Đề tài Tìm hiểu thái độ học tập môn giáo dục học của sinh viên năm thứ hai khoa Hoá Trường ĐHSP Huế

Nâng cao nhận thức, tỏ thái độ tích cực đặc biệt thể hiện mức độ học tập tích cực môn GDH cao hơn nữa. Cần tự giác, chủ động, linh hoạt và sánh tạo trong quá trình học tập môn GDH, tránh lối học thụ động. Tham gia một cách tích cực các hoạt động ngoại khoá do lớp, trường tổ chức góp phần nâng cao khả năng và vận dụng vốn kiến thức của mình, trên cơ sở đó giúp sinh viên hình thành các kỹ năng, kỹ xảo tốt hơn .

doc49 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7638 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu thái độ học tập môn giáo dục học của sinh viên năm thứ hai khoa Hoá Trường ĐHSP Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ã học vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể. Khi sinh viên nhận thức đầy đủ mục đích, ý nghĩa của việc học tập môn tâm lý học thì người học sẽ hình thành thái độ học tập đúng đắn, tự nguyện, tự giác tham gia vào hoạt động học tập bộ môn để thoả mãn nhu cầu nắm bắt tri thức của mình, đồng thời thực hiện các hành vi, hành động học tập tương ứng với thái độ học tập tích cực đó. Khi nói về tính tích cực của học sinh - một điều kiện của thái độ học tập thì GS-TSKH Thái Duy Tuyên đã đưa ra một số dấu hiệu sau: Các em có chú ý học tập không ? Có hăng hái tham gia vào mỗi hình thức của hoạt động học tập không ? ( thể hiện ở chỗ giơ tay phát biểu ý kiến ghi chép...) Có hoàn thành những nhiệm vụ dược giao không ? Có ghi nhớ tốt những điều đã học không ? Có nhiều bài học không ? Có thể trình bày lại nội dung bài học theo ngôn ngữ riêng không ? Có vận dụng được những kiến thức đã học vào thực tiễn không ? Có đọc thêm, làm thêm các bài tập khác không ? Tốc độ học tập có nhanh không ? Có hứng thú trong học tập không hay vì một ngoại lực nào đó mà phải học ? Có quyết tâm, có ý chí vượt khó khăn trong học tập không ? Có sáng tạo trong học tập không ? Còn trong lý luận dạy học của trường phổ thông - Một số vấn đề của lý luận dạy học hiện đại của M.A.Danilop và M.N.Xcatkin thì lại nói về tính tự giác – cũng là một trong những điều kiện của thái độ học tập: Trong quá trình lĩnh hội tự giác sẽ hình thành ở học sinh thái độ sáng tạo đối với việc nghiên cứu và ứng dụng kiến thức, tư duy logic và thế giới quan của các em. Sự học tập tự giác của học sinh bắt đầu từ việc ý thức được nhiệm vụ và sự cần thiết của công việc đang làm và từ khi xuất hiện hứng thú đối với công việc đó khi có nhu cầu giải quyết đúng đắn công việc đó. Hoạt động tự lực của học sinh bao giờ cũng có những thao tác tư duy và hành động thực hành. Từ đó phát triển tính tự lực của tư duy là nền tảng của toàn bộ hoạt động của học sinh. Với Sfranz khi nghiên cứu về thái độ học tập và thái độ tập thể của học sinh đã đưa ra một bảng tiêu chuẩn đánh giá hai loại thái độ này. Bảng câu hỏi của L-K-V (Lern-Kollecktiv-Verhaaltten) biểu hiện: Trên lớp chú ý nghe giảng Học bài và lam bài tập đầy đủ Cố gắng vươn lên học được nhiều Không vội vàng phản ứng tiêu cực nếu có chỗ nào chưa hiểu hoặc không nhất trí với bài giảng Đảm bảo kỉ luật để học tốt Cố gắng đạt thành tích học tập tốt và nâng cao thành tích học tập của mình một cách trung thực Thích độc lập thực hiện nhiệm vụ học tập Hăng hái, nhiệt tình trong giờ thảo luận và sữa chữa bài tập Hoàn thành nhiệm vụ một cách nghiêm túc Giữ gìn tài liệu học tập một cách cẩn thận Khi bàn về việc đánh giá thực trạng, thái độ học tập của học sinh, GS Hoàng Đức Nhuận và GS Lê Đức Phúc đã nêu ra các chỉ số: Chú ý Hăng hái tham gia vào mọi hình thức của hoạt động học tập Hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao Đọc thêm và làm các bài tập khác Vận dụng hay chuyển tải những gì đã học vào thực tế Hình thành và phát triển các quan hệ với thầy, cô, bạn bè nhằm mục đích giúp đỡ bản thân học tập tốt hơn Chất lượng sản phẩm, kết quả học tập Theo các nhà tâm lý học đã đưa ra dấu hiệu thái độ độc lập trong học tập: Tự đặt vấn đề Tự giải quyết vấn đề theo nhiều chiều, nhiều phương khác nhau Có ý chí theo đuổi mục đích đến cùng Tự đánh giá kết quả tìm được Cần có thái độ đúng với việc sử dụng các phương tiện; thư viện, phòng thí nghiệm bộ môn 1.4. Đặc điểm của môn Giáo dục học 1.4.1. Vị trí, vai trò của môn GDH trong quá trình đào tạo ở nhà trường sư phạm Giáo dục học là bộ môn khoa học có tầm quan trọng trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt đối với việc đào tạo nghề nghiệp cho người giáo viên tương lai - những nhà sư phạm sẽ góp phần đào tạo nên những con người có ích cho xã hội. Cùng với tâm lý học (TLH), GDH giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nó không chỉ trang bị cho sinh viên một hệ thống tri thức khoa học mà còn trang bị cho những tri thức nghiệp vụ, rèn luyện tay nghề. GDH chuẩn bị hành trang trực tiếp cho các giáo sinh sau này làm công tác giáo dục. Sở dĩ như vậy vì nó không chỉ đảm bảo trau dồi về mặt tri thức lý luận mà còn đảm bảo trang bị các năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục. Có ý kiến cho rằng nếu không có môn GDH thì nhà trường sư phạm không thể xem là nơi đào tạo nghề sư phạm được. Giáo dục học có chức năng trội là hình thành những phẩm chất cho sinh viên, có lợi thế là giáo dục lòng yêu nghề, yêu trẻ, giáo dục tình cảm yêu nghề nghiệp, hình thành và củng cố lòng tin vào nghề. Nếu ai đó đã vào trường sư phạm mà không yêu thích nghề dạy học thì GDH chính là phương tiện để củng cố niềm tin nghề nghiệp ở họ, để cho họ an tâm với nghề mà mình lựa chọn. Cũng chính vì vậy mà môn GDH còn được xem là môn học dạy nghề, là môn học đặc trưng của nhà trường sư phạm. Ngoài ra GDH còn là môn học phục vụ chính trị, nó quán triệt được đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục, đào tạo, chính vì vậy mà ngoài việc trang bị cho sinh viên những tri thức nghiệp vụ thì nó còn trang bị cho họ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, giáo dục thể hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước để kế thừa và xây dựng thành công CNXH. Thông qua môn học này sinh viên không những nắm được nguyên lý giáo dục của Đảng ta mà còn nắm được những tri thức về khoa học giáo dục, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo cho việc học tập hiện tại và giảng dạy trong tương lai, bồi dưỡng lý tưởng nghề nghiệp, trau dồi đạo đức, có tình cảm đối với học sinh và đối với nghề giáo. Phát huy tư duy sáng tạo, có động lực đúng