng vào lạm phát cao cũng khiến cho giá cả hàng hoá có xu hướng gia tăng, đặc biệt vào các dịp lễ, tết. Và thông thường, giá cả khi đã leo thang vào tạo thành mặt bằng giá mới, đặc biệt là dịch vụ và hàng tiêu dùng, rất khó điều chỉnh giảm trở lại. Tác động của lượng tiền lưu thông tăng lên từ sự nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khoá từ năm 2009 chuyển qua cũng là yếu tố gây sức ép lên lạm phát. 3.2.2. Diễn biến lạm phát năm 2010: Bảng 8: Bảng chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI)Các tháng trong năm 2010 ĐVT: (%) Chỉ số giá tiêu dùng tháng So với Tháng trước đó Cùng kì năm trước Tháng 12 năm 2009 1 1,36 7,62 1,36 2 1,96 8,46 3,35 3 0,75 9,46 4,12 4 0,14 9,23 4,27 5 0,27 9,05 4,55 6 0,22 8,69 4,78 7 0.06 8,19 4,84 8 0,23 8,18 5,08 9 1,31 8,64 6,46 10 1,05 9,66 7,58 11 1,86 11,09 9,58 12 1,98 11,95 11,75 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Giá cả trong những tháng đầu năm 2010 tăng khá cao so với các năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2010 tăng 0,75% so với tháng 2/2010. So với tháng 12/2009, CPI tháng 3/2010 tăng 4,12%. CPI tháng 6 chỉ tăng 0,22% so với tháng 5 và tăng 4,78% so với tháng 12/2009. CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2010 tăng 8,75% so với nửa đầu năm 2009. CPI tháng 9 tăng khá mạnh, tăng 1,31% so với tháng 8 và tăng 6,46% so với tháng 12/2009. CPI tháng 12 thăng 1,98% so với tháng 11. Tính đến cuối năm, CPI bình quân năm 2010 tăng 9,19% so với bình quân năm 2009. 3.2.3. Chính sách: Một số trọng tâm chỉ đạo điều hành của Chính phủ đến cuối năm 2010: Triển khai cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Áp dụng các công cụ chính sách tiền tệ như lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, thị trường mở,...để giảm dần mặt bằng lãi suất. Giữ ổn định giá bán than cho ngành điện và giá bán điện cho các đối tượng sử dụng điện; sử dụng linh hoạt, hiệu quả quỹ bình ổn giá và các công cụ khác để điều hành giá xăng dầu theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước...  Tiếp tục thực hiện hỗ trợ lãi suất tín dụng để tiêu thụ máy móc, thiết bị, vật tư sản xuất trong nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Rà soát lại các công trình, dự án đầu tư và các khoản chi thường xuyên, kiên quyết đình hoãn hoặc cắt giảm các công trình, các khoản chi chưa thật sự cần thiết. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và chính sách an ninh lương thực, bảo đảm cho người sản xuất lúa có lãi bình quân hàng năm tối thiểu 30% so với giá thành sản xuất ). 3.2.4. Hiệu quả của kiềm chế lạm phát năm 2010: Tình hình KT – XH năm 2010 đã phát triển theo hướng tích cực. Nền kinh tế phục hồi khá nhanh với mức tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước. Thực hiện có kết quả mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát. Lãi suất huy động và vay vốn ngân hàng đã giảm nhẹ, dư nợ tín dụng tăng cao hơn trong các tháng gần đây  Theo báo cáo của tổng cục thống kê cuối năm 2010, tình hình phát triển kinh tế - xã hội đất nước đã đạt được kết quả khá toàn diện, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế được lạm phát, nền kinh tế tiếp tục phục hồi khá nhanh. Các ngành, lĩnh vực đều đạt tăng trưởng cao hơn cùng kỳ năm trước: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 ước tính tăng 6,78% so với năm 2009, trong đó quý I tăng 5,84%; quý II tăng 6,44%; quý III tăng 7,18% và quý IV tăng 7,34%. Đây là mức tăng khá cao so với mức tăng 6,31% của năm 2008 và cao hơn hẳn mức 5,32% của năm 2009, vượt mục tiêu đề ra 6,5%. Trong 6,78% tăng chung của nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,78%, đóng góp 0,47 điểm phần trăm; công nghiệp, xây dựng tăng 7,7%, đóng góp 3,20 điểm phần trăm và khu vực dịch vụ tăng 7,52%, đóng góp 3,11 điểm phần trăm. Kết quả trên khẳng định tính đúng đắn, kịp thời, phù hợp và hiệu quả của các biện pháp và giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô được Chính phủ ban hành và chỉ đạo quyết liệt các các cấp, các ngành, các địa phương cùng thực hiện.    