Đề tài Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân hàng ở Việt Nam

Tình trạng nợ xấu của hệ thống ngân hàng trong nước từng bước được cải thiện từ năm 2000 trở lại đây. Năm 2000, tỷ lệ nợ xấu (NPL) trên tổng dư nợ của nhóm các NHTM quốc doanh ở mức cao 12,7%, giảm dần còn 8,5%, 8% và 4,47% trong các năm tiếp theo, và đến năm Chỉ tiêu nợ xấu năm 2006 đã giảm đi đáng kể chỉ còn 3% (theo VAS). Tuy nhiên nếu đánh giá theo chuẩn mực kế toán quốc tế, thì tỷ lệ nợ xấu của nhóm các NHTM này vẫn ở mức rất cao 15-20%. Nhóm các NHTM cổ phần, tỷ lệ nợ xấu ở mức khoảng 1% năm 2005 và 0,85% năm 2006. Đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì tỷ lệ này còn thấp hơn rất nhiều 0,06%. Hầu hết các khoản nợ xấu bắt nguồn từ các khoản cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước, các Tổng công ty lớn, trong khi dư nợ cho khu vực Nhà nước vay chiếm tới hơn 30% tổng dư nợ cho vay toàn nền kinh tế, nhiều doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài. Ngoài ra, các khoản cho vay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo, trong khi thị trường bất động sản và thị trường hàng hóa chưa phát triển và còn nhiều biến động phức tạp dẫn đến tình trạng nợ xấu gia tăng và kéo dài tại các NHTM quốc doanh.

doc72 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2565 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân hàng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Theo Hiệp định về vốn Basel I do Ngân hàng Trung Ương thuộc nhóm G10 ký kết năm 1988 thì tài sản của ngân hàng được chia theo 4 mức độ rủi ro là 0%, 20%, 50%, 100%. Tuy nhiên để phù hợp với quá trình thực tiễn hoạt động, đến tháng 6 năm 1999, một số qui định trong Hiệp định Basel I được sửa đổi và đến cuối năm 2001 thì Basel II ra đời và có hiệu lực áp dụng vào năm 2004. Theo Basel II, tài sản được chia thành 5 loại khác nhau: 0%, 20%, 50%, 100% và 150%. Ý nghĩa: Hệ số an toàn vốn thể hiện mức độ đảm bảo an toàn tài sản của ngân hàng, cung cấp thông tin để xác định khả năng tăng trưởng và mở rộng qui mô hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Để đảm bảo sự ổn định và khả năng thanh toán, các ngân hàng cần phải giữ được mức an toàn vốn tối thiểu nhằm trang trải được các khoản lỗ bất thường như khách hàng không trả được nợ đúng hạn, suy thoái kinh tế…Ngược lại, mỗi khi ngân hàng muốn gia tăng tài sản có rủi ro thì cũng cần có một số vốn tương ứng để đảm bảo cho sự mở rộng qui mô này.Theo qui định trong hiệp ước, các ngân hàng phải duy trì vốn tự có cấp 1 ít nhất bằng 4% tổng tài sản có rủi ro và duy trì vốn tự có cấp 2 it nhất bằng 8% tổng giá trị tài sản có rủi ro. Sau này, Ngân hàng Trung ương nhiều nước đã áp dụng theo và yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn (CAR) tối thiểu 8% đã trở thành yêu cầu bắt buộc ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, NHNN cũng yêu cầu một tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8%. Việc tính toán tỷ lệ này cũng tương tự như qui định trong Basel I và được cụ thể hóa bằng quyết định số 457/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005. Hệ số đòn bẩy tài chính (Leverage) L(lần) = Tổng nợ phải trả / Vốn chủ sở hữu . Hệ số đòn bẩy là một thước đo thông dụng mức độ nợ trên vốn chủ sở hữu được nhiều ngân hàng áp dụng. Hệ số này cho biết khả năng huy động vốn của ngân hàng lớn gấp bao nhiêu lần so với vốn chủ sở hữu từ đó đo lường mức độ phụ thuộc vào nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Mức trung bình ở các ngân hàng trên thế giới là 12,5 lần. Hệ số tạo vốn nội bộ (Internal Capital Generation) ICG(%) = Lợi nhuận không chia / Vốn cấp 1 *100. Hệ số tạo vốn nội bộ cho biết khả năng tăng vốn tự có của ngân hàng từ lợi nhuận để lại. Hệ số này càng lớn càng tốt. Ở các ngân hàng trên thế giới, hệ số này trên 12% được coi là tốt. 1.2.3.3. Phân tích chất lượng tài sản Chất lượng tài sản có trong kinh doanh ngân hàng là yếu tố quan trọng hàng đầu và cũng là yếu tố phức tạp nhất khi phân tích hoạt động ngân hàng. Nhiều ngân hàng sụp đổ là do nhóm tài sản rủi ro có chất lượng thấp. Đánh giá chất lượng tài sản có của ngân hàng chủ yếu là đánh giá chất lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng của một ngân hàng được xem xét trên một số khía cạnh như mức độ tăng trưởng tín dụng; mức độ tập trung tín dụng theo ngành hoặc lĩnh vực; hệ thống giám sát rủi ro tín dụng; chất lượng của các khoản vay và đánh giá khoản dự phòng rủi ro tín dụng. Các khía cạnh trên được xem xét cụ thể bằng các chỉ tiêu sau: Danh mục cho vay trên tổng tài sản có Danh mục cho vay trên tổng tài sản(%) = Dư nợ tín dụng/Tổng tài sản có *100 Chỉ tiêu này cho biết mức độ đa dạng hóa trong hoạt động của ngân hàng. Nếu cho vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản có nghĩa là mức dộ tập trung tín dụng lớn. Ngược lại, nếu ngân hàng có tỷ trọng dư nợ tín dụng trong tổng tài sản nhỏ thì ngân hàng đó hoặc là thiếu các khách hàng vay vốn hoặc là đa dạng hóa được danh mục đầu tư. Tốc độ tăng trưởng tín dụng (Credit growth rate) CGR (%) = (Dư nợ tín dụng CK – Dư nợ tín dụng ĐK) / Dư nợ tín dụng ĐK *100. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của ngân hàng được xem xét trong mối tương quan với giai đoạn phát triển của ngân hàng và tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng do NHNN khống chế hàng năm. Tỷ trọng dư nợ theo ngành, địa bàn. Tỷ trọng dư nơ theo ngànhi (địa bàni) (%) = Dư nợ tín dụng ngànhi (địa bàni) / Dư nợ tín dụng *100. Chỉ tiêu này cho biết liệu ngân hàng có tập trung cho vay quá nhiều vào một ngành nghề hay một địa bàn hoạt động nào không ? hay nó phản ánh mức độ rủi ro tín dụng mà ngân hàng gặp phải khi đầu tư quá nhiều vào một ngành nghề, lĩnh vực đang tiềm ẩn rủi ro. Tỷ trọng dư nợ tín dụng theo ngành nghề và địa bàn hoạt động phụ thuộc vào chính sách phát triển mà Ban lãnh đạo ngân hàng theo đuổi mạo hiểm hay thận trọng, phụ thuộc vào chiến lược phát triển của các khách hàng về chiến lược mục tiêu, thị trường mục tiêu. Ngày nay, các ngân hàng đang ngày càng thực hiện đa dạng hóa danh mục cho vay để hạn chế thấp nhất rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu (NPLs) Nợ xấu được hiểu là những khoản nợ không sinh lời hay khó thu hồi bao gồm các khoản nợ quá hạn trên 90 ngày và các khoản nợ quá hạn sau khi đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Tỷ lệ này nhằm đánh giá chất lượng của hoạt động tín dụng, nó cho biết bao nhiêu phần trăm các khoản cho vay ra khó có khả năng thu hồi hay mức độ cho vay của ngân hàng đối với khách hàng có khả năng hoàn trả thấp. Theo qui định chuẩn mực quốc tế thì tỷ lệ này dưới 1,5%. Ở Úc, tỷ lệ chuẩn là dưới 3,5% 1.2.3.4. Phân tích khả năng sinh lời Phân tích khả năng sinh lời là công việc được quan tâm nhất của mỗi ngân hàng bởi gia tăng khả năng sinh lời của ngân hàng là mục tiêu tối cao của ngân hàng. Kết quả hoạt động kinh doanh phản ánh hiệu quả hoạt động của một ngân hàng, hiệu quả trong công tác quản trị, điều hành của Ban lãnh đạo Ngân hàng. Khả năng sinh lời của ngân hàng thường được phản ánh qua khả năng sinh lời của tổng tài sản và khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu. Ngoài ra, để hỗ trợ cho việc phân tích khả năng sinh lời, một loạt các chỉ tiêu bổ trợ cũng như mô hình phân tích Dupont được đưa ra. Khả năng sinh lời của tài sản (ROA) ROA(%) = Lợi nhuận sau thuế / Tài sản sinh lời trung bình năm *100. Đây là chỉ tiêu thông dụng thể hiện hiệu quả quản lý, khả năng chu chuyển tài sản sinh lời của đưa vào hoạt động sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế cho ngân hàng. Đối với các ngân hàng lớn của Mỹ, mức tốt của hệ số này là lớn hơn 1%. Khả năng sinh lời của vốn chủ (ROE) ROE(%) = Lợi nhuận sau thuế / Vốn tự có trung bình *100. Tỷ suất này thể hiện khả năng sinh lời từ vốn góp của các cổ đông (tính hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn tự có của ngân hàng). Ở một khía cạnh khác, ROE chỉ là một chỉ tiêu đo lường tỷ lệ thu nhập cho các dổ đông của ngân hàng. Nó thể hiện thu nhập mà các cổ đông nhận được từ việc đầu tư vào ngân hàng. Mức chuẩn quốc tế là từ 15-20%. Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên(NIM) NIM(%) = (Thu lãi cho vay và đầu tư chứng khoán – Chi trả lãi cho tiền gửi và nợ khác) / Tổng tài sản sinh lời bình quân * 100. Tỷ lệ này đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Nó chỉ ra năng lực của Ban lãnh đạo ngân hàng trong việc duy trì sự tăng trưởng của các nguồn thu chủ yếu từ cho vay và đầu tư chứng khoán so với mức tăng của chi phí chủ yếu là chi phí trả lãi tiền gửi, tiền vay trên thị trường tiền tệ. Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên (NNIM) NNIM (%) = (Thu ngoài lãi – Chi phí ngoài lãi) / Tổng tài sản sinh lời bình quân * 100. Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi chủ yếu là nguồn th phí từ các dịch vụ với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu (gồm tiền lương, chi phí sửa chữa, khấu hao TSCĐ) và chi cho dự phòng tổn thất tín dụng. Đối với hầu hết các ngân hàng, chênh lệch ngoài lãi thường là âm, chi phí ngoài lãi nhìn chung vượt quá thu từ phí, mặc dù tỷ lệ thu từ phí trong tổng các nguồn thu của ngân hàng đã tăng rất nhanh trong những năm gần đây. Chênh lệch lãi suất đầu ra – đầu vào Chênh lệch lãi suất (%) = Thu từ lãi / TS dinh lời BQ – Chi trả lãi / Nợ phải trả lãi BQ . Chênh lệch lãi suất đo lường hiệu quả đối với hoạt động trung gian của ngân hàng trong quá trình huy động vốn và cho vay, đồng thời nó cũng đo lường cường độ cạnh tranh trên thị trường của ngân hàng. Sự cạnh tranh gay gắt có xu hướng thu hẹp mức chênh lệch lãi suất của ngân hàng. Nếu các nhân tố khác không đổi, chênh lệch lãi suất của ngân hàng sẽ giảm khi sự cạnh tranh tăng lên, buộc Hội đồng quản trị phải cố gắng tìm ra những biện pháp tăng thu ngoài lãi (như thu phí từ dịch vụ mới…) để bù đắp mức chênh lệch lãi suất bị mất. 1.2.3.5. Phân tích khả năng thanh toán. Các NHTM thường nhận tiền gửi hoặc vay kỳ hạn ngắn với lãi suất thấp để cho vay hoặc đầu tư với kỳ hạn dài hơn nhằm thu lãi cao hơn nên xuất hiện sự không khớp nhau về kỳ hạn của nợ phải trả và tài sản đầu tư. Kết quả là có những thời kỳ ngân hàng cần tiền mặt để cho vay them hay trả cho các khoản tiền gửi của khách hàng khi đến hạn trong khi những khoản vay cũ của khách hàng lại chưa đến hạn trả. Do vậy, các ngân hàng thường phải duy trì một phần trong tổng tài sản của mình các tài sản tiền mặt, tiền gửi trên thị trường liên ngân hàng gọi là những tài sản có tính lỏng cao để đáp ứng nhu cầu chi trả trong những khoảng thời gian đó. Các chỉ tiêu chủ yếu thường được dùng để đo lường khả năng thanh toán của ngân hàng đó là Tỷ lệ tài sản thanh khoản trong tổng tài sản(%) = Tài sản thanh khoản / Tổng tài sản * 100 Tỷ lệ tài sản thanh khoản trong tổng tài sản là chỉ số đơn giản nhất để xem xét khả năng thanh khoản của ngân hàng qua việc nhìn trực tiếp vào bảng cân đối kế toán. Tài sản thanh khoản gồm tiền mặt, tiền gửi tại NHNN, các khoản tiền gửi ngắn hạn tại các ngân hàng khác, chứng chỉ tiền gửi có thể chiết khấu, chứng khoán khả dụng có thời gian đáo hạn dưới 1 năm. Các ngân hàng thường duy trì tỷ lệ các tài sản này chiếm khoảng 20-30% tổng tài sản. Hệ số đảm bảo tiền gửi Hệ số đảm bảo tiền gửi (%) = Tài sản thanh khoản / Tổng tiền gửi * 100 Tỷ lệ này cho biết khả năng chi trả của ngân hàng đối với yêu cầu rút tiền gửi của các ngân hàng, các TCKT, cá nhân gửi tại ngân hàng. Mức chuẩn cho chỉ tiêu này là từ 30-45%. Hệ số thanh khoản Hệ số thanh khoản (%) = Tài sản thanh khoản / Tổng nợ ngắn hạn * 100 Hệ số này thể hiện khả năng thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn của ngân hàng bao gồm tiền gửi ngắn hạn của các tổ chức kinh tế, dân cư, vay NHNN hay các TCTD khác… bằng các tài sản có ngắn hạn