đắn để tự hoàn thiện mình, chủ động đáp ứng được sự đòi hỏi ngày càng cao của xã hội mới cũng như đối với người giáo viên tương lai. Chính vì những lý do đó mà môn GDH nó có vị trí hết sức đặc biệt trong nhà trường sư phạm, là môn học không thể thiếu được để nhà trường sư phạm sản xuất ra “những kỹ sư tâm hồn” phục vụ cho sự nghiệp CNH – HĐH ở nước ta, đưa nền giáo dục nước ta phát triển nhịp nhàng với các nước trên thế giới. 1.4.2. Vai trò của thái độ học tập đối với chất lượng học tập nói riêng và đối với sự phát triển nhân cách sinh viên nói chung Quá trình học của sinh viên là một quá trình vận động dưới chỉ đạo hướng dẫn của giáo viên .I.F.Kharlamôp đã chỉ rõ : “Chỉ có sự phối hợp hữu cơ và sự liên hệ qua lại chặt chẽ giữa tác động bên ngoài của giáo viên, bộc lộ trong việc trình bày tài liệu, chương trình và tổ chức công tác học tập của sinh viên và sự căng thẳng trí tuệ bên trong của các em mới tạo nên cơ sở học có hiệu quả”. Vì vậy, dù được đặt trong một môi trường, điều kiện hoàn cảnh thuận lợi, thầy cô giáo tâm huyết với nghề trang thiết bị học tập đầy đủ khang trang đến đâu đi chăng nữa nếu bản thân học sinh không có thái độ học tập đúng đắn thì không thể chủ động, tích cực, tự giác và chẳng có được kết quả học tập cao. Bản thân sinh viên phải là một chủ thể tích cực tự khám phá chiếm lĩnh tri thức, tự đặt kế hoạch học tập, tự lựa chọn nội dung, mục đích, cách thức học tập dưới sự hướng dẫn của thầy cô. Nếu sinh viên có thái độ học tập tích cực khi tham gia vào quá trình lĩnh hội tri thức thì sẽ biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục và như vậy sinh viên sẽ thu được hiệu quả học tập cao nhất, như vậy thái độ học tập của sinh viên sẽ quyết định tính tích cực nỗ lực và ảnh hưởng gián tiếp đến chất lượng học tập của chính họ . Thái độ là yếu tố cần được hình thành và phát triển ở sinh viên . Nó có mối liên hệ chặt chẽ với sự hình thánh và phát triển nhân cách của sinh viên. Chỉ có học tập với thái độ tích cực, niềm say mê, khát vọng, sự cố gắng trí tuệ và nghị lực cao mới giúp sinh viên nắm được những tri thức cần thiết từ đó thúc đẩy sự phát triển trí tuệ. Trên cơ sở đó phát triển các phẩm chất trí tuệ, thế giới quan, nhân sinh quan khoa học, dần dần hoàn thiện nhân cách theo yêu cầu của xã hội. 1.4.3. Sự cần thiết nâng cao thái độ học tập môn GDH cho sinh viên sư phạm Trong nhà trường sư phạm thì việc nâng cao được thái độ trong hoạt động nhận thức cho sinh viên là việc làm hết sức quan trọng, đặc biệt là đối với bộ môn GDH thì đó là một yêu cầu không thể thiếu để có thể giúp sinh viên có được kết quả học tập, nhận thức một cách cao nhất. Như chúng ta đã biết trong nhà trường sư phạm bộ môn GDH có vai trò và vị trí hết sức quan trọng, nó không chỉ trang bị cho sinh viên một hệ thống tri thức khoa học mà còn có khả năng rèn luyện những tri thức về nghiệp vụ, các kỹ năng sư phạm cần thiết, chuẩn bị hành trang trực tiếp cho sinh viên có thể làm tốt công tác dạy học – giáo dục sau này. Tuy nhiên trong quá trình học tập không phải bất cứ sinh viên nào cũng nhận thức được một cách đúng đắn và đầy đủ về tầm quan trọng của bộ môn GDH, do vậy nhìn chung trong những năm qua theo kết quả điều tra thì phần lớn cho thấy các kết quả học tập bộ môn GDH chưa cao, các kỹ năng sư phạm trước khi sinh viên ra trường cũng phần nào chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tế của việc tham gia vào quá trình dạy học. Thực trạng học tập bộ môn GDH kém là do phần lớn sinh viên chưa có được sự cố gắng trong học tập, nhận thức còn hời hợt, thái độ trong hoạt động nhận thức chưa cao, đồng thời do chính phương pháp dạy học mà giáo viên sử dụng chưa đạt hiệu quả. Từ những vấn đề trên cho thấy việc cần thiết phải nâng cao thái độ trong hoạt động nhận thức cho sinh viên là một trong những việc làm cần thiết và cấp bách trong quá trình dạy học bộ môn GDH hiện nay. 1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến thái độ của sinh viên trong học tập Giáo dục học. Thái độ học tập nói chung và học tập môn giáo dục học nói riêng có rất nhiều yếu tố tác động và chi phối. Đó có thể là do môn học, giáo viên, điều kiện và cơ sở vật chất, trình độ và năng lực của mỗi bản thân...nhưng đều nằm trong các yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan: 1.5.1 Các yếu tố khách quan Sự hấp dẫn môn học Đây là yếu tố tác động mạnh đến việc hình thành và phát triển thái độ học tập. Sự hấp dẫn môn học thu hút sự tập trung chú ý và thoả mãn được nhu cầu nhận thức của mỗi người học tạo ra sự say mê thích thú và có những thái độ tích cực trong học tập. Phương pháp và năng lực giảng dạy của giảng viên Yếu tố này tác động mạnh đến nhận thức và chi phối đến yếu tố khác. Phương pháp dạy học là tổ hợp các cách thức hoạt động của cả thầy và trò trong quá trình dạy và học được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của thầy nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học. Nghĩa là giáo viên cần vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với các phương pháp dạy học khác nhau để giờ học đỡ nhàm chán, tẻ nhạt. Người giáo viên có nhiều năng lực như năng lực hiểu học sinh, năng lực tri thức...trong đó năng lực gia công và chế biến tài liệu học tập. Muốn nâng cao nhận thức và thái độ học tập môn tâm lý học thì người giáo viên phải gia công như thế nào để phù hợp với trình độ, nghề nghiệp...để bài học trở nên hấp dẫn, sinh động. Biết cách khơi dậy và phát triển nhu cầu nhận thức của người học. Tầm hiểu biết, cách tổ chức và hướng dẫn hoạt động học tập của giáo viên cũng làm cho không khí lớp học càng thêm sinh động. Vị trí và nội dung môn học Phần lớn sinh viên thường có thói quen và sở thích chú trọng các môn chuyên ngành còn các môn học khác thì học tập không được tích cực so với môn chính. Điều này cũng có ảnh hưởng tới thái độ học tập nói chung và giáo dục học nói riêng. Mỗi môn giáo dục học có đặc trưng riêng do nội dung, tính chất cơ cấu và sự sắp xếp chương trình: Nếu nội dung phù hợp với trình độ nhận thức, phù hợp với khả năng của sinh viên, phù hợp với thực tiễn sinh động thì hình thành và phát triển thái độ học tập môn giáo dục học. Bầu không khí lớp học Là nhân tố tác động đến thái độ học tập của người học vì thế nếu lớp học có bầu không khí căng thẳng thì ảnh hưởng xấu đến hứng thú học tập. Nếu không khí tâm lý thoải mái, tích cực, sinh động thì tác động rất tốt đến hứng thú học tập. Cơ sở vật chất và điều kiện học