Tình hình thiếu điện trên diện rộng tăng lên, trong khi khả năng cân đối nguồn điện còn nhiều hạn chế. Thiên tai, hạn hán, lũ lụt được dự báo có thể nặng nề hơn các năm trước sẽ ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất và các mặt của đời sống xã hội. Nhập siêu vẫn ở mức cao. Ước nhập siêu 6 tháng đầu năm khoảng 6,7 tỷ USD, bằng 20,9% kim ngạch xuất khẩu. Giá trên thị trường thế giới và giá vật tư đầu vào tăng. Về tình hình lãi suất tín dụng tuy đang giảm nhưng vẫn còn cao, NHNN đã sử dụng tích cực các công cụ của chính sách tiền tệ và quyết liệt chỉ đạo các tổ chức tín dụng khắc phục khó khăn, phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất kinh doanh. Trong 6 tháng đầu năm 2010, lãi suất huy động VND tại các tổ chức tín dụng giảm 0,7%, trong khi lãi suất cho vay VND giảm 1%. Hiện nay, lãi suất huy động bình quân VND trên tất cả các kỳ hạn của ngân hàng thương mại đạt 11%/năm, lãi suất cho vay bình quân VND là 13,4%/năm. Từ ngày 1/7/2010, các NHTM Nhà nước và các NHTM cổ phần quy mô lớn đã thống nhất tiếp tục giảm lãi suất cho vay, đặc biệt đối với các doanh nghiệp trong  khu vực nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa ở mức tối đa từ 12%-12,5%/năm. Vừa qua, Hiệp hội Ngân hàng cũng kêu gọi toàn thể các tổ chức hội viên trên cơ sở tiết kiệm chi phí, xem xét tiếp tục giảm mức lãi suất cho vay để tạo điều kiện cho doanh nghiệp  tiếp cận được vốn ngân hàng, vay được vốn để phát triển sản xuất - kinh doanh nhằm đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010. Với quyết tâm của Ngân hàng Nhà nước và sự đồng thuận cao của các NHTM, ngành Ngân hàng phấn đấu trong quý 3/2010 mặt bằng lãi suất huy động VND sẽ giảm xuống khoảng 10%/năm và lãi suất cho vay giảm khoảng 12%/năm như chỉ đạo của Chính phủ. Hiện nay thanh khoản của hệ thống ngân hàng tốt, tốc độ tăng vốn huy động cho đến cuối tháng 6/2010 tiếp tục tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng dư nợ, lãi suất trái phiếu Chính phủ cũng đang trong xu thế giảm (lãi suất kỳ hạn 3 năm giảm xuống dưới 10%), chỉ số giá tiêu dùng tháng 6 thấp, lạm phát đang được kiềm chế…  là những yếu tố thuận lợi hỗ trợ cho các Ngân hàng thương mại thực hiện lộ trình giảm lãi suất. 3.3. Một số điều đáng chú ý trong năm 2011: 3.3.1 chỉ số giá tháng 1/2011: Chỉ số giá tiêu dùng tháng 01/2011 tăng 1,74% so với tháng trước, đây là mức tăng cao nhưng đã giảm so với hai tháng trước (Tháng 11/2010 tăng 1,86%, tháng 12/2010 tăng 1,98%). Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, nhóm giáo dục tăng cao nhất với 2,89%; tiếp đến là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,47% (lương thực 2,28%, thực phẩm 2,74%); may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,81%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,67%; nhà ở và vật liệu xây tăng 1,33%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng thấp hơn, ở dưới mức dưới 1% là: Giao thông tăng 0,81%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,77%; văn hóa giải trí và du lịch tăng 0,58%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,36%. Riêng bưu chính viễn thông giảm 0,06%. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 01/2011 so với cùng kỳ năm 2010 tăng 12,17%. 3.3.2 Dự đoán xu hướng giá cả và lạm phát của Việt Nam năm 2011 Đường đi của giá cả - lạm phát năm 2011 ở Việt Nam nhìn chung sẽ phức tạp và khó lường , do chịu hợp lực của nhiều nhân tố tác động trực tiếp và gián tiếp, tức thời hay trễ muộn ít nhiều do sự gia tăng không chỉ một lần các chi phí “đầu vào” như tăng giá xăng, than, điện (theo lộ trình thực hiện giá cả thị trường), nước, chi phí vận tải, mức tiền lương, lãi suất ngân hàng và các chi phí vốn của doanh nghiệp; tiếp tục tái thu, thậm chí tăng thu thuế (như thuế tài nguyên) và một số nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp. Thêm nữa, kinh tế thế giới năm 2011 còn tiềm ẩn nhiều bất ổn trên thị trường hàng hoá và tài chính - tiền tệ, trong đó có xu hướng tiếp tục hoặc gia tăng biến động tỷ giá hối đoái của các đồng tiền chủ chốt và khủng hoảng nợ do thâm hụt ngân sách của nhiều nước như là hệ quả các gói  kích thích kinh tế  kéo dài đến 2010. Đồng thời, nhiều khả năng cho thấy sự phục hồi từng bước nền kinh tế và gia tăng các hoạt động tiêu thụ hàng hoá, nguyên liệu cả trên thị trường trong nước và thế giới (khi kinh tế thế giới phục hồi, giá dầu sẽ tăng cao, kéo theo giá