như tiền mặt, tiền gửi ngắn hạn tại NHNN và tiền gửi tại TCTD, đầu tư chứng khoán ngắn hạn…Hệ số thanh khoản tối ưu theo chuẩn mực quốc tế là 30%. Tỷ lệ dư nợ cho vay và tiền gửi Tỷ lệ dư cho vay và tiền gửi (%) = Tổng dư nợ cho vay / Tổng tiền gửi * 100. Tỷ lệ này phản ánh khả năng tài trợ cho các khoản cho vay tăng them từ các nguồn tiền gửi. Các khoản tiền gửi qua đêm trên thị trường liên ngân hàng được coi như vốn vay nên không được tính vào tổng tiền gửi trong công thức này. Đối với các ngân hàng có qui mô lớn tầm cỡ quốc tế, mức chuẩn đối với tỷ lệ này chỉ ở mức trên 100%. Còn đối với các ngân hàng nhỏ ở qui mô khu vưc thì mức chuẩn cho tỷ lệ này ở mức 80-90%. Tỷ lệ này càng cao thì khả năng thanh khoản càng thấp. Chương II: Thực trạng hệ thống NHTM ở Việt Nam 2.1. Khái quát về hệ thống NHTM 2.1.1. Khái niệm ngành ngân hàng Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Trước hết ngân hàng là tổ chức thu hút tiền tiết kiệm lớn nhất trong nền kinh tế. Đồng thời, ngân hàng cũng là tổ chức cho vay chủ yếu với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước. Xét trên phương diện những loại hình dịch vụ cung cấp: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” (Theo cuốn Quản trị ngân hàng thương mại của Peter Rose) Theo ICB ICB (Industries Classification Benchmark): Tiêu chí phân ngành được áp dụng phổ biến trên thế giới , ngân hàng là phân ngành cấp 3 thuộc phân ngành Ngân hàng trong Ngành Tài chính. Phân ngành ngân hàng được định nghĩa « Ngân hàng là tổ chức cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng như các dịch vụ ngân hàng bán lẻ, cho vay, chuyển tiền, … » Ở Việt Nam, khái niệm ngân hàng được định nghĩa trong luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và luật sử đổi bổ sung các tổ chức tín dụng năm 2004 như sau: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm, NHTM, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác” Mô hình hoạt động của ngân hàng : Ngân hàng hiện đại Chức năng ủy thác Chức năng tín dụng Chức năng thanh toán Chức năng lập kế hoach đầu tư Chức năng tiết kiệm Chức năng ngân hàng đầu tư và bảo lãnh Chức năng môi giới Chức năng bảo hiểm Chức năng quản lý tiền mặt Sơ đồ 2.1: Mô hình hoạt động của NHTM (Nguồn : Commercial Bank Managerment, Peter S.Rose, NXB Tài chính 2001) 2.1.2. Khái quát quá trình phát triển hệ thống NHTM ở Việt Nam Thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam(Sắc lệnh số 15/SL ngày 06/05/1951). Bãi bỏ Ngân khố quốc gia và Tín dụng sản xuất thuộc Bộ Tài chính. Chính thức đánh dấu sự ra đời của ngành ngân hàng tại Việt Nam. Các NHTM quốc doanh lần lượt ra đời : Ngân hàng Ngoại Thương thành lập năm 1962, Ngân hàng đầu tư và xây dựng Việt Nam năm 1981, Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam năm 1990. Bước ngoặt lớn trong lịch sử ngành ngân hàng là việc chuyển từ mô hình 1 cấp sang mô hình 2 cấp vào tháng 05/1990, tách riêng chức năng quản lý Nhà nước và kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng Năm 1993, bình thường hóa quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế (IMF,WB,ADB), thành lập hiệp hội ngân hàng, thành lập thị trường liên ngân hàng. Năm 1997, quốc hội khóa X thông qua Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng (02/12/1997), Thành lập Ngân hàng phát triển Nhà Đồng bằng Sông cửu long (Quyết định số 769/TTg, ngày 18/9/1997), Ngày 31/01/1998 thành lập Hội đồng tài chính - tiền tệ Nhà nước (QĐ 23/1998/QĐ-TTg). Năm 1999, Thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ngày 9/11/1999). Bảo hiểm tiền gửi có nhiệm vụ giám sát và kiểm tra việc chấp hành các quy định về bảo hiểm tiền gửi và an toàn trong hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi; Thực hiện nghiệp vụ hỗ trợ tổ chức nhận tiền gửi có nguy cơ mất khả năng chi trả; bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại các tổ chức nhận tiền gửi khi tổ chức nhận tiền gửi bị giải thể, phá sản, Cho phép các tổ chức tín dụng thành lập Công ty chứng khoán và tham gia niêm yết chứng khoán. Năm 2001, Sửa đổi, bổ sung NĐ 63/1998 theo hướng nới lỏng các giao dịch vãng lai, Ban hành Nghị định về tổ chức và hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân. Năm 2002, tự do hóa lãi suất cho vay VND – bước cuối cùng tự do hóa hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào và đầu ra. Ngày 01/04/2007, mở cửa lĩnh vực ngân hàng với việc cho phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài. 2.1.3. Hệ thống tổ chức của hệ thống NHTM Việt Nam Với chủ trương đa dạng hóa hình thức sở hữu trong lĩnh vực ngân hàng, số lượng các ngân hàng ngoài quốc doanh tăng lên nhanh chóng. Tính đến cuối tháng 11/2007, cả nước có 6 NHTM quốc doanh, 35 NHTM cổ phần, 33 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 5 ngân hàng liên doanh. (Nguồn : Tổng hợp từ NHNN và báo cáo thường niên) NHTM quốc doanh chiếm vị trí chủ đạo trong toàn ngành. Với mạng lưới rộng khắp gồm hơn 2.600 chi nhánh trên cả nước, khối các NHTM quốc doanh chiếm 60% về giá trị tổng tài sản, 68,67% thị trường huy động vốn đầu vào và trên 63,49% thị trường tín dụng (tính đến cuối năm 2006) Thống kê của NHNN . NHTM cổ phần ngày càng mở rộng thị phần trong lĩnh vực ngân hàng. Số lượng các NHTM cổ phần bùng nổ trong giai đoạn 1992-1997, đóng góp rất lớn vào sự phát triển của ngành ngân hàng. Top các NHTM cổ phần hoạt động hiệu quả phải kể đến ACB, Sacombank, Techcombank. Lĩnh vực ngân hàng Việt Nam hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Số lượng các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh gia tăng nhanh chóng sau năm 1992, đến nay đã có sự góp mặt của 33 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 05 ngân hàng liên doanh. Hai loại hình ngân hàng này đang dần gia tăng sự ảnh hưởng tới toàn ngành, năm 2006 tổng hoạt động cho vay chiếm 9,3% toàn ngành. 