tập Bao gồm quỹ thời gian trường, lớp và các phương tiện kỹ thuật dạy học...cũng là yếu tố giúp sinh viên học tập có hiệu quả. 1.5.2 Các yếu tố chủ quan Động cơ chọn nghề Tất cả các sinh viên khi dự thi vào trường Sư phạm không phải đều do ý nguyện, sở thích của bản thân mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như; mong muốn của gia đình, hoàn cảnh gia đình, ngoài ra cung có một số lý do khác như điều kiện kinh tế, vật chất hay tâm lý bản thân. Tuỳ theo mỗi trường hợp mà hình thành thái độ học tập khác nhau. Có thể năng lực là tương đương nhưng về thái độ học tập các môn học nói chung và giáo dục học nói riêng của những bạn muốn làm giáo viên học tập say mê, tích cực...hơn những người dự thi theo lý do khác. Trình độ và năng lực nhận thức của sinh viên Đây là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc hình thành và phát triển nhận thức cũng như thái độ học tập các môn giáo dục học của sinh viên. Do vậy, trình độ nhận thức là cơ sở cần thiết để phát triển thái độ học tập một cách đúng đắn đồng thời là điều kiện quan trọng để bồi dưỡng thái độ học tập. Khi cá nhân hiểu được toàn bộ ý nghĩa, nhận thức rõ tầm quan trọng của công việc đã làm và đang làm hay nói chính xác hơn là của việc học tập nói chung và môn tâm lý học nói riêng thì ở họ nảy sinh thái độ tích cực, tự giác trong hoạt động nhận thức. Mặt khác, sự phát triển trí tuệ cá nhân còn là cơ sở để tạo ra thành tích trong công việc cũng như trong học tập. Không ai có thể đạt được thành tích, có thể hành động đạt kết quả nếu họ không có một trình độ phát triển trí tuệ và khả năng nhất định. Vấn đề nhận thức quá khó hay quá dễ đều ảnh hưởng tới thái độ học tập. Khi trình độ và năng lực nhận thức của sinh viên thấp thì hầu hết các môn học đối với họ đều quá khó, khi đó mọi vấn đề đều nằm ngoài tầm hiểu biết của họ, thái độ chán nản xảy ra là điều tất yếu. Ngược lại khi trình độ và năng lực nhận thức của sinh viên đã phát triển cao mà giáo viên không gợi ra các vấn đề thực tiễn cho họ tìm tòi, sáng tạo thì ở họ sẽ luôn tồn tại những suy nghĩ “biết rồi không cần suy nghĩ, không cần chú ý” từ đó mà hình thành thái độ thờ ơ, không tập trung trong quá trình học tập. Nhu cầu và hứng thú nhận thức Phát triển nhu cầu nhận thức của sinh viên là một trong những biện pháp nảy sinh và xây dựng hứng thú học tập, từ đó quyết định tới thái độ học tập. Nhu cầu nhận thức cao sẽ làm nảy sinh khát khao và luôn tìm tòi để đạt được tri thức, làm cơ sở để hình thành hứng thú. Khi đã có hứng thú với môn học thì sẽ hình thành thái độ say mê học tập tích cực, nỗ lực vươn lên chiếm lĩnh tri thức vào thực tiễn cuộc sống, quá trình học tập... Chương 2: THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU THÁI ĐỘ HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC HỌC CỦA SINH VIÊN NĂM HAI KHOA HOÁ TRƯỜNG ĐHSP HUẾ 2.1. Vài nét khái quát về Khoa Hoá - Trường ĐHSP Huế Trường ĐHSP Huế được thành lập năm 1957, tiền thân Trường CĐSP Huế. ĐHSP Huế bắt đầu đào tạo sinh viên hệ Đại học từ năm 1958 – 1959. Bước vào cuối thế kỷ XX – theo nghị quyết 30/CP của chính phủ quyết định sáp nhập Trường ĐHSP Huế với 5 trường Đại học khác là: ĐH Khoa học Huế, ĐH Kinh tế Huế, ĐH Nông Lâm Huế, ĐH Ngoại ngữ và ĐH Nghệ thuật Huế (nay là Học viện âm nhạc) thành Đại học Huế. Từ đó ĐHSP Huế hoạt động và phát triển dưới sự chỉ đạo của Đại học Huế. Khoa Hoá là một trong những khoa của trường đại học sư phạm Huế, với đội ngũ giảng viên đông đảo, mỗi người phụ trách về một học phần, nội dung cụ thể theo sự chỉ đạo của ban lãnh đạo khoa. Năm hai khoa Hoá có hai lớp: Hoá 2A và Hoá 2B. Lớp Hoá 2A có 57 sinh viên, 13 nam và 44 nữ, lớp Hoá 2B có 56 sinh viên trong đó 14 nam và 42 nữ. Tổng cộng số sinh viên năm hai của khoa Hoá là 113, tuy nhiên phạm vi đề tài chỉ giới hạn 100 sinh viên. Là những sinh viên năm thứ hai nên phần nào họ đã khá thích ứng được với hoạt động học tập ở đại học, tuy mỗi sinh viên có một đặc trưng riêng nhưng trong quá trình học tập các bạn đã cố gắng tích cực tìm hiểu nhiều đặc điểm hoà hợp để học tốt. Đặc biệt, sinh viên năm hai khoa Hoá được sự hướng dẫn, chỉ đạo của các giảng viên chủ nhiệm nhiệt tình và ban cán sự lớp năng nỗ, tích cực đã đạt được thành tích học tập khá cao trong năm vừa rồi. Đồng thời sinh viên năm hai khoa Hoá cũng tham gia rất tích cực trong hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao của nhà trường và đạt nhiều giải cao. 2.2. Nhận thức của sinh viên năm hai khoa Hoá về môn Giáo dục học trong nhà trường sư phạm Có thể nói hoạt động nhận thức là tiền đề quan trọng và có quan hệ mật thiết với các hoạt động khác và các hình thức tâm lý của con người. Nhận thức về môn Giáo dục học có thể đánh giá qua các chỉ số: nhận thức về sự cần thiết, nhận thức về tác dụng và nhận thức về đặc điểm của môn Giáo dục học. 2.2.1. Nhận thức của sinh viên về sự cần thiết đối với môn Giáo dục học Để điều tra nhận thức của sinh viên năm hai khoa Hoá về sự cần thiết của môn giáo dục học chúng tôi chọn 4 mức độ được trình bày ở câu hỏi số 1. Chúng tôi yêu cầu sinh viên xem xét, suy nghĩ và đưa ra đánh giá của mình. Sau khi xử lý số liệu của 100 phiếu điều tra, kết quả như sau: Bảng 1. Mức độ nhận thức của SV về sự cần thiết đối với môn GDH Mức độ Số lượng Tỷ lệ % Rất cần thiết 46 46% Cần thiết 32 32% Bình thường 24 24% Không cần thiết 0 0% Dựa vào bảng 1 ta thấy, phần lớn sinh viên cho rằng Giáo dục học là môn rất cần thiết trong nhà trường sư phạm, chiếm tỷ lệ cao nhất 46%, đó là môn học bắt buộc mọi sinh viên sư phạm phải trang bị cho mình để trở thành một nhà giáo giỏi, một nhà giáo không chỉ làm tốt nhiệm vụ dạy học mà còn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giáo dục của mình. Hành trang của mỗi người trong tương lai không chỉ là kiến thức chuyên môn nghiệp vụ mà còn cần đến cả tri thức công cụ hỗ trợ cho việc hành nghề được tốt hơn. Đó là sự hiểu biết về Giáo dục học để qúa trình giáo dục đạt hiệu quả. Có 32/100 ý kiến chiếm 32% số sinh viên nhận thức Giáo dục học là môn học cần thiết trong nhà trường sư phạm. Như vậy, 78% sinh viên đã đánh giá môn GDH thật sự có tầm quan trọng đối với những nhà giáo tương lai. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thái độ học tập tích cực đối với môn GDH . Bên cạnh đó, cũng có một bộ phận sinh viên không nhỏ cho rằng sự cần thiết của môn GDH chỉ ở mức bình thường, chiếm tỷ lệ 24%. Theo họ đây là môn học chung, môn điều kiện, việc có hoặc không có nó không liên quan đến chuyên ngành cũng như không có ý nghĩa quyết định đối với nghề nghiệp tương lai sau này. Họ tiến hành hoạt động học đối phó với kỳ thi hoặc xem nó là môn học bắt buộc, học một cách miễn cưỡng. Qua tìm hiểu chúng tôi thấy những sinh viên này thường thờ ơ, không ghi chép bài vở và tỏ ra không quan tâm tới bài học hay mất trật tự, làm việc riêng, ngủ gật trong giờ học. Đặc biệt, không có sinh viên nào cho rằng việc học GDH là không cần thiết (0%). Tóm lại: phần lớn sinh viên đã nhận thức được tầm quan trọng, sự cần thiết của môn GDH, bên cạnh đó vẫn tồn tại một số sinh viên chưa có nhận thức đúng đắn, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ học tập môn GDH của họ. 2.2.2. Nhận thức về tác dụng của môn Giáo dục học ở sinh viên Để điều tra nhận thức của sinh viên năm hai khoa Hoá về tác dụng của môn giáo dục học chúng tôi chọn 3 mức độ được trình bày ở câu hỏi số 2. Tiêu chuẩn đánh giá như sau: mức độ 1 (rất đúng) 3 điểm, mức dộ 2 (có phần đúng) 2 điểm, mức độ 3 (không đúng) 1 điểm. Chúng tôi yêu cầu sinh viên xem xét, suy nghĩ và đưa ra đánh giá của mình. Sau khi xử lý số liệu của 100 phiếu điều tra, tính ra tổng điểm và điểm trung bình, kết quả như sau: Bảng 2. Nhận thức của sinh viên về tác dụng của việc học môn GDH (1: rất đúng, 2: có phần đúng, 3: không đúng) TT Mức độ 1 2 3 ∑ TB Tác dụng SL SL SL 1 Trang bị hệ thống tri thức về khoa học giáo dục cho nghề dạy học. 88 12 0 288 2.88 2 Rèn luyện tri thức về nghiệp vụ, các kỹ năng sư phạm cần thiết 56 39 5 251 2.51 3 Bồi dưỡng lý tưởng nghề nghiệp, giáo dục lòng yêu nghề mến trẻ. 79 13 8 271 2.71 4 Trang bị những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác–Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đào tạo. 57 33 10 247 2.47 5 Trang bị các năng lực tổ chức hoạt động giáo dục 42 45 13 229 2.29 Qua bảng 2 cho thấy hầu hết sinh viên cho rằng học môn GDH giúp sinh viên trang bị hệ thống tri thức về khoa học giáo dục cho nghề dạy học với số điểm trung bình cao nhất (2.88). Chiếm vị trí thứ hai là tác dụng bồi dưỡng lý tưởng nghề nghiệp, giáo dục lòng yêu nghề mến trẻ cho sinh viên sư phạm với số điểm trung bình (2.71). Tiếp theo là nhóm tác dụng của môn GDH là rèn luyện tri thức về nghiệp vụ, các kỹ năng sư phạm cần thiết và trang bị những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác–Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đào tạo điểm trung bình lần lượt là (2.51) và (2.47). Sau cùng là trang bị các năng lực tổ chức hoạt động giáo dục chỉ có số điểm trung bình là (2.29), thấp hơn so với các tác dụng khác. Nhìn chung, tuy có nhiều ý kiến khác nhau nhưng phần lớn sinh viên đã có nhận thức đúng đắn và tương đối đồng đều về tác dụng của môn GDH, dễ thấy điểm trung bình của các tác dụng khá cao (đều trên 2.2) và không chênh lệch nhau lớn. Nó góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển thái độ học tập tích cực đối với môn GDH của sinh viên. 2.2.3. Nhận thức về đặc điểm của việc học tập môn Giáo dục học Để điều tra nhận thức của sinh viên năm hai khoa Hoá về đặc điểm của môn GDH chúng tôi chọn 4 đặc điểm được trình bày ở câu hỏi số 3. Chúng tôi yêu cầu sinh viên xem xét, suy nghĩ và đưa ra đánh giá của mình. Sau khi xử lý số liệu của 100 phiếu điều tra, tính ra tỷ lệ phần trăm kết quả như sau: Bảng 3. Nhận thức của SV về đặc điểm của môn GDH Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ % Dễ học, dễ hiểu 28 28% Trừu tượng nhưng dễ tiếp thu 20 20% Trừu tượng, khó tiếp thu, khó hiểu 8 8% Có phương pháp học tốt thì dễ hiểu 44 44% Như vậy, có rất nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề đặc điểm của môn GDH. Chiếm số lượng lớn nhất là đồng ý với đặc điểm có phương pháp học tốt thì dễ hiểu, chiếm (44%). Ngược lại, đặc điểm trừu tượng, khó tiếp thu, khó hiểu ít được sinh viên lựa chọn nhất, chỉ chiếm (8%). Còn có một bộ phận sinh viên cho rằng GDH dễ học, dễ hiểu và GDH trừu tượng nhưng dễ tiếp thu chiếm tỷ lệ lần lượt (28%) và (20%). Vâng, từ nhận thức rất khác nhau về đặc điểm của môn GDH, vấn đề đặt ra cho người dạy môn GDH là phải có những phương pháp tác động cụ thể, sát đối tượng, sinh động để sinh viên có thể học tốt bộ môn này. Mỗi môn học có những khó khăn riêng, mỗi sinh viên cũng có trình độ nhận thức khác nhau vì vậy là sinh viên nên tự tìm cho mình phương pháp học tập phù hợp nhất, nhằm nâng cao chất lượng học tập môn GDH nói riêng và hiệu quả học tập nói chung. 2.3. Thái độ học tập môn Giáo dục học của sinh viên 2.3.1. Thái độ của sinh viên đối với môn Giáo dục học Để điều tra thái độ của sinh viên năm hai khoa Hoá đối với môn GDH chúng tôi chọn 5 thái độ được trình bày ở câu hỏi số 4. Chúng tôi yêu cầu sinh viên xem xét, suy nghĩ và đưa ra đánh giá của mình. Sau khi xử lý số liệu của 100 phiếu điều tra, tính ra tỷ lệ phần trăm, kết quả như sau: Bảng 4. Thái độ của sinh viên đối với môn Giáo dục học. Thái độ Số lượng Tỷ lệ % Rất say mê, hứng thú 10 10% Hứng thú 21 21% Bình thường 52 52% Thờ ơ, không hứng thú 17 17% Chán ghét 0 0% Nhìn chung, sinh viên chưa có thái độ học tập tích cực. Số sinh viên rất say mê, hứng thú chiếm (10%) và số sinh viên có thái độ hứng thú cũng chỉ chiếm (21%). Như vậy qua bảng 4 cho thấy sự chênh lệch rõ rệt giữa các mức độ nhận thức và tỏ thái độ của sinh viên đố với môn GDH. Nếu ở bảng 1 đa số sinh viên nhận thức được việc trang bị kiến thức GDH cho sinh viên sư phạm là rất cần thiết và cần thiết thì ở đây sinh viên bày tỏ thái độ không phù hợp với những gì họ nhận thức. GDH là môn học nặng về lý thuyết nên không dễ tạo nên sự thích thú và hào hứng đối với sinh viên. Bởi thế sinh viên hứng thú với nó chiếm tỷ lệ không nhiều. Số sinh viên có thái độ bình thường chiếm tỷ lệ hơn ½ tổng số sinh viên trả lời ( 52%). Chính điều này sẽ cản trở lớn việc thể hiện tính tích cực học tập của sinh viên. Không ít sinh viên cho rằng đây là môn học chung, môn học điều kiện nên chưa bày tỏ yêu thích nó cũng như hành động tích cực trong học tập có nhiều hạn chế . Tuy nhiên, còn có (17%) sinh viên thờ ơ, không hứng thú khi học GDH. Tìm hiểu cho thấy số sinh viên này rơi vào số sinh viên đánh giá GDH không thực sự quan trọng và cần thiết đối với bản thân của họ. Qua trao đổi với một giảng viên được biết các em thường có những biểu hiện thờ ơ, không tập trung chú ý, không hoàn thành các bài tập. Có thể sự không yêu thích môn GDH do nhiều nguyên nhân chi phối nằm trong