xăng, phân bón, thuốc trừ  sâu và các nguyên liệu sắt, thép, xi măng tăng…), sẽ  còn làm tăng  đồng thời các loại lạm phát chi phí đẩy và lạm phát ngoại nhập. Cũng cần nhấn mạnh rằng, mức độ gia tăng và tác động của lạm phát đến đời sống kinh tế - xã hội còn tuỳ thuộc khá nhạy cảm vào hệ quả và khả năng phối hợp đồng bộ, linh hoạt các chính sách và những yếu tố tâm lý xã hôi khác của Việt Nam, trong đó có công tác dự báo, thông tin, yếu tố tin đồn và khả năng kiểm soát đầu cơ, lũng đoạn thị trường… Có thể nói, năm 2011, Việt Nam tiếp tục chịu đựng nhiều sức ép đa chiều, cả cũ và mới, về kích cầu đầu tư và tiêu dùng trung và dài hạn, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển đổi và cơ cấu lại nền kinh tế thích ứng với các yêu cầu tự do hoá và cạnh tranh bình đẳng thị trường, bảo đảm tính kịp thời và linh hoạt trong phản ứng chính sách trước các biến động mau lẹ, bất lường của bối cảnh trong nước và quốc tế, tăng yêu cầu hỗ trợ và giám sát vĩ mô nghiêm ngặt từ phía nhà nước, đảm bảo ổn định hoá môi trường đầu tư - kinh doanh và sự cân bằng giữa các lợi ích và mục tiêu chính sách… Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa – Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia dự đoán lạm phát năm 2011 chỉ vào khoảng 9%. Ông Nghĩa lý giải, khi chúng ta tính toán đến việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái trong năm nay có thể làm cho CPI tăng lên khoảng 1,1%/năm, từ điều chỉnh giá xăng có thể làm cho CPI tăng khoảng 0,54%/năm tính nhiều vòng, giá điện tăng làm cho CPI tăng thêm 0,71%. Nếu cộng lại thì CPI sẽ tăng thêm khoảng trên trên dưới 2,5%/năm. Một yếu tố khác ảnh hướng tới CPI đó là giá lương thực thực phẩm tăng 6 tháng liên tục ở mức rất cao đó là do giá tăng có tính mùa vụ, lại vừa có tính chu kỳ. Dự báo tới tháng 3 thì giá lương thực thực phẩm sẽ giảm mạnh. Giá lương thực thực phẩm năm 2011 sẽ giảm hoặc tốc độ tăng rất nhỏ có thể giúp cho CPI giảm từ 2,5 – 3%. Như vậy, nó bù được vào tăng giá của giá điện và xăng dầu. 4. Một số biện pháp góp phần kiềm chế và kiểm soát lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới: Một là, điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ để ổn định lãi suất nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trường hợp có nhiều yếu tố bất lợi làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng vượt khỏi tầm kiểm soát, cần áp dụng kịp thời các giải pháp thắt chặt tiền tệ trên cơ sở sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ, như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để kiểm soát tín dụng, đồng thời tiếp tục sử dụng nghiệp vụ thị trường mở như công cụ chủ đạo trong việc điều tiết tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), trong đó lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được điều chỉnh tăng trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc thị trường để phát tín hiệu điều hành chính sách tiền tệ thận trọng và thúc đẩy các tổ chức tín dụng tập trung huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư. Hai là, tiếp tục thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt bám sát cung cầu về ngoại tệ trên thị trường, đảm bảo tỷ giá danh nghĩa bám sát tỷ giá thực, không để xảy ra các cú sốc đột biến về tỷ giá. Ba là, tiếp tục phát triển các công cụ phòng chống rủi ro trên thị trường ngoại hối; phối hợp việc điều hành tỷ giá và điều hành lãi suất nhằm đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa lãi suất VND - tỷ giá - lãi suất ngoại tệ tránh gây tác động xấu thị trường ngoại hối đối với phát triển kinh tế. Ngoài ra, NHNN cần củng cố hoạt động hệ thống ngân hàng thương mại an toàn, lành mạnh, hiện đại và bền vững hơn thông qua việc sửa đổi các quy định về mở văn phòng, chi nhánh, về phân loại nợ đọng và trích lập rủi ro tín dụng... Bốn là, sử dụng công cụ hạn ngạch, thuế... để điều tiết hoạt động xuất, nhập khẩu mặt hàng có thể gây biến động giá trong nước như gạo, sắt thép, phân bón, chất dẻo...; đồng thời thực hiện tốt dự trữ các mặt hàng trên để can thiệp thị trường trong nước khi xảy ra những biến động do thiên tai, và giá cả thế giới lên cao. Năm là, thực hiện tốt công tác kiểm tra, quản lý thị trường, hệ thống phân phối để tránh đầu cơ, đẩy