2.1.4. Các đặc điểm chính của hệ thống NHTM Việt Nam a.Mức độ thâm nhập thị trường thấp Ước tính hiện có khoảng 7 triệu tài khoản ngân hàng cá nhân, tương đương 8% dân số Việt Nam , thấp hơn rất nhiều so với các nước khác trong cùng khu vực. Nguyên nhân chủ yếu là do thói quen thanh toán bằng tiền mặt trong dân cư còn rất phổ biến. Ở Việt Nam, tỷ lệ tiền mặt trên GDP còn ở mức hai con số, cao hơn so với các nước khác trong cùng khu vực Báo cáo Ngân hàng của MCG . Tỷ trọng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán (M2 M2 phản ánh quy mô cung tiền bao gồm tiền mặt (M0), tiền các NHTM gửi tại NHNN và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. ) của toàn nền kinh tế tuy có xu hướng giảm dần qua các năm, song vẫn ở mức cao, trung bình vào khoảng 20%. Một nguyên nhân khác nữa là mạng lưới chi nhánh ngân hàng vẫn (Nguồn : Tổng hợp từ Báo cáo thường niên của NHNN & Báo cáo của MCG) chưa tiếp cận được đông đảo dân cư, đặc biệt là khu vực nông thôn, chiếm tới hơn 70% dân số (Nguồn : Tổng hợp từ Báo cáo thường niên của NHNN & Báo cáo của MCG) Với chính sách khuyến khích thanh toán không dùng tiền mặt của Chính phủ, sự phát triển mở rộng của hệ thống các ngân hàng, và thay đổi trong thói quen thanh toán của dân cư, số lượng tài khoản cá nhân mở tại các ngân hàng dự báo sẽ tiếp tục xu thế phát triển nhanh chóng. Mục tiêu đến năm 2010 đạt mức 20 triệu tài khoản cá nhân với 70% cán bộ hưởng lương ngân sách và 50% công nhân lao động trong khu vực doanh nghiệp, tư nhân thực hiện trả lương qua tài khoản. Đến năm 2020, với 95% cán bộ hưởng lương ngân sách và 80% lao động được trả lương qua tài khoản, số tài khoản phấn đấu đạt 45 triệu . b. Mức độ tập trung cao Lĩnh vực ngân hàng được đánh giá có mức độ tập trung cao với thị phần trong cả 02 nghiệp vụ ngân hàng chủ chốt (cho vay và huy động vốn) của khối các NHTM quốc doanh trong năm 2006 chiếm tới trên 60%. Con số này trong giai đoạn trước đó luôn duy trì ở mức 70-80%. Từ năm 2006 trở lại đây với sự ra đời và lớn mạnh của hệ thống các NHTM cổ phần, hoạt động của các NHTM quốc doanh dần bị thu hẹp. (Nguồn : Tổng hợp từ Báo cáo thường niên của NHNN) Mức độ tập trung cao của ngành còn được thể hiện ở rào cản gia nhập ngành lớn, đặc biệt là rào cản về vốn. Theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP về Danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng, yêu cầu về vốn pháp định đối với loại hình NHTM nhà nước, ngân hàng đầu tư, phát triển, ngân hàng chính sách, chi nhánh ngân hàng nước ngoài vẫn giữ nguyên, trong khi đó yêu cầu về vốn đối với các NHTM cổ phần, liên doanh và 100% vốn nước ngoài tăng trên dưới 10 lần so với trước. Cụ thể là, mức vốn điều lệ tối thiểu đối với các NHTM cổ phần thành lập trước 31/12/2008 là 1.000 tỷ đồng, và nâng lên mức 3.000 tỷ đồng vào năm 2009, trong khi đó, trước đây yêu cầu về mức vốn pháp định chỉ ở mức 50-70 tỷ đồng, tạo ra một rào cản rất lớn về vốn khi thành lập ngân hàng. Tuy nhiên, ở một thái cực khác, hơn 30% thị phần còn lại được phân chia nhỏ bởi trên 70 NHTM ngoài quốc doanh với quy mô vốn nhỏ hơn nhiều so với các NHTMQD. Thị phần này dự báo sẽ tiếp tục chứng kiến sự cạnh tranh mạnh mẽ hơn khi lĩnh vực ngân hàng mở cửa hội nhập theo cam kết gia nhập WTO, các NHTM 100% vốn nước ngoài được phép thành lập ở Việt Nam. Khuynh hướng mới hiện nay là một số tập đoàn, tổng công ty lớn, với tiềm lực tài chính vững mạnh đang từng bước lấn sân sang lĩnh vực ngân hàng. Chẳng hạn như, Tập đoàn Điện lực Việt Nam là cổ đông chiến lược của ABBank với tỷ lệ góp vốn điều lệ là 30% (năm 2006) , Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) cũng góp tới 40% vốn điều lệ vào PGBank , hay gần đây nhất NHTMCP Bảo Việt đã được NHNN cấp phép và dự kiến đi vào hoạt động vào quý II năm 2008, với 40% vốn điều lệ đầu tư của Tập đoàn Bảo Việt . Khuynh hướng này phần nào phản ánh quá trình tập trung hóa trong lĩnh vực ngân hàng. c. Khuynh hướng thay đổi thị phần giữa các loại hình ngân hàng Các NHTM quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam, song những năm gần đây có biến chuyển mạnh theo hướng giảm dần thị phần của khối NHTM quốc doanh và tăng dần thị phần khối các NHTM cổ phần. (Nguồn : Tổng hợp từ Báo cáo thường niên của NHNN) Năm 2002, thị phần huy động vốn của các NHTMQD chiếm tới 79,3%, tín dụng chiếm xấp xỉ 80%, đến cuối năm 2006 đã sụt giảm mạnh còn khoảng 60-70%. Trong khi đó, khối các NHTMCP, với tốc độ tăng trưởng huy động vốn trong những năm qua đạt bình quân 42,5%, tăng trưởng tín dụng bình quân đạt 47,5% cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng bình quân của toàn ngành, đã nhanh chóng gia tăng thị phần tới hơn 2 lần, từ mức 9-10% tới nay đã chiếm một tỷ trọng trên 20% toàn ngành. Sự bứt phá này sẽ còn tiếp tục trong những năm tới khi số lượng các NHTMCP mới thành lập đang tiếp tục gia tăng (NHNN đã phê duyệt thành lập về nguyên tắc 4 NHTMCP cuối năm 2007, 5 NHCP mới đầu năm 2008), đồng thời cùng với sự mở rộng về quy mô hoạt động và mạng lưới của khối này, chất lượng các sản phẩm dịch vụ ngày càng được cải thiện, hiệu quả hoạt động kinh doanh cao. d. Cơ cấu thu nhập Các NHTM Việt Nam chủ yếu hoạt động theo mô hình truyền thống với hai nghiệp vụ chủ chốt là huy động vốn và cho vay, các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng vẫn còn nghèo nàn, chưa phong phú, đa dạng. Thu nhập từ lãi thuần chiếm tới 70% tổng thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngân hàng. (Nguồn : Tổng hợp bởi KLS từ BCTC, Báo cáo thường niên của các NHTM (2006)) Thu nhập từ các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng chỉ chiếm khoảng 10% tổng thu nhập, một tỷ trọng còn khá khiêm tốn so với các ngân hàng hiện đại khác trên thế giới, ước khoảng ¼ tổng thu nhập xuất phát từ các khoản phí dịch vụ. Cơ cấu thu nhập trong lĩnh vực ngân hàng trong những năm gần đây bắt đầu có sự chuyển dịch tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng truyền