bản thân mỗi sinh viên (như năng lực, nhu cầu, hứng thú, sở thích...) hoặc nằm ngoài bản thân người học như (nội dung, phương pháp giảng dạy của giáo viên, điều kiện học tập ..v v). Dù là nguyên nhân nào đó đi nữa thì trước hết sinh viên phải điều chỉnh và đánh giá đúng đắn để bày tỏ thái độ phù hợp hơn, bởi vậy thái độ sẽ là tiền đề cho hành động học tập tích cực của sinh viên trong quá trình học tập từ đó nâng cao chất lượng hiệu quả học tập và giảng dạy bộ môn này trong nhà trường đại học. Không có sinh viên nào chán ghét khi học môn GDH, chiếm (0%), đây là điều đáng mừng. Vì nếu sinh viên không chán ghét học GDH thì việc nâng cao thái độ cho sinh viên sẽ gặp ít khó khăn hơn. 2.3.2. Thái độ của sinh viên trong giờ học môn Giáo dục học Để điều tra về thái độ của sinh viên năm hai khoa Hoá trong giờ học môn giáo dục học chúng tôi chọn 4 mức độ được trình bày ở câu hỏi số 5. Tiêu chuẩn đánh giá như sau: mức độ 1 (thường xuyên) 4 điểm, mức độ 2 (thỉnh thoảng) 3 điểm, mức độ 3 (hiếm khi) 2 điểm và mức độ 4 (Chưa bao giờ) 1 điểm. Chúng tôi yêu cầu sinh viên xem xét, suy nghĩ và đưa ra đánh giá của mình. Sau khi xử lý số liệu của 100 phiếu điều tra, tính ra tổng điểm và điểm trung bình, kết quả như sau: Bảng 5. Thái độ của sinh viên trong giờ học môn Giáo dục học. TT Các mức độ 1 2 3 4 Các biểu hiện SL SLL SL SL ∑ TB Xếp hạng Mong muốn được giảng viên gọi trả lời câu hỏi 9 12 39 40 190 1.90 6 Kết hợp đọc giáo trình và tài liệu tham khảo 2 5 11 82 127 1.27 10 Tập trung, chú ý nghe giảng và ghi chép bài đầy đủ 52 28 16 4 380 3.80 1 Tích cực phát biểu xây dựng bài 16 9 23 5 52 1 189 1.89 7 Tích cực suy nghĩ khi giảng viên nêu vấn đề 28 26 35 11 271 2.71 3 Ghi chép những câu nói, tục ngữ, danh ngôn...có liên quan đến môn học. 0 9 24 67 142 1.42 9 Tham gia đầy đủ các tiết học Giáo dục học 74 20 6 0 368 3.68 2 Tích cực tham gia các buổi ngoại khoá 26 37 29 8 218 2. 2.18 5 Trao đổi với giảng viên khi chưa thực sự hiểu bài 8 12 15 15 65 16 163 1.63 8 Trao đổi với bạn bè về những vấn đề mình quan tâm 16 33 35 16 249 2.49 4 Qua số liệu điều tra cho thấy, điểm TB lớn nhất (3.80) là biểu hiện “tập trung chú ý nghe giảng và ghi chép bài đầy đủ”. Đến lớp việc chú ý nghe giảng và ghi chép bài đầy đủ là quan trọng nhất, là nhiệm vụ tất yếu của mỗi sinh viên để tiếp thu tri thức mở rộng kiến thức của mình. Xét trong các biểu hiện thì đây là nhiệm vụ quả không khó đối với người học. Bởi vậy việc tập trung nghe giảng và chú ý ở mức gần như thường xuyên là điều dễ hiểu. Xếp thứ hai là biểu hiện “tham gia đầy đủ các tiết học Giáo dục học” với điểm TB (3.68). Có thể nói phần lớn sinh viên đã tham gia đầy đủ các tiết học GDH với mức độ gần như thường xuyên. Tuy nhiên, qua phỏng vấn chúng tôi được biết bên cạnh nhiều sinh viên đi học đầy đủ vì thích học và sợ không hiểu bài thì một số sinh viên thường xuyên tham gia đầy đủ các tiết học giáo dục học là vì họ sợ bị mất điểm chuyên cần, thái độ. Vì chỉ cần nghỉ một buổi học không phép là điểm chuyên cần thái độ phải dưới 8. Chứng tỏ bên cạnh đa số sinh viên có thái độ tích cực vẫn có một số sinh viên đi học một cách đối phó, chưa thực sự tự giác tự nguyện. Xếp thứ ba, thứ tư, thứ năm là các biểu hiện “tích cực suy nghĩ khi giảng viên nêu vấn đề”, “trao đổi với bạn bè về những vấn đề mình quan tâm” và “tích cực tham gia các buổi ngoại khoá” với điểm trung bình lần lượt (2.71), (2.49) và (2.18), khá cao so với các biểu hiện khác, tuy mức độ cao nhất chỉ gần mức thỉnh thoảng. Trong khi đó biểu hiện “tích cực phát biểu xây dựng bài”, “mong muốn được giảng viên gọi trả lời câu hỏi” và “trao đổi với giảng viên khi chưa thực sự hiểu bài” có số điểm trung bình tương đối thấp lần lượt (1.90), (1.89) và (1.63) xếp thứ 6, thứ 7 và thứ 8, chưa đến mức hiếm khi. Điều này chứng tỏ mặc dù phần lớn sinh viên tích cực suy nghĩ khi giảng viên nêu vấn đề, tức là đã chuyển yêu cầu của giáo viên thành nhu cầu của bản thân, từ đó suy nghĩ để giải quyết những vấn đề đó; đồng thời trao đổi với bạn bè những vấn đề mình chưa hiểu để hiểu bài hơn, song họ vẫn chưa tự tin để phát biểu ý kiến của mình trước cả lớp, chưa mạnh dạn để trao đổi với giáo viên khi chưa thật sự hiểu bài, vì vậy mà mức độ phát biểu bài chỉ dừng lại ở mức độ gần như là hiếm khi. Biểu hiện “ghi chép những câu nói, tục ngữ, danh ngôn...có liên quan đến môn học” và “ kết hợp giáo trình với tài liệu tham khảo” xếp vị trí thứ 9, thứ 10 với điểm trung bình lần lượt (1.42), (1.27). Các biểu hiện khác không có sinh viên nào lựa chọn. Điều này cho thấy ngoài giáo trình chính sinh viên hiếm khi hay chưa bao giờ sử dụng thêm một tài liệu tham khảo nào, cũng như rất ít sưu tầm những tài liệu liên quan đến môn học. Qua phỏng vấn các sinh viên giải thích cho biểu hiện này là vì giáo dục học không phải là môn chuyên ngành nên không cần đầu tư nhiều, học cơ bản là được, không cần phải tham khảo gì. Mức độ còn rất thấp chứng tỏ sinh viên xem ra vẫn chưa có thái độ học tập tích cực. Tóm lại, mức độ biểu hiện thái độ tích cực của sinh viên trong giờ học môn Giáo dục học nhìn chung là chưa cao. Đa số sinh viên chọn các mức độ hiếm khi và chưa bao giờ. Các mức độ khá chênh lệch ở các biểu hiện khác nhau. Điều này ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập của sinh viên. 2.3.3. Thái độ của sinh viên trong giờ học môn Giáo dục học Để khảo sát về thái độ của sinh viên năm hai khoa Hoá trong giờ học môn giáo dục học chúng tôi chọn 4 mức độ được trình bày ở câu hỏi số 6. Tiêu chuẩn đánh giá như sau: mức độ 1 (thường xuyên) 4 điểm, mức độ 2 (thỉnh thoảng) 3 điểm, mức độ 3 (hiếm khi) 2 điểm và mức độ 4 (Chưa bao giờ) 1 điểm. Chúng tôi yêu cầu sinh viên xem xét, suy nghĩ và đưa ra đánh giá của mình. Sau khi xử lý số liệu của 100 phiếu điều tra, tính ra tổng điểm và điểm trung bình, kết quả như sau: Bảng 6. Thái độ của sinh viên trong quá trình học môn GDH ở nhà. TT Các mức độ 1 2 3 4 ∑ TB Xếp hạng Các biểu hiện SL SL SL SL Lập kế hoạch học tập 0 11 18 81 150 1.50 10 Hệ thống hóa tri thức 6 21 49 23 208 2.08 4 Kiểm tra đánh giá việc thực hiện 0 13 52 35 178 1.78 6 Cố gắng lấy thêm những ví dụ 12 20 34 34 210 2.10 3 Hoàn thành nhiệm vụ học tập mà giáo viên giao cho 47 28 16 19 323 3.23 1 Lập nhóm học tập 0 9 35 56 153 1.53 8 Điều chỉnh kế hoạch học tập và phương pháp học tập cho phù hợp 0 15 17 68 147 1.47 11 Thu thập những tài liệu có liên quan đến bài học 3 18 29 60 184 1.84 5 Ôn tập củng cố kiến thức 