giá lên cao, đồng thời tiếp tục chấn chỉnh, sắp xếp lại mạng lưới kinh doanh, ban hành và tổ chức thực hiện quy chế kinh doanh đối với một số vật tư, hàng hoá quan trọng như xi măng, sắt thép, phân bón, điện, than, thuốc chữa bệnh... để khắc phục tình trạng đầu cơ, mua bán lòng vòng, lũng đoạn thị trường… Sáu là, lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thông thường Ngân hàng Trung ương cần phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, hạ thấp lãi suất chủ đạo, mở rộng cửa cung ứng tiền cho nền kinh tế, tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song bên cạnh việc kinh tế tăng trưởng theo ý muốn, thì lạm phát có thể tăng cao. Vì vậy, trong thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, thông thường ít khí đạt được hai mục tiêu cùng một lúc. Lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, NHTU cần phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, hạ thấp lãi suất chủ đạo, mở rộng cửa cung ứng tiền cho nền kinh tế, tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song bên cạnh việc kinh tế tăng trưởng theo ý muốn, thì lạm phát có thể tăng cao. Bảy là, đẩy mạnh cải cách hệ thống ngân hàng, đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá NHNN, nâng cao tính độc lập của NHTU trong việc hoạch định thực thi chính sách tiền tệ và sự bền vững của hệ thống ngân hàng còn nhiều rủi ro; đẩy mạnh cải cách tài chính công theo hướng phân công, xác định trách nhiệm của các cơ quan, trách nhiệm giải trình đảm bảo công khai minh bạch; đẩy mạnh xã hội hoá kinh tế, xã hội. Ngoài ra, phải  phát triển thị trường vốn, tài chính phục vụ hiệu quả đầu tư phát triển, tăng cường kiểm soát chặt chẽ đầu tư gián tiếp, khuyến khích đầu tư dài hạn. ... Tám là, Việt Nam đang tiếp tục mở cửa nền kinh tế theo xu hướng hội nhập, thực hiện các cam kết của Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, AFTA, cam kết gia nhập WTO, nên thị trường trong nước diễn biến theo sát thị trường quốc tế. Trong quá trình đó, Việt Nam được hưởng lợi từ giá cả xuất khẩu các mặt hàng có khối lượng lớn, thì cũng bị ảnh hưởng của giá cả biến động tăng của những mặt hàng nhập khẩu. Thời gian tới đây giá cả thị trường thế giới tiếp tục có những biến động phức tạp khó lường trước. Đó là tính tất yếu khách quan của các giao dịch buôn bán trên thị trường quốc tế. Vì vậy Việt Nam cần tôn trọng tính thị trường, tôn trọng quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, Chính phủ không nên làm thay thị trường. Đặc biệt là không nên sử dụng các biện pháp có tính bao cấp từ nguồn ngân sách nhà nước như: cấp bù lỗ, cấp bù lãi suất, khoanh nợ,... khi mà thị trường trong nước có tính thông thương với thị trường thế giới. Cơ chế bao cấp qua giá một số mặt hàng có tính theo sát thị trường Thế giới sẽ làm méo mó giá cả trong nước, tạo điều kiện cho tình trạng xuất lậu qua biên giới, tác động tiêu cực đến ngân sách quốc gia, tác động gây tiềm ẩn nguy cơ lạm phát. Chín là, việc sử dụng biện pháp tài chính hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong dự trữ và thu mua nông sản phẩm càng làm gia tăng cơ chế xin cho, kẽ hở cho nhiều loại tiêu cực khác, trong khi người nông dân, người sản xuất không được hưởng lợi trực tiếp. Cơ chế quản lý giá và quản lý thị trường cũng cần linh hoạt và đổi mới phù hợp với tình hình của nền kinh tế nước ta hiện nay. Mười là, lạm phát ở ta cũng do một nguyên nhân quan trọng là Ngân sách Nhà nước liên tục ở mức thâm hụt. Như vậy, kiềm chế thâm hụt tài khoá sẽ góp phần đáng kể vào việc kiềm chế lạm phát và do đó, làm giảm bớt tầm quan trọng của chính sách thắt chặt tiền tệ. Mười một là, ít người thì tỉnh táo đã nhắc đến sự tăng trưởng tín dụng mạnh để kích cầu trong những năm trước là một nguyên nhân khác của xu hướng lạm phát tăng cao trong những năm gần đây. Thế nhưng hầu như không ai đá động đến một nguyên nhân cũng rất quan trọng là thâm hụt tài khoá đã và đang ở mức khá cao như hiện nay. Từ nhận thức đầy đủ về nguồn gốc lạm phát này, có thể thấy chính sách kiềm chế lạm phát nhờ thắt chặt tín dụng và kiềm chế giá của các nguyên nhiên liệu đầu vào không cho tăng lên là chưa đủ, chưa thật thích hợp, thậm chí là có hại . Để cho chính sách tiền tệ có hiệu lực trong việc