thống và nâng cao dần tỷ trọng thu nhập từ các hoạt động, dịch vụ ngân hàng hiện đại khác. Sự chuyển dịch cơ cấu này phù hợp với xu hướng chung của các ngân hàng hiện đại, tiên tiến trên thế giới, giảm đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực rủi ro cao, tăng thu từ hoạt động phi tín dụng, có tính bền vững cao và ít rủi ro hơn. Điển hình là Ngân hàng Đầu tư & phát triển, năm 2006 ghi nhận sự chuyển dịch cơ cấu thu nhập rất rõ nét, với thu nhập từ dịch tăng gần gấp 2.5 lần so với năm 2005, góp phần nâng tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ trong tổng thu nhập từ 6 lên 10%, trong khi tỷ trọng từ hoạt động tín dụng truyền thống giảm mạnh từ 91% xuống còn 79%. e. Quy mô vốn nhỏ, hệ số an toàn vốn bình quân thấp Một trong những điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam là quy mô vốn nhỏ. Mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng trong thời gian qua đã tăng mạnh so với trước đây nhưng vẫn ở mức hạn chế so với thế giới và khu vực. Mức vốn tự có trung bình của một NHTM cổ phần là 963 tỷ đồng, gấp 5,35 lần so với năm 2005 (180 tỷ đồng), của NHTM quốc doanh gần 10 nghìn tỷ đồng (tính đến cuối tháng 11/2007) Thống kê của Công ty Chứng Khoán Kim Long tính trước thời điểm NH Ngoại thương cổ phần. . Trong khi đó, hệ số an toàn vốn bình quân (CAR) Hệ số an toàn vốn tối thiểu (Capital Adequact Ratio) là thước đo độ an toàn vốn của ngân hàng, được tính theo tỷ lệ % của vốn cấp I (vốn tự có) và vốn cấp II (vốn bổ sung) so với tổng tài sản đã điều chỉnh rủi ro của ngân hàng. CAR 8% hiện là chuẩn mực được nhiều ngân hàng trên thế giới áp dụng của các NHTM Việt Nam còn ở mức thấp, đặc biệt là khối các NHTM quốc doanh chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của NHNN và thông lệ quốc tế (8%) và thấp hơn so với các ngân hàng khác trong khu vực (tỷ lệ an toàn vốn trung bình 12-13% Báo cáo phân tích ngành ngân hàng của Vinacapital ). ( Nguồn : Worldbank, (*) số liệu của 4 NHTM quốc doanh) Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản Có thấp (dưới 1%), lại phải đối phó với rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá. Theo đánh giá của các chuyên gia nếu trích lập đầy đủ những khoản nợ khoanh và nợ khó đòi thì vốn tự có của nhiều NHTM, nhất là ngân hàng thương mại Nhà nước, ở tình trạng âm Tạp chí kế toán . So với khối các NHTM quốc doanh, các NHTM cổ phần có hệ số vốn an toàn tốt hơn, trung bình trên 8% Báo cáo của IFC , đạt mức tiêu chuẩn quốc tế. 2.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của các NHTM a. Kinh tế Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định ở mức 7-8% trong những năm gần đây và dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng trong những năm tới, đặc biệt là sự phát triển năng động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nhân tố quan trọng tạo cầu cho hoạt động ngân hàng. (Nguồn : Quỹ tiền tệ quốc tế và Tổng cục Thống kê) Tuy nhiên, lạm phát đang có xu hướng tăng cao, điển hình là năm 2007, lạm phát gia tăng tới mức hai con số (khoảng 12%) cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP, gây sức ép gia tăng chi phí huy động vốn đối với các ngân hàng, tác động trực tiếp đến kết quả lợi nhuận của ngân hàng. Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển một mặt tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động thanh toán ngân hàng, mặt khác gây sức ép cho các ngân hàng khi đối phó với tình trạng “Thừa ngoại tệ” Đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng trưởng vượt bậc, đạt mức kỷ lục trong năm 2007 với tổng nguồn vốn FDI 20,3 tỷ USD, làm gia tăng đáng kể nguồn cung ngoại tệ, gây sức ép tăng cung đồng nội tệ để mua ngoại tệ, một trong những nguyên nhân gia tăng lạm phát. Hoạt động xuất nhập khẩu cũng đạt được những kết quả vượt trội. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2007 khoảng 109 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 48,4 tỷ USD, tăng 21,5% so với năm 2006; kim ngạch nhập khẩu đạt hơn 60 tỷ USD, tăng khoảng 35,5%. (Nguồn : Tổng cục Thống kê) Từ ngày 01/04/2007, theo lộ trình cam kết gia nhập WTO, lĩnh vực ngân hàng Việt Nam mở cửa, cho phép các ngân hàng nước ngoài lập ngân hàng con 100% vốn. Mặc dù điều kiện thành lập ngân hàng được đánh giá là khá chặt chẽ theo hướng thận trọng, các ngân hàng nước ngoài với tiềm lực tài chính, kinh nghiệm quản lý, quản trị ngân hàng, sự đa dạng phong phú về sản phẩm dịch vụ,…sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh đối vói các Ngân hàng trong nước. b.Xã Hội Theo thống kê, hiện có khoảng 7 triệu tài khoản mở tại Việt Nam trên tổng số 84 triệu dân (chiếm khoảng 8% dân số) , trong đó có tới 6 triệu tài khoản được mở chỉ trong 2 năm qua. Con số này cho thấy mức tiếp cận các dịch vụ ngân hàng của Việt Nam thuộc hàng thấp nhất so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nguyên nhân chủ yếu là do tập quán tiêu dùng bằng tiền mặt của đa số người dân Việt Nam. Một số xu hướng xã hội dự báo một thị trường tiềm năng cho hoạt động kinh doanh ngân hàng trong tương lai: Quá trình đô thị hoá nhanh chóng với số dân thành thị dự kiến tăng với tốc độ 3-4% trong những năm tới. Khuynh hướng thanh toán không dùng tiền mặt của dân thành thị ngày càng phổ biến. Số người Việt Nam sống và làm việc ở nước ngoài tăng lên nên nhu cầu chuyển tiền (ngoại tệ) cũng như các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng có chiều hướng tăng cao. Thu nhập bình quân theo đầu người ngày càng được cải thiện, (Nguồn: Tổng cục thống kê) c. Chính sách điều hành của Nhà Nước. Các chính sách điều hành của Nhà Nước, cụ thể là các chính sách tài chính – tiền tệ của NHNN có tác động trực tiếp tới hoạt động của hệ thống ngân hàng. Một mặt các chính sách, định hướng của Nhà nước góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển hoạt động ngân hàng, mặt khác nếu can thiệp quá sâu có thể gây ra những tác