7 26 20 47 166 1.66 7 Vận dụng tri thức kỹ năng đã được học vào thực tiễn 13 27 20 40 213 2.13 2 Nghiên cứu tài liệu tham khảo để mở rộng, đào sâu tri thức 0 14 27 59 155 1.55 9 Qua bảng số liệu trên ta thấy rằng số lượng sinh viên lựa chọn mức độ thuờng xuyên là rất ít, có đến 5/11 biểu hiện không có sinh viên nào chọn mức độ thường xuyên. Đa số sinh viên lựa chọn mức độ hiếm khi và chưa bao giờ đối với các biểu hiện học tập GDH ở nhà của mình. Trong đó, chỉ có biểu hiện “hoàn thành nhiệm vụ học tập mà giáo viên giao cho” là thường xuyên nhất, với số điểm TB là (3.23). Qua phỏng vấn chúng tôi được biết nguyên nhân chủ yếu của đa số sinh viên vì yêu thích, muốn chiếm lĩnh tri thức, tự giác, bên cạnh đó một số khác vì sợ giáo viên kiểm tra bài . Vả lại nhiệm vụ học tập của giáo viên đưa ra không phải là quá sức, chỉ cần chăm chỉ là làm được. Nhóm các biểu hiện “vận dụng tri thức, kỹ năng được học vào thực tiễn”, “Cố gắng lấy thêm những ví dụ” và “hệ thống hoá các tri thức” có điểm trung bình khá cao, lần lượt là (2.13), (2.10) và (2.08), xếp thứ 2, thứ 3 và thứ 4. Sinh viên rất thích những môn học có tính ứng dụng cao, vì vậy đối với môn GDH số sinh viên vận dụng tri thức kỹ năng vào thực tiễn nhiều hơn các biểu hiện khác, tuy mức độ chưa cao. Một phần môn GDH là rất thiết thực cho SV. Trong quá trình học ở nhà sinh viên cũng đã cố gắng lấy thêm những ví dụ để minh họa cho các khái niệm, kiến thức, tuy mức độ chỉ trên hiếm khi. Vì SV hiểu rõ hơn ai hết về vai trò của việc lấy những dẫn chứng, những ví dụ trong học tập. Tiếp theo là lần lượt các biểu hiện “thu thập những tài liệu có liên quan đến bài học” (ĐTB = 1.84), “kiểm tra đánh giá việc thực hiện” (ĐTB = 1.78), “ôn tập củng cố kiến thức” (ĐTB = 1.66), “nghiên cứu tài liệu tham khảo để mở rộng, đào sâu tri thức” (ĐTB = 1.55) và “lập nhóm học tập” (ĐTB = 1.53). Như vậy, sinh viên đã có những biểu hiện thể hiện thái độ tích cực học tập tuy chưa thường xuyên. Xếp cuối cùng là biểu hiện “lập kế hoạch học tập” (ĐTB = 1.50). Có thể nói, lập kế hoạch học tập là việc làm hết sức quan trọng, nó giúp sinh viên phân phối thời gian hợp lý, phù hợp, tránh tình trạng học dồn vào mùa thi. Song, qua điều tra cho thấy mức độ lập kế hoạch học tập thường xuyên của sinh viên là rất thấp. Không có sinh viên nào lập kế hoạch học một cách thường xuyên và có đến 81 sinh viên chưa bao giờ lập kế hoạch học tập. Qua phỏng vấn chúng tôi được biết hầu như sinh viên đều không có thói quen lập kế hoạch học tập cho tất cả các môn. Một số sinh viên chỉ khi nào đến mùa thi mới lập kế hoạch. 2.3.4. Hành động tự học môn GDH của SV Để khảo sát thái độ học môn GDH thông qua hành động tự học của sinh viên, chúng tôi dùng câu hỏi số 8 với 4 mức độ. Sau khi xử lý số liệu kết quả như sau: Bảng 7. Mức độ tự học môn GDH của SV TT Mức độ tự học SL % 1 Học thường xuyên 5 5 2 Học khi có lịch thi 56 56 3 Học trước khi thi 27 27 4 Học bài cũ 12 12 5 Không bao giờ học 0 0 Qua bảng 7 ta thấy đa số học môn GDH khi đã có lịch thi chiếm số lượng nhiều nhất (56%). Như vậy hoạt động học tập của đa số sinh viên mang tính chất đối phó, không tự giác, các sinh viên chỉ cần thi qua là đủ. Điều này không chỉ rơi vào môn tiếng anh mà còn các môn học khác nữa. Với một biểu hiện tự học môn GDH như trên thì khó có kết quả cao được. Chỉ có 2 sinh viên thường xuyên tự học chiếm (5%). Đây là những em chăm học, biết sắp xếp lịch học, thời khoá biểu rõ ràng . Đó là một biểu hiện đáng hoan nghênh và cần phát huy trong việc học tập tất cả các môn học. Tuy nhiên con số 5/100 sinh viên thường xuyên tự học là quá thấp. Chứng tỏ mặc dù cũng có khá nhiều sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của môn GDH song họ không có thói quen tự học. Họ chưa thể biến nhận thức thành hành động. Nguyên nhân chủ yếu mà các sinh viên cho biết là vì họ thiếu ý chí để học thường xuyên. Có 27 sinh viên học trước khi thi chiếm 27%. Điều này cho thấy việc học không có kế hoạch cũng như tâm lý “nước đến chân mới nhảy” của đa số sinh viên hiện nay. Họ thường thức rất khuya để học cho kịp bài dẫn đến sức khoẻ không đảm bảo. Đồng thời hiệu quả học không cao. Đây là một biểu hiện vô cùng đáng ngại. Có 12% sinh viên học bài cũ, chứng tỏ chỉ có một số ít sinh viên tự giác học tập, còn lại phần lớn sinh viên học một cách đối phó. Nhưng những sinh viên muốn học tốt môn GDH sinh viên phải tự giác học bất cứ lúc nào. Ngược lại việc học không được tiến hành một cách thường xuyên, học rời rạc, không có hệ thống thì tri thức hình thành không trọn vẹn, từ đó nảy sinh tâm lý chán học, lười học , bê trễ trong học tập. Tóm lại: Bên cạnh số ít sinh viên thường xuyên tự học phần lớn sinh viên chưa có biểu hiện này, họ chỉ dừng lại ở mức độ học khi có lịch thi. Chứng tỏ sinh viên chưa thực sự tích cực tự giác trong học tập môn GDH. 2.4. Những nguyên nhân ảnh hưởng đến thái độ học tập môn Giáo dục học của SV Để khảo sát về những nguyên nhân ảnh hưởng việc học tập môn GDH chúng tôi chọn 4 mức độ được trình bày ở câu hỏi số 7 và câu hỏi số 9. Tiêu chuẩn đánh giá như sau: mức độ 1 (nhiều) 4 điểm, mức độ 2 (bình thường) 3 điểm và mức độ 3 (ít) 2 điểm và mức độ 4 (hầu như không) 1 điểm. Chúng tôi yêu cầu sinh viên xem xét, suy nghĩ và đưa ra đánh giá của mình. Sau khi xử lý số liệu của 100 phiếu điều tra, tính ra tổng điểm và điểm trung bình, kết quả như sau: Nguyên nhân chủ quan Bảng 8: Những nguyên nhân chủ quan ảnh hưởng đến thái độ học tập môn Giáo dục học của SV TT Mức độ 1 2 3 4 ∑ TB Xếp hạng Các nguyên nhân SL SL SL SL Chưa có động cơ học tập đúng đắn 59 27 14 0 345 3.45 2 Không thích ngành sư phạm 0 9 13 78 131 1.31 7 Chương trình học nặng 0 3 8 89 114 1.14 8 Không thích học môn này 7 13 22 58 189 1.59 6 Chưa có phương pháp học tập phù hợp 47 22 18 13 303 3.03 3 Muốn dành thời gian để học các môn chuyên ngành. 