kiềm chế lạm phát, có một số điều kiện tiên quyết. Đó là một thị trường tài chính được tự do hoá, một Ngân hàng Trung ương độc lập với Chính phủ và một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn, tiến gần đến cơ chế thả nổi hoàn toàn. ở Việt Nam, ba điều kiện này chưa hoàn toàn được xác lập. Chúng ta mới bắt đầu tự do hoá thị trường tài chính qua một số động thái, trong đó có việc xoá bỏ trần lãi suất, nhưng hoạt động trong các ngành tài chính và ngân hàng chưa hoàn toàn dựa trên các nguyên tắc thị trường. NHNN với tư cách là một NHTU, vẫn là một thành viên của Chính phủ và chịu nhiều chi phối từ đây. Cơ chế tỷ giá vẫn rất cứng nhắc, hầu như là gắn chặt giá đồng nội tệ với USD. Chương 4: NHẬN XÉT – KIẾN NGHỊ – KẾT LUẬN 1. Nhận xét tổng quan về tình hình lạm phát trong giai đoạn vừa qua 1986 – 2010. 1.1. Tóm tắt về thực trạng lạm phát ở Việt Nam thời gian qua. Trong năm 1986 -1987, Việt Nam phải chịu lạm phát phi mã với con số lên đến 775%, với mức sụt giá của tiền đồng lên đỉnh hơn 700% vào năm 1987. Kể từ năm 1993, lạm phát đã được khống chế khá tốt và thường dưới 2 con số. Giai đoạn từ năm 1999 đến 2001 là thời kỳ lạm phát thấp nhất của Việt Nam. Trong khoảng thời gian này, CPI lần lượt chỉ ở mức 0.1%, -0.6% và 0.8%. Thời kỳ này gắn liền với giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 – 1998. Lạm phát ở Việt Nam bắt đầu tăng cao từ năm 2004, cùng với giai đoạn bùng nổ của kinh tế thế giới và việc tăng giá của nhiều loại hàng hóa. Năm 2007, chỉ số CPI tăng đến 12.6% và đặc biệt tăng cao vào những tháng cuối năm. Năm 2008 là một năm đáng nhớ đối với kinh tế vĩ mô cũng như tình hình lạm phát ở Việt Nam. CPI đã liên tục tăng cao từ đầu năm, và mức cao nhất của CPI tính theo năm của năm 2008 đã lên đến 30%. Kết thúc năm 2008, chỉ số CPI tăng 19.89%, tính theo trung bình năm tăng 22.97%. Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều hàng hóa cũng xuống mức khá thấp, lạm phát trong nước được khống chế. CPI năm 2009 tăng 6.52%, thấp hơn đáng kể so với những năm gần đây. Tuy vậy, mức tăng này nếu so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới lại cao hơn khá nhiều. Năm 2011, dự đoán CPI cuối kỳ khoảng 9%. Mục tiêu này có thể không được hoàn thành khi 2 tháng đầu năm CPI đã tăng 3.15%. Ngoài ra, nền kinh tế hiện nay vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể dẫn đến lạm phát cao trong những tháng sắp tới. 1.2. Nguyên nhân thực sự gây ra lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn này: Có nhiều yếu tố tác động đến lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua nhưng chủ yếu tập trung vào 3 nguyên nhân chính sau: cung tiền tăng quá mức, giá hàng hóa thế giới tăng cao đột ngột, và sức cầu về hàng hóa trong nước tăng trong khi sản xuất chưa đáp ứng kịp. Một là, cung tiền quá mức được xem là nguyên nhân chính gây ra lạm phát . Từ năm 2000 đến năm 2009, tín dụng trong nền kinh tế tăng hơn 10 lần, cung tiền M2 tăng hơn 7 lần, trong khi đó GDP thực tế chỉ tăng hơn 1 lần. Điều này tất yếu dẫn đến đồng tiền bị mất giá. Thực tế chúng ta dễ nhận thấy là lạm phát ở Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các quốc gia khác trong cùng thời kỳ, mặc dù cùng chịu chung cú sốc tăng giá của hàng hóa thế giới. Tại sao Việt Nam cần một mức tăng trưởng cung tiền cao như vậy? Nguyên nhân là do tỷ lệ đầu tư GDP trong nền kinh tế Việt Nam khá cao, nhưng lại không tạo ra được một tốc độ tăng trưởng kinh tế tương ứng Hai là, giá hàng hóa thế giới tăng cao đột ngột góp phần đẩy chi phí đầu vào để sản xuất trong nước tăng cao, tạo ra lạm phát Ba là, nguyên nhân trực tiếp và dễ thấy nhất là và sức cầu về hàng hóa trong nước tăng trong khi sản xuất chưa đáp ứng kịp Trong năm 2007, sự bùng nổ của nhu cầu tiêu dùng trong nước đã góp phần làm lạm phát tăng tốc. Cũng trong khoảng thời gian đó, giá cả của hàng loạt nguyên nhiên liệu như xăng dầu, sắt thép, và lương thực đều tăng mạnh, kích hoạt cho một đợt tăng giá mạnh mẽ của hầu hết các hàng hóa và dịch vụ trong nước. Lạm phát cao nhất tính theo năm đã lên tới 28% vào tháng 8/2008. Cuối năm 2008, với sự lao dốc của hầu hết các hàng hóa trên thế giới, lạm phát trong nước cũng được chặn đứng. Lạm phát giảm xuống mức thấp nhất chỉ còn 1.97% vào tháng 8/2009. 