động không mong muốn. Đáng chú ý là là một loạt các chính sách thắt chặt tiền tệ, tín dụng của NHNN trong thời gian gần đây gây nhiều khó khăn cho hoạt động của các NHTM, cụ thể là nguồn vốn khả dụng bị thu hẹp đáng kể làm hạn chế đầu ra tín dụng, trong khi chi phí huy động vốn liên tục tăng, điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả lợi nhuận của ngân hàng. Các biện pháp thắt chặt tiền tệ của NHNN Chỉ thị 03 về giới hạn dư nợ cho vay chứng khoán. Lãi suất cơ bản tăng từ 8,25% lên 12%. Lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5% lên 7,5%. Lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5% lên 6,0%. Mở rộng phạm vi áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc 1% NHNN yêu cầu mua tín phiếu bắt buộc, rút hơn 20.000 tỷ đồng từ lưu thông. d. Sự phát triển các ngành phụ trợ liên quan đến Ngân hàng Sự phát triển của ngành ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của một số ngành phụ trợ như khoa học kỹ thuật, tin học viễn thông, giáo dục đào tạo, giao thông vận tải,.sự phát triển của những ngành này sẽ góp phần củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng cho lĩnh vực ngân hàng, trong đó đặc biệt quan trọng là công nghệ tin học. Công nghệ tin học ứng dụng trong lĩnh vực ngân hàng đang dần trở thành công cụ cạnh tranh hữu hiệu giữa các ngân hàng song so với các nước trong cùng khu vực và trên thế giới, công nghệ ngân hàng của Việt Nam còn kém phát triển. Trong những năm gần đây, việc ứng dụng tin học trong lĩnh vực ngân hàng đã dần được quan tâm hơn. Nếu như năm 2004 mới chỉ có 03 ngân hàng tham gia Internet Banking với lượng giao dịch trực tuyến mỗi ngày chỉ khoảng 2 triệu giao dịch, thì đến đầu năm 2007, đã có 17 ngân hàng tham gia hoạt động này với 4,5 triệu giao dịch/ngày Thời báo kinh tế Sài Gòn Ngoài ra, sự phát triển của những ngành này và các ngành kinh tế khác đòi hỏi một nguồn vốn lớn và các dịch vụ ngân hàng, đây là yếu tố tạo cầu cho hoạt động ngân hàng. 2.2. Các hoạt động chính của các NHTM Việt Nam 2.2.1. Hoạt động huy động vốn Một hoạt động khác biệt của các NHTM so với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế là các NHTM tiến hành hoạt động nghiệp vụ của mình không những chỉ bằng vốn riêng của mình mà chủ yếu bằng vốn huy động. NHTM huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau: từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi thanh toán của dân cư và các tổ chức kinh tế, tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế và tổ chức tín dụng trong đó tiền gửi tiết kiệm là nguồn huy động vốn chủ lực của NHTM. Ngoài ra, các NHTM còn phát hành các công cụ nợ khác để huy động vốn như chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu… Theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng trong cả nước tính đến hết 31/12/2007 ước tính tăng tới 50% so với năm 2006, gấp hơn 5,5 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây là tốc độ tăng trưởng lớn nhất từ gần 20 năm đổi mới hoạt động ngân hàng cho đến nay. (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước) Giai đoạn năm 2003 có một sự nhảy vọt về tốc độ tăng trưởng huy động vốn và đạt mức cao nhất vào năm 2004. Trong năm 2005, các ngân hàng đang tìm kiếm kênh huy động khác ngoài kênh huy động từ tiền Các ngân hàng ngày càng tăng cường các hình thức huy động vốn, đa dạng hoá sản phẩm và tạo tiện ích thu hút khách hàng. Tốc độ huy động ngoại tệ năm 2004 có bước nhảy vọt, chủ yếu do lãi suất ngoại tệ có xu hướng tăng và nguồn thu ngoại tệ hoạt động kinh tế đối ngoại của các tổ chức kinh tế được cải thiện đáng kể trong năm này Báo cáo thường niên 2004 của NHNN . 2.2.2. Hoạt động tín dụng Trên cơ sở ngồn vốn huy động được từ dân cư và các tổ chức, các NHTM sử dụng để cho vay dưới các hình thức khác nhau như: Cho vay thương mại: là hình thức cho vay trực tiếp đối với người bán, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. Cho vay tiêu dùng dưới hình thức trả góp, thấu chi: Đây là hình thức tín dụng đang rất phổ biến nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân như cho vay trả góp mua nhà, mua xe hoặc sửa chữa nhà cửa… Cho vay tài trợ dự án: bên cạnh hoạt động tín dụng truyền thống, các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho các dự án. Cho thuê tài chính: rất nhiều ngân hàng đứng ra kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị và máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua trong đó ngân hàng mua các thiết bị và cho khác hàng thuê.Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phả tre tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê. Tổng dư nợ tín dụng toàn ngành đạt tốc độ tăng trưởng cao, trung bình 31,78%/năm. Năm 2004 ghi nhận mức tăng trưởng kỷ lục, tăng 41,65% so với năm 2003. Từ năm 2005, dư nợ cho vay của toàn ngành có xu hướng tăng trưởng chậm lại, năm 2005 tăng 31,10% và năm 2006 tăng 25,44%. Nguyên nhân do các ngân hàng tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro, tập trung nâng cao chất lượng tín dụng hơn là mở rộng khối lượng cho vay. Mặt khác, các kênh huy động vốn khác ngày càng mở rộng như thị trường chứng khoán, Quỹ Hỗ trợ Phát triển, vốn từ nước ngoài (FDI, ODA…) vào Việt Nam tác động đến khả năng mở rộng tín dụng của hệ thống các tổ chức tín dụng. (Nguồn : NHNN và Quỹ tiền tệ quốc tế ; (*) số liệu cập nhật đến hết tháng 3/2007) Trong đó, tăng trưởng tín dụng cung cấp cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (35%/năm) cao hơn khu vực kinh tế nhà nước (25%/năm), phản ánh sự phát triển năng động, hiệu quả của khu vực kinh tế này trong những năm gần đây. Theo ước tính, tổng dư nợ tín dụng cung cấp cho nền kinh tế trong năm 2007 vào khoảng 40% so với cuối năm 2006 và tăng gấp khoảng 2 lần so với mức dự kiến từ đầu năm là 17-21%. Những lĩnh vực thu hút khối lượng lớn vốn tín dụng NH trong những năm gần đây bao gồm đầu tư các dự án cơ sở hạ tầng, đầu