69 18 11 2 354 3.54 1 Chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng của môn học 0 20 22 58 162 1.62 5 Chưa biết cách vận dụng vào thực tiễn 34 25 28 13 280 2.80 4 Nổi lên hàng đầu là phần lớn sinh viên muốn dành thời gian học môn chính khoá nhiều hơn (Điểm TB = 3.54). Dù xác định là quan trọng nhưng ở một chừng mực nào đó GDH vẫn bị xem là phụ nên dành mọi sự nỗ lực cho các môn học khác. Sinh viên được hỏi thường thổ lộ rằng bản thân họ thường dành nhiều thời gian cho các môn chuyên ngành hơn. Chính với lối suy nghĩ này đã làm hạn chế thái độ tích cực học tập môn GDH của sinh viên và sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập của mỗi người . Nguyên nhân quan trọng thứ hai là do sinh viên chưa xác định động cơ học tập đúng đắn (Điểm TB = 3.45). Qua phỏng vấn chúng tôi được biết nhiều sinh viên chỉ học cho qua để không phải thi lại hay học vì điểm mà ít có động cơ học để chiếm lĩnh tri thức. Cho nên họ cũng ít khi tự giác học tập mà chỉ học khi nào giảng viên yêu cầu hay đến mùa thi. Nguyên nhân quan trọng thứ ba có tác động không nhỏ đến thái độ học tập môn GDH là nguyên nhân sinh viên chưa xác định cho mình một phương pháp học tập phù hợp để mang lại kết quả cao trong học tập (Điểm TB = 3.03) . Phần lớn sinh viên còn lúng túng khi thích ứng với phương pháp học tập mới và cách dạy mới . Phương pháp học của sinh viên đòi hỏi tính độc lập , tích cực, sáng tạo. Mặt khác phương pháp dạy GDH cũng như các môn học khác đòi hỏi rất lớn tính tích cực, hợp tác, chủ động của sinh viên. Tuy nhiên do thói quen thụ động trong cách học phổ thông khiến nhiều sinh viên gặp khó khăn trong việc xác định phương pháp học phù hợp cho bản thân. Một lý do cũng ảnh hưởng không nhỏ đến thái độ học tập môn GDH là phần lớn sinh viên chưa biết cách vận dụng vào thực tiễn (Điểm TB = 2.80). Từ đó không thúc đẩy bản thân cố gắng tích cực học tập. Lý do thứ năm là bên cạnh đa số sinh viên hầu như không ảnh hưởng vẫn còn có một số sinh viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn học dẫn đến chưa có thái độ học tập tốt (Điểm TB = 1.62). Có nhận thức đúng chưa chắc đã có thái độ đúng, song chưa có nhận thức đúng thì chắc chắn không thể có thái độ đúng. Các nguyên nhân còn lại như không thích học môn này (Điểm TB = 1.59), không thích ngành sư phạm ( Điểm TB = 1.31) và chương trình học nặng (Điểm TB = 1.14) mặc dù cũng có ảnh hưởng song mức độ rất ít. Tóm lại: Có rất nhiều nguyên nhân về phía chính bản thân sinh viên ảnh hưởng đến thái độ học tập môn GDH của họ. Trong đó những nguyên nhân ảnh hưởng nhiều nhất là do bản thân muốn dành thời gian học môn chính khoá, do chưa xác định động cơ học tập đúng đắn và chưa có phương pháp học tập phù hợp, những nguyên nhân khác có ảnh hưởng với số ít sinh viên hơn và mức độ ảnh hưởng cũng ít hơn. Nguyên nhân khách quan Bảng 9: Nguyên nhân khách quan ảnh hưởng đến thái độ học tập môn GDH của sinh viên Như đã phân tích tính tích cực học tập môn tiếng Anh của sinh viên do nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến. Mỗi nguyên nhân có một ảnh hưỏng khác nhau đến tính tích cực học tập môn tiếng Anh của sinh viên. Theo đánh giá của giảng viên dạy bộ môn thì yếu tố có ảnh hưởng lớn đến tính tích cực học tập môn tiếng Anh của sinh viên chủ yếu do mức độ nhận thúc của người học còn hạn chế, chưa có thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học phù hợp. Ngoài ra phương pháp dạy của giảng viên cũng có ảnh hưởng lớn đến tính tích cực học tập môn tiếng Anh của sinh viên. TT Mức độ 1 2 3 4 ∑ TB Xếp hạng Các nguyên nhân SL SL SL SL Phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa lôi cuốn 11 25 27 38 211 2.11 3 Không khí học của lớp trầm tư, uể oải, căng thẳng 42 30 21 7 307 3.07 2 Không phải là môn chính khoá 48 36 12 4 328 3.28 1 Chương trình học nặng 4 16 23 57 167 1.67 5 Giáo trình và tài liệu tham khảo không đáp ứng được yêu cầu. 3 6 35 56 156 1.56 6 Không đủ thời gian học ở nhà 6 10 31 53 168 1.68 4 Qua số liệu điều tra cho thấy nguyên nhân khách quan có ảnh hưởng nhiều nhất đến thái độ học tập của sinh viên là vì GDH không phải là môn chính khoá (Điểm TB = 3.28). Chứng tỏ tâm lý chung của phần lớn sinh viên là chỉ học kĩ những môn chuyên ngành, những môn khác thì chỉ học sơ sơ cho đủ điểm qua là được. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến thái độ học tập của sinh viên, khiến họ có thái độ đối phó với các yêu cầu học tập. Nguyên nhân thứ hai ảnh hưởng lớn nữa là bầu không khí học của lớp trầm tư, uể oải, căng thẳng (Điểm TB = 3.07). Trong giờ học rất ít sinh viên phát biểu bài, nêu thắc mắc cho nên tạo nên một sức ỳ về mặt tâm lý, làm cho mọi người trong lớp đều cảm thấy chán nản, mệt mỏi, ít hứng thú. Tiếp theo là do phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa lôi cuốn (Điểm TB = 2.11). Có thể nói, trong dạy học vai trò của người dạy là vô cùng quan trọng, đóng vai trò chủ đạo, tổ chức, điều khiển, điều chỉnh hoạt động học của người học. Vì thế, phương pháp giảng dạy của giảng viên chưa lôi cuốn sẽ làm sinh viên ít hứng thú trong quá trình học, với môn học. Nguyên nhân thứ bốn và thứ năm là do sinh viên không đủ thời gian học ở nhà (Điểm TB = 1.68) và do chương trình nặng (Điểm TB = 1.67). Qua phỏng vấn chúng tôi được biết quỹ thời gian của một số sinh viên khá hạn hẹp, ngoài học trên lớp một số sinh viên còn đi học thêm ở ngoài và làm thêm. Đồng thời chương trình của môn GDH đối với một số sinh viên cũng khá nặng. Do đó ảnh hưởng xấu đến thái độ học tập môn GDH của sinh viên. Cuối cùng là bởi giáo trình và tài liệu tham khảo không đáp ứng được yêu cầu (ĐTB = 1.56), tuy nhiên mức độ ảnh hưởng khá ít. Bởi lẽ yêu cầu của giáo viên đối với sinh viên khoa cơ bản chỉ dừng lại ở một mức độ nhất định vì GDH không phải là môn chuyên ngành của họ. Những sinh viên bị ảnh hưởng bởi yếu tố này là những sinh viên có thái độ học tập rất tích cực, tự giác, bởi lẽ nó chứng tỏ họ có mong muốn mở rộng và đào sâu tri thức. Tóm lại: Ngoài những nguyên nhân chủ quan còn có nhiều nguyên nhân khách quan ảnh hưởng đến thái độ học tập môn GDH của sinh viên. Ảnh hưởng nhiều nhất là do không phải môn chính khoá, bầu không khí lớp học uể oải, trầm tư, căng thẳng và phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa lôi cuốn. Các nguyên nhân: không đủ thời gian học ở nhà, giáo trình và tài liệu tham khảo không đáp ứng được yêu cầu và chương trình học nặng cũng ảnh hưởng tuy mức độ ít hơn. 2.5. Một số đề xuất nhằm nâng cao thái độ học tập môn GDH của sinh viên Như vậy căn cứ vào kết quả thực trạng, trong khuôn khổ của đề tài chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số ý kiến nhằm nâng cao thái độ học tập môn GDH của sinh viên như sau: Giúp sinh viên xác định động cơ học tập đúng đắn Như đã phân tích, sinh viên học các chuyên ngành khác phần lớn họ xem môn GDH là môn học phụ . Mặc dù đa số sinh viện nhận thức được tầm quan trọng của môn GDH nhưng động cơ, thái độ học tập của họ chưa đúng đắn, chưa phù hợp. Bởi vậy giảng viên phải giúp sinh viên xác định