1.3. Hậu quả của lạm phát trong giai đoạn 1986 – 2010: Làm cho tiền tệ không giữ được chức năng thước đo giá trị, do đó, xã hội không thể tính toán hiệu quả, điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của mình. Tiền và thuế là hai công cụ quan trọng nhất để nhà nước điều chỉnh nền kinh tế đã bị vô hiệu hoá, vì tiền bị mất giá nên không ai tin vào đồng tiền nữa, các biểu thuế không điều chỉnh kịp với mức độ tăng bất ngờ của lạm phát và do vậy, tác dụng điều chỉnh của thuế bị hạn chế. Phân phối lại thu nhập. Kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hoá, bất động sản. Xuyên tạc bóp méo các yếu tố của thị trường làm cho các điều kiện của thị trường bị biến dạng. Sản xuất phát triển không đều, vốn chạy vào những ngành nào có lợi nhuận cao. Ngân sách bội chi ngày càng tăng. Dối với ngân hàng, lạm phát làm cho hoạt động bình thường của ngân hàng bị phá vỡ. Đối với tiêu dùng: làm giảm sức mua thực tế của nhân dân về hàng hoá tiêu dùng và buộc nhân dân phải giảm khối lượng hàng tiêu dùng, đặc biệt là đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng khó khăn. Mặt khác, lạm phát cũng làm thay đổi nhu cầu tiêu dùng, khi lạm phát gay gắt sẽ gây nên hiện tượng là tìm cách tháo chạy khỏi đồng tiền và tìm mua bất kỳ hàng hoá dù không có nhu cầu. 1.4. Hiệu quả của chính sách kiềm chế lạm phát lạm phát 1.4.1. Những thành công của chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ: Trong giai đoạn 1986-1993, nhờ những áp dụng các công cụ của chính sách tiền tệ và chính sách tài chính một cách hợp lý chúng ta đã từ việc không kiểm soát được siêu lạm phát sang hoàn toàn kiềm chế và kiểm soát được nó. Từ tỉ lệ siêu lạm phát 775% năm 1986 xuống tỉ lệ lạm phát 5,2% năm 1993 quả là một kỳ tích, điều đó đã thể hiện chính sách đúng đắn của nhà nước trong việc tìm kiếm biện pháp kiểm soát lạm phát . Trong giai đoạn 1994-1998, lạm phát bùng phát trở lại mức 14,4% năm 1994,trước tình hình đó , NHNN đã thực thi các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm làm giảm mức cung tiền, nhờ đó mà tỉ lệ lạm phát đã giảm , đặc biệt là trong giai đoạn 1996-1998 các công cụ này phát huy tác dụng, tỉ lệ lạm phát đã giảm từ 12,7% năm 1996 xuống còn 4,6% năm 1997 và 3,6% năm 1998. Trong giai đoạn 1999-2001 chúng ta lại rơi vào tình trạng giảm phát, giá cả liên tục giảm . Do vậy, chúng ta đã thực hiện các chính sách nhằm kích cầu và tăng mức cung ứng hàng hoá và dịch vụ trên thị trường . Và kết quả đạt được sau khi đã thực hiện các biện pháp trên là: đã chặn được giảm sút về tăng trưởng kinh tế ; mức tổng cầu đã tăng lên đáng kể, đầu tư cho phát triển kinh doanh đã được phục hồi nhanh: Năm 2000 đã tăng tổng vốn đầu tư toàn xã hội lên 14,6% so với năm 1999;chi tiêu của Chính phủ thể hiện qua ngân sách nhà nước cũng tăng lên rõ rệt; nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng lên khá nhanhNếu 6 tháng đầu năm 1999 khi chưa thực thi chính sách thì tổng mức bán lẻ và dịch êu thụ được trong năm 1998 dã được đảy lùi; sản xuất có bước chuyển biến tích cực cả trong công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ ; vốn đầu tư nước ngoài có dấu hiệu phụvụ chỉ tăng 1,5%thì năm 2000 chỉ tiêu này là 9,1%. Xuất khẩu đã tăng từ 2% năm 1998 lên 23,3% năm 1999 và 25% năm 2000, năm 2001 tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 15,1 tỷ đô la tăng 45% so với năm 2000; tình trạng ứ đọng hàng hoá , không tic hồi, năm 2000 có vốn đăng ký là 1,973 tỷ USD tăng so với 1,568 tỷ USD năm 1999, năm 2001 tổng số vốn đăng ký đã tăng lên con số 3 tỷ USD; tình trạng vốn ứ đọng trong các ngân hàng đã phần nào được giải quyết. Năm 2002 đến 2006 được coi là những năm khá thành công trong tất cả các lĩnh vực của đất nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tất cả các nghành đều có mức tăng cao, trong đó phải kể đến ngành dịch vụ mà đặc biệt là ngành du lịch. Chúng ta cũng đã kiểm soát được lạm phát ở mức 4%. Do chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa kém hiệu quả năm 2007 và sự nôn nóng muốn tăng trưởng nhanh của các nhà kinh tế làm cho tình trạng lạm phát diễn biến theo chiều hướng xấu và cuối cùng là bùng phát năm 2008, nền kinh tế lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Năm 