tư bất động sản mà đặc biệt là các dự án khu nhà ở mới, khu đô thị mới, đầu tư vốn trong lĩnh vực xuất khẩu và dịch vụ, nuôi trồng thủy sản …Bên cạnh đó, đối tượng đầu tư chứng khoán, vàng, tiêu dùng …cũng thu hút một phần khối lượng rất lớn vốn tín dụng. 2.2.3. Các hoạt động khác Trong những năm qua, kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước liên tục tăng trưởng với tốc độ cao tạo thuận lợi cho hoạt động thanh toán quốc tế qua hệ thống ngân hàng. Trong những năm 2005-2006, hoạt động thanh toán quốc tế đạt được mức tăng cao và đều đặn, trên 22% với thanh toán xuất khẩu và trên 15% với thanh toán nhập khẩu. (Nguồn : Quỹ tiền tệ quốc tế) Theo NHNN, dịch vụ thẻ tăng trưởng cao trong những năm gần đây, đạt tốc độ tăng trưởng 150-300%/năm. Tính đến hết năm 2007, các ngân hàng phát hành gần 8,3 triệu thẻ, tính bình quân trong gần 10 người dân có 1 người dùng thẻ Thống kê của NHNN . Thống kê cho thấy thị trường thẻ Việt Nam năm 2007 tăng 2,5 lần so với năm 2006, từ 3,5 triệu thẻ năm 2006 lên 8,3 triệu thẻ năm 2007. Trong đó số lượng thẻ ghi nợ nội địa (ATM) chiếm chủ yếu với 93,87%, tiếp theo là thẻ ghi nợ (Debit card) quốc tế với 3,6%, thẻ tín dụng (Credit card) quốc tế chiếm 2,22% và thẻ tín dụng nội địa chiếm 0,31%. Thu nhập của người dân ngày càng được cải thiện, hệ thống cơ sở vật chất trong lĩnh vực ngân hàng phát triển, tiện ích đáp ứng nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt của dân cư. Tính đến hết năm 2007, cả nước đã có 4.300 máy ATM, hơn 23.000 điểm chấp nhận thanh thoán thẻ bằng POS, so với năm 2006, con số trên là 2.500 ATM và 14.000 POS. Chương III: Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành NH ở Việt Nam Vì giới hạn của ngồn thông tin cũng như sự hạn chế của các tài liệu tham khảo, trong khuôn khổ của đề tài chỉ đề cập đến những chỉ tiêu tài chính mang tính “sống còn” trong ngân hàng đó là : Dư nợ / Tổng tài sản, Hệ số an toàn vốn, NPLs / Tổng dư nợ, ROA, ROE. Đề tài sẽ cung cấp các chỉ tiêu trên theo tiêu chí 5 ngân hàng thương mại quốc doanh và 14 ngân hàng thương mại cổ phần. Căn cứ vào bộ số liệu này và phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên sẽ tính toán ra chỉ tiêu của toàn ngành ngân hàng. 3.1. Dư nợ / Tổng tài sản Khối ngân hàng thương mại quốc doanh (Nguồn : Báo cáo của IFC) Khối ngân hàng thương mại cổ phần Ngân hàng NPLs / Tổng dư nợ (%) 2005 2006 ACB 38,65 38,11 Sacombank 58,28 58,1 Exim bank 56,58 55,68 Techcombank 50,44 50,85 VIB 58,6 55,13 NHTMCP Quân đội 52,34 43,65 NH Đông Á 69,99 66,13 Habubank 60,27 51,2 NH Sài Gòn 83,45 77,1 Sea Bank 22,04 32,87 VP Bank 54,11 49,29 NH Phương Nam 74,47 51,17 NH Phương Đông 71,92 72,36 ABBank 59,71 36,32 (Nguồn : Báo cáo của IFC) Chỉ tiêu Dư nợ / Tổng tài sản của toàn ngành năm 2005 là 42,91 và năm 2006 là 39,4058 Chỉ tiêu này của toàn ngành đã giảm xuống trong năm 2005 so với năm 2006 bởi vì trong thời gian này, các ngân hàng thương mại đã tập trung vào một kênh huy động vốn khác đó là từ thị trường chứng khoán thay vì dựa vào kênh dẫn vốn truyền thống từ đi vay. Trong năm 2005, hoạt động của ngành Ngân hàng đã có nhiều cố gắng thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, phù hợp với biến động của thị trường góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; chủ động đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế trên cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát tăng trưởng tài sản có rủi ro, tháo gỡ kịp thời những khó khăn trong hoạt động tín dụng. Bên cạnh đó, toàn ngành cũng đồng thời đẩy mạnh tiến trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại nhằm nâng cao năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam; tiếp tục thực hiện chương trình hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán, mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 2006, ngành Ngân hàng phấn đấu đưa tổng phương tiện thanh toán tăng 22% và dư nợ tín dụng tăng dưới 25% so với năm 2005. 3.2. Tình trạng nợ xấu(NPLs) Khối các ngân hàng thương mại quốc doanh (Nguồn : Báo cáo của IFC) Khối các ngân hàng thương mại cổ phần Ngân hàng NPLs / Tổng dư nợ (%) 2005 2006 ACB 0,3 0,19 Sacombank 0,56 0,72 Exim bank - - Techcombank 1,82 3,11 VIB - - NHTMCP Quân đội - - NH Đông Á - - Habubank 1,08 - NH Sài Gòn 0,73 - Sea Bank - - VP Bank - - NH Phương Nam - - NH Phương Đông 9,55 - ABBank - 3 (Nguồn : Báo cáo của IFC) Chỉ tiêu nợ xấu của toàn ngành năm 2005 và năm 2006 Tình trạng nợ xấu của hệ thống ngân hàng trong nước từng bước được cải thiện từ năm 2000 trở lại đây. Năm 2000, tỷ lệ nợ xấu (NPL) trên tổng dư nợ của nhóm các NHTM quốc doanh ở mức cao 12,7%, giảm dần còn 8,5%, 8% và 4,47% trong các năm tiếp theo, và đến năm Chỉ tiêu nợ xấu năm 2006 đã giảm đi đáng kể chỉ còn 3% (theo VAS). Tuy nhiên nếu đánh giá theo chuẩn mực kế toán quốc tế, thì tỷ lệ nợ xấu của nhóm các NHTM này vẫn ở mức rất cao 15-20%. Nhóm các NHTM cổ phần, tỷ lệ nợ xấu ở mức khoảng 1% năm 2005 và 0,85% năm 2006. Đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì tỷ lệ này còn thấp hơn rất nhiều 0,06%. Hầu hết các khoản nợ xấu bắt nguồn từ các khoản cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước, các Tổng công ty lớn, trong khi dư nợ cho khu vực Nhà nước vay chiếm tới hơn 30% tổng dư nợ cho vay toàn nền kinh tế, nhiều doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài. Ngoài ra, các khoản cho vay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo, trong khi thị trường bất động sản và thị trường hàng hóa chưa phát triển và còn nhiều biến động phức tạp dẫn đến tình trạng nợ xấu gia tăng và kéo dài tại các NHTM quốc doanh. Tình trạng này kéo dài sẽ tác động tiêu cực tới năng lực tài chính của các ngân hàng, nhất là trong điều kiện hiện nay khi nguồn vốn tự có của các ngân hàng vẫn còn ở mức hạn chế vì nếu trích lập đầy đủ những khoản nợ khoanh và nợ khó đòi thì vốn tự có của nhiều NHTM, nhất là NHTM