được động cơ và phương pháp học tập đúng đắn, giúp họ tích cực học tập, phấn đấu nỗ lực cho môn GDH, điều này sẽ góp phần làm tăng hiệu quả môn học. Hướng dẫn phương pháp học tập bộ môn Để giúp cho sinh viên có phương pháp học tập GDH phù hợp mang lại hiệu quả cao trong học tập, người giảng viên phải hướng dẫn cho sinh viên phương pháp học sao cho có hiệu quả (đặc biệt là phương pháp tự học). Nếu rèn luỵện cho người học phương pháp, kỹ năng, thói quen, ý chí tự học sẽ tạo cho họ lòng ham học hỏi, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi người . Kích thích hứng thú và niềm yêu thích môn học Xuất phát từ nhận thức GDH là môn học phụ, môn học điều kiện cùng với nội dung môn học nặng về lý thuyết làm cho một số sinh viên khoa hoá không thích môn học này . Bởi vậy giảng viên cần kích thích hứng thú cho người học bằng cách: Bồi dưỡng ham muốn hiểu biết và nhu cầu nhận thức cho sinh viên Phát hiện, bồi dưỡng, củng cố niềm say mê học tập cho sinh viên Xây dựng cho sinh viên có thái độ học tập đúng đắn với kết quả học tập Hình thành cho sinh viên những phẩm chất ý chí cần thiết trong quá trình học tập: tính mục đích, tính kiên trì,.. Giảng viên cần chú trọng đến phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với đặc điểm môn học, khả năng người học, điều kiện học tập ... tạo ra sự lôi cuốn sinh viên học tích cực. Khuyến khích sinh viên tích cực trao đổi, thảo luận với bạn về các vấn đề học tập, nhằm rèn luyện củng cố tri thức và phát triển kỹ năng học GDH cho sinh viên. Xây dựng bầu không khí tâm lý vui vẻ thoải mái, cởi mở, tạo lập được mối quan hệ thầy trò tốt đẹp cũng là cách giúp cho người học cũng như người dạy có tâm thế sẵn sằng bước vào một giờ học có hiệu quả. Trường, khoa, giảng viên phải giới thiệu, cung cấp, hổ trợ tài liệu học tập, giáo trình, sách tham khảo phong phú đa dạng cho sinh viên. Giảng viên cần đổi mới kiểm tra đánh giá để nhận xét được thực chất năng lực của sinh viên đồng thời kiểm tra đánh giá thường xuyên ngay trong quá trình học để kích thích thái độ học tập tích cực của sinh viên. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Thái độ có vai trò rất quan trọng trong quá trình học tập môn GDH của người học . Bởi nó là nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động học tập của sinh viên và mang lại hiệu quả dạy học cao. Trong học tập, thái độ tích cực giúp sinh viên nắm vững, mở rộng, đào sâu khám phá tri thức. Quan trọng hơn nó giúp sinh viên đáp ứng yêu cầu của xã hội là con người năng động sáng tạo, linh hoạt, tích cực, chủ động Thực trạng thái độ học tập môn GDH của sinh viên năm hai khoa Hoá cho thấy hầu hết sinh viên nhận thức được tầm quan trọng và tác dụng của môn GDH, sinh viên đánh giá cao môn học này trong hệ thống các môn được giảng dạy. Về mặt thái độ, SV bước đầu đã có thái độ tích cực tuy không cao. Phần lớn sinh viên bày tỏ thái độ bình thường đối với môn học, số sinh viên hứng thú với môn GDH chiếm tỷ lệ thấp. Biểu hiện thái độ học tập TLH của SV chỉ dừng lại ở mức độ thụ động, chưa có sự đồng đều. Những biểu hiện thái độ tích cực ở mức độ cao như tập trung nghe giảng và ghi chép bài đầy đủ, tham gia đầy đủ các tiết học GDH, hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ học tập mà giảng viên giao. .. Tuy nhiên cũng có những biểu hiện thể hiện thái độ chưa tích cực như : ít trao đổi với giáo viên khi chưa thực sự hiểu bài, ít đọc tài liệu tham khảo, ít tự học thường xuyên.... Thực trạng thái độ học tập môn GDH của sinh viên chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố mang tính chủ quan và khách quan. Trong đó yếu tố chủ quan nổi bật hơn cả đó là sinh viên chưa xác định cho mình động cơ học tập đúng đắn, chưa có phương pháp học tập phù hợp, chủ yếu chú trọng môn chuyên ngành . Nguyên nhân khách quan chủ yếu đó là phương pháp dạy của giảng viên chưa lôi cuốn, bầu không khí học tập uể oải, trầm tư, căng thẳng. 2. Kiến nghị 2.1.Đối với nhà trường Khuyến khích giảng viên và tạo điều kiện cho họ tổ chức các buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về môn học, tổ chức sân chơi cho sinh viên thể hiện vốn hiểu biết của mình. Chú trọng tăng cường cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị, phương tiện, tài liệu cho dạy học phục vụ cho việc thực hành môn học của sinh viên được đảm bảo Tạo điều kiện tốt nhất cho đội ngũ giảng viên dạy GDH được tổ chức các câu lạc bộ giáo dục, lớp học nâng cao .. để sinh viên có môi trường thực hành. 2.2.Đối với giảng viên Đội ngũ giảng dạy GDH trong nhà trường phải kết hợp nhuần nhuyễn, hợp lý các phương pháp dạy học nhằm kích thích hứng thú học tập, phát huy tính tích cực học tập bộ môn cho sinh viên. Đổi mới phương pháp dạy học lôi cuốn hơn. Lấy nhiều ví dụ thực tiễn giúp sinh viên hiểu khái niệm dễ dàng hơn. Tăng cường thảo luận, cemina, thực hành, đi thực tế. Đồng thời, tổ chức những tiết học ngoại khoá Giáo dục học xen kẽ các tiết học chính khoá nhằm giảm bớt căng thẳng và tăng hứng thú cho sinh viên Các giảng viên dạy Giáo dục học phải thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn để có phương pháp giảng dạy tôt nhất phù hợp nhất cho sinh viên, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học. Tạo mối quan hệ thầy trò tôt đẹp, gần gũi luôn quan tâm giúp đỡ sinh viên, khuyến khích chia sẽ cùng sinh viên những bài tập khó những thắc mắc trong học hành cũng như cuộc sống . 2.3. Đối với sinh viên Nâng cao nhận thức, tỏ thái độ tích cực đặc biệt thể hiện mức độ học tập tích cực môn GDH cao hơn nữa. Cần tự giác, chủ động, linh hoạt và sánh tạo trong quá trình học tập môn GDH, tránh lối học thụ động. Tham gia một cách tích cực các hoạt động ngoại khoá do lớp, trường tổ chức góp phần nâng cao khả năng và vận dụng vốn kiến thức của mình, trên cơ sở đó giúp sinh viên hình thành các kỹ năng, kỹ xảo tốt hơn . TÀI LIỆU THAM KHẢO S.I. Ganêlin và B.P. Exipôp (1977) - Những cơ sở lý luận dạy học tập I,II – NXB Giáo dục Phan Trọng Ngọ (2005) Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường – NXB ĐH Sư phạm Hồ Ngọc Đại - Tâm lý học dạy học - NXBGD Hà Nội Hà Thị Đức, Đặng Vũ Hoạt (1995) - Lý luận dạy học Đại học – NXB Giáo dục Babanski (1985) – Giáo dục học – NXB Giáo dục Hà Thế Ngữ, Vũ Đăng Hoạt (1987) – Giáo dục học – NXB ĐHQG Hà Nội

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu thái độ học tập môn giáo dục học của sinh viên năm thứ hai khoa Hoá Trường ĐHSP Huế.doc
Luận văn liên quan