2008, với mục tiêu chống lạm phát đặt lên hàng đầu, chính phủ cùng NHNN đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp đặc biệt là gói kích cầu “quyết định”năm 2009 đã dần đưa đất nuớc ra khỏi tình trạng khủng hoảng và nền kinh tế Việt Nam bắt đầu “sống dậy”. Đến nay, lạm phát tuy đã lắng dịu, nhưng vẫn tồn tại đâu đó một mối nguy cơ tìm ẩn về lạm phát có thể bùng phát bất cứ lúc nào .Vì thế, với thành công mà chính phủ đã đạt đựơc, chưa hẳn là sự thành công lâu dài cho nền kinh tế Việt Nam ở tương lai. 1.4.2. Những tồn tại của chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ: Mặc dù, nhìn một cách tổng thể trong thời gian vừa qua chúng ta đã có thể kiềm chế và từng bước kiểm soát lạm phát , nhưng bên cạnh đó các chính sách của chúng ta vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định. Trong giai đoạn 1986-1993 chúng ta đã thực thi các chính sách tiền tệ và chính sách tài chính một cách có hiệu quả , song, chúng ta cũng phải thừa nhận là sau đó chúng ta đã không thực hiện các chính sách đó một cách thận trọng và phù hợp với tình hình mới Và hậu quả lạm phát lại bùng nổ trở lại vào năm 1994. Trong giai đoạn 1999-2001, việc thực hiện biện pháp kích cầu đã mang lại nhiều kết quả tốt đẹp, xu hướng phát triển là tích cực, song chưa thực sự vững chắc, nền kinh tế còn bộc lộ nhiều tồn tại và yếu kém: đà sút giảm kinh tế đã chặn lại được , nhịp tăng lên khá nhưng vẫn còn thấp hơn mức tăng trưởng bình quân trong 10 năm qua. Mức thu nhập và tiêu dùng của dân cư còn thấp, chưa đủ tạo sức bật mới chõ và phát triển thị trưòng ; môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện hơn nhưng chưa được lành mạnh một cách thực sự; lãi suất tiền gửi giảm song tiền gửi vẫn tăng ,người dân vẫn không muốn tăng tiêu dùng và đầu tư, kích cầu tiêu dùng đạt kết quả còn hạn chế . Một số nguyên nhân của những hạn chế trên : trước hết đó là do bộ máy quản lý còn kém hiệu quả; vai trò điều tiết của nhà nước còn nhiều hạn chế: chưa cung cấp những thông tin cần thiết về diễn biến cung cầu trên thị trưòng nội địa và quốc tế, dẫn đén sản xuất nhiều khi còn tự phát, không gắn với thị trường . Các biện pháp nới lỏng tiền tệ kích cầu diễn ra trong thời kỳ đang chiếm lĩnh kỷ cương lành mạnh hoá các NHTM nên các NHTM tỏ ra thận trọng khi cho vay, người dân đa số có xu hướng tiết kiệm để chi tiêu vào việc gì đó chứ không phải nhằm mục đích đầu tư. 2. Một số kiến nghị của Nhóm nhằm góp phần kiềm chế và kiểm soát lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới: Về chính sách tiền tệ : mục tiêu đầu tiên của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng nội trên cơ sở kiểm soát lạm phát . Chúng ta đều biết vấn đề quan trọng là kiểm soát lạm phát chứ không phải triệt tiêu nó vì tỉ lệ lạm phát vừa phải sẽ có những tác động tích cực lên nền kinh tế. Trách nhiệm này thuộc về NHNN, thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ của mình NHNN sẽ phải cố gắng điều tiết mức cung tiền cho hợp lý. Vì vậy vấn đề nâng cao trình độ của các nhà hoạch định chính sách cũng rất quan trọng. Về chính sách tài khoá : đối với nước ta hiện nay thì vấn đề đặt ra là phải kiện toàn bộ máy nhà nước, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc cắt giảm chi tiêu thường xuyên của Chính phủ , trên cơ sở đó làm giảm bội chi ngân sách nhà nước. Trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ những giải pháp điều tiết kinh tế vĩ mô như sau: Một là, mối quan hệ giữa kiềm chế lạm phát và đẩy mạnh phát triển. Nước nào cũng vậy, khi phát sinh lạm phát đều phải tìm cách kiềm chế vì nếu không nó sẽ triệt tiêu thành quả phát triển, ảnh hưởng tới cuộc sống của mọi người dân. Ở nước ta, số đông dân chúng còn thu nhập thấp nên việc kiềm chế lạm phát không chỉ là nhiệm vụ kinh tế mà còn là nhiệm vụ chính trị-xã hội. Mặt khác yêu cầu phát triển nhanh vẫn là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài để nâng cao đời sống nhân dân, vì vậy nghệ thuật điều hành là ở chỗ tìm ra mối tương quan thoả đáng giữa hai yêu cầu kiềm chế lạm phát và phát triển. Cuối những năm 80, đầu những năm 90 thế kỷ trước nước ta đã thành công trong việc tạo ra tỷ lệ nghịch giữa tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng: chỉ số lạm phát đi xuống đi đôi với chỉ số tăng trưởng đi lên: nếu năm 1986 tỷ lệ lạm phát là 587,2% và GDP chỉ tăng 2,8% thì dần dần tới năm 1993 tỷ lệ lạm phát chỉ còn 8,5% nhưng GDP đã tăng 8,1%. Vì sao làm được như vậy là điều đáng được nghiên cứu. Hai là, mối quan hệ giữa tính cấp bách của yêu cầu kiềm chế lạm phát và cách xử lý bình tĩnh với cái nhìn thực tế, khách quan. Việc kiềm chế lạm phát không đơn giản chút nào, nhất là trong lúc trình độ phát triển và tiềm lực của nước ta có hạn, nhiều nhân tố khách quan nằm ngoài khả năng kiểm soát của nước ta nên không dễ gì đạt được mong muốn trong một sớm một chiều, các biện pháp chỉ có thể đem lại hiệu quả với độ trễ nhất định. Liên quan đến khía cạnh thời điểm cần nhấn mạnh rằng, công tác dự báo và kịp thời đối phó khi lạm phát manh nha cũng như thời điểm đưa ra quyết định này hay quyết định khác có ý nghĩa rất quan trọng. Ba là, mối quan hệ giữa lợi ích của từng nhóm dân cư với lợi ích của toàn dân, giữa lợi ích cục bộ và lợi ích toàn cục. Các biện pháp kiềm chế lạm phát khó có thể làm cho mọi người đều hài lòng mà có thể đụng chạm tới lợi ích của nhóm người này hay nhóm người khác, nhưng lợi ích của toàn xã hội, của toàn bộ nền kinh tế vẫn cần là ưu tiên hàng đầu. Bốn là, mối quan hệ giữa những việc trước mắt và lâu dài. Trong khi thực thi những biện pháp trước mắt để kiềm chế lạm phát cần chú trọng tới cả những biện pháp mang tính lâu dài, ví dụ muốn giảm nhập siêu, nâng cao hiệu quả kinh tế thì lâu nay đã nói nhiều về việc phát triển công nghiệp phụ trợ nhưng xem ra cho tới nay vẫn chưa có chuyển biến mang tính đột phá. Năm là, mối quan hệ giữa các biện pháp riêng lẻ với kế hoạch tổng thể mang tính đồng bộ. Phải chăng tính đồng bộ thể hiện ở việc xử lý đồng thời cả 4 cân đối nói trên với trọng tâm là những biện pháp triệt tiêu nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát được thực hiện theo lộ trình thích hợp, có tính đến tác động liên hoàn nhiều chiều của các giải pháp? Sáu là, mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước và công chúng, kể cả các doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề và các cơ quan truyền thông. Lạm phát là hiện tượng xã hội liên quan tới mọi tầng lớp nhân dân, mọi ngành, do đó cần tranh thủ sự đồng thuận tương đối của dư luận xã hội, thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại giữa các cơ quan hữu quan và công chúng để chí ít có sự thông hiểu chung; ngược lại các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề, các cơ quan truyền thông cũng cần lấy lợi ích toàn cục làm trọng, tránh gây hoang mang trong dư luận, tạo sức ép đối với Nhà nước vì lợi ích riêng. 3. Kết luận: Tóm lại, kiềm chế lạm phát không phải là bài toán không có lời giải, vấn đề là cần chấp nhận những thiệt hại nhất định cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, cho ngân sách nước nhà. Vì vậy, cần có đồng thuận và chia sẻ của Chính phủ, doanh nghiệp và nhân dân. Cần đặt nước ta trong nền kinh tế thế giới để có cái nhìn tổng hợp và bình tĩnh hơn. Các Bộ, các ban ngành từ trung ương đến địa phương cần làm hết sức mình, bằng những kế hoạch cụ thể để triển khai các chỉ đạo mà Thủ tướng Chính phủ đã ban hành. Những kết quả tốt đẹp sẽ đến với kinh tế Việtt Nam nếu chúng ta đoàn kết và có quyết tâm cao theo một đường lối thống nhất của Đảng và Nhà nước ta. Nhận xét của thầy: ………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… TÀI LIỆU THAM KHẢO –—–{—–— Giáo trình nhập môn tài chính tiền tệ. Chủ biên: PGS.TS Sử Đình Thành & PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng. Tài liệu giảng dạy (dành cho Sinh viên) Kinh tế Vĩ mô. Biên soạn: PGS.TS Nguyễn Tri Khiêm & ThS. Phùng Ngọc Triều. Sách Money and Banking, Kinh tế học của David Begg. www.exchangerate.com www. Federalreserve.gov Khuynh hướng Kinh tế vĩ mô Việt Nam, wikipedia.org (vi.wikipedia.org) Website BBC Luân Đôn (www.bbc.co.uk/vietnamese/) Website Chính phủ (www.chinhphu.vn/) Website Tổng cục thống kê (www.gso.gov.vn/) Việt Báo (vietbao.vn/) Trung tâm TTKT – Viện Kinh tế TPHCM ( Dân trí Online (dantri.com.vn) www.tinkinhte.com/ vnexpress.net/

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu_luan_tctt_7868.doc
Luận văn liên quan