quốc doanh ở tình trạng âm Theo tạp chí kế toán . Với sự ra đời của Công ty mua bán nợ, quản lý nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC – hoạt động từ năm 2004) để xử lý nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước, bao gồm cả các NHTM, cùng với các quy định mới của NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của TCTD Quyết định số 493/2005/NHNN ngày 22/4/2005 và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN. phù hợp với thông lệ quốc tế, tình trạng nợ xấu của các ngân hàng sẽ tiếp tục được cải thiện. Theo đó, các tổ chức tín dụng (TCTD) đã tiến hành xây dựng Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ về khách hàng và hệ thống này là công cụ hữu hiệu giúp cho các TCTD trong việc quản lý rủi ro tín dụng và phân loại nợ để đánh giá chính xác hơn chất lượng, khả năng tổn thất trong hoạt động tín dụng và là cơ sở cho việc đưa ra các chính sách về tín dụng, khách hàng, lãi suất, bảo đảm tiền vay. 3.3. Hệ số an toàn vốn Khối ngân hàng thương mại quốc doanh (Nguồn : Báo cáo của IFC) Khối ngân hàng thương mại cổ phần Ngân hàng Hệ số an toàn vốn (CAR %) 2005 2006 ACB 13,68 9,97 Sacombank 22,34 19,94 Exim bank 13 19,09 Techcombank 18,75 20 VIB 11,28 13,06 NHTMCP Quân đội 14,81 23,13 NH Đông Á 11,95 19,05 Habubank 11,77 29,35 NH Sài Gòn 17,01 19,37 Sea Bank 21,63 31,37 VP Bank 9,95 16,7 NH Phương Nam 14,43 34,77 NH Phương Đông 14,29 17,87 ABBank 46,31 105,22 (Nguồn : Báo cáo của IFC) Chỉ tiêu toàn ngành ngân hàng Phần lớn năng lực tài chính của các NHTM quốc doanh còn hạn chế, nguồn vốn tự có thấp, chưa đáp ứng tiêu chuẩn về an toàn vốn (8%). Ngoại trừ MHB, 4 NHTM quốc doanh còn lại hệ số an toàn vốn mới chỉ đạt khoảng 4-5%, thấp hơn nhiều so với mức bình quân trong khu vực (12-13%). Hạn chế này một phần xuất phát từ tình trạng tỷ lệ nợ xấu còn ở mức cao, chưa được xử lý vẫn còn tồn đọng. Do vậy đạt được tiêu chuẩn quốc tế về an toàn vốn là một thách thức lớn đối với các ngân hàng này. Ước tính để đạt hệ số an toàn vốn 8% vào năm 2010, các ngân hàng này cần thêm một lượng vốn tới 65-70 nghìn tỷ đồng Báo cáo của IFC . Nhìn chung hệ số an toàn vốn của toàn ngành vẫn nằm ở mức đảm bảo đạt trên tiêu chuẩn quốc tế là 8%. 3.4. ROA(Thu nhập trên vốn cổ phần) Khối ngân hàng thương mại quốc doanh (Nguồn : Báo cáo của IFC) Khối ngân hàng thương mại cổ phần Ngân hàng ROA (%) 2005 2006 ACB 1,51 1,47 Sacombank 1,88 2,4 Exim bank 0,21 1,74 Techcombank 2,25 1,84 VIB 1,05 1,15 NHTMCP Quân đội 1,48 1,94 NH Đông Á 1,35 1,48 Habubank 1,62 2,15 NH Sài Gòn 2,14 2,26 Sea Bank 0,95 1,2 VP Bank 1,09 1,4 NH Phương Nam 1,43 1,87 NH Phương Đông 1,53 1,99 ABBank 1,71 3,06 (Nguồn : Báo cáo của IFC) ROA toàn ngành Ngân hàng ROA của hệ thống các NHTM quốc doanh thấp duy nhất chỉ có VCB là đạt tương đương với mức bình quân trong khu vực (ROA bình quân của các ngân hàng khu vực Châu Á vào khoảng 1,1% Theo Creative Investment ) Mặc dù chi phí vốn cao hơn so với các NHTM quốc doanh, song nhìn chung khối các ngân hàng cổ phần hoạt động hiệu quả và năng động hơn, điều này phản ánh qua các chỉ tiêu ROA. ROA bình quân năm 2006 đạt 1,85%, cao hơn so với các NHTM quốc doanh. Theo Ngân hàng Nhà nước, “năm 2006 là năm các ngân hàng thương mại đạt mức sinh lời rất cao: tỷ lệ lãi ròng trên vốn tự có bình quân 17-18%. Một số ngân hàng thương mại cổ phần đạt trên mức 30%”. Trong điều kiện nền kinh tế có mức tăng trưởng cao, các ngân hàng thương mại kinh doanh hiệu quả là điều rất đáng mừng. Tuy nhiên, với vai trò là “hệ tuần hoàn của nền kinh tế”, lợi nhuận ngân hàng cao có thể do độ “ma sát” lớn, làm tăng chi phí huy động của các doanh nghiệp và ảnh hưởng đến hiệu quả của nền kinh tế. So sánh sơ bộ với các nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy quy mô của các ngân hàng Việt Nam hiện còn nhỏ, tỷ lệ giữa dư nợ cho vay và GDP là 75%, tức là bằng một nửa so với bình quân của toàn thế giới và thấp hơn so với bình quân của các nước ASEAN năm 2005 (81%). Suất sinh lời trên tài sản (ROA) bình quân 1% là chấp nhận được nhưng vẫn thấp hơn mức bình quân chung của thế giới. 3.5. ROE của toàn ngành Khối ngân hàng thương mại quốc doanh (Nguồn : Báo cáo của IFC) Kết quả hoạt động của các NHTM cổ phần Ngân hàng ROE (%) 2005 2006 ACB 30,07 33,9 Sacombank 16,44 19,78 Exim bank 3,07 18,6 Techcombank 27,03 18,55 VIB 15,84 16,38 NHTMCP Quân đội 19,48 21,07 NH Đông Á 16,22 13,61 Habubank 23,22 17,23 NH Sài Gòn 14,75 15,4 Sea Bank 17,66 14,55 VP Bank 21,25 19,49 NH Phương Nam 13,92 12,55 NH Phương Đông 15,22 16,69 ABBank 6,13 8,42 (Nguồn : Báo cáo của IFC) ROE toàn ngành Ngân hàng: Tương tự như chỉ tiêu ROA, ROE của các NHTM cổ phần đều tăng lên rõ rệt nếu so sánh kết quả hoạt động của 2 năm 2005 và 2006. Nhìn chung thì chi tiêu ROE của toàn ngành nói chung và đặc biệt là các ngân hàng ngoài quốc doanh nói riêng đều nằm vào mức cao so với các ngân hàng trong khu vực. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có bình quân (ROE) bằng mức bình quân chung và cao hơn Thái Lan hay các nước Đông Âu một chút (so cùng năm). Nguyên nhân là do tỷ lệ vốn tự có so với tổng tài sản - một thước đo độ an toàn trong hoạt động - của các ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn còn thấp 3.6. Nhận xét chung: Thị trường ngân hàng Việt Nam hiện tại là thị trường cạnh tranh độc quyền nhóm do phần lớn thị phần đang do các NHTMNN nắm giữ, với rất nhiều rào cản đang được đặt ra của chính phủ và cũng chính từ đặc điểm của ngành. Tuy nhiên, trong một số năm tới, số lượng ngân hàng sẽ giảm mạnh, song qui mô và chất lượng tăng thông qua sát nhập, thâu tóm các ngân hàng. Các ngân hàng sẽ có xu thế phát triển hoạt động ngân hàng đa năng. Mặc dù đã thực hiện cổ phần hóa, song tính chất ngân hàng của nhà nước sẽ vẫn không mất đi ở các NHTMNN. Tuy nhiên, sự thống trị của các NHTMNN sẽ mất đi, nhường vị trí cho các NHTMCP và các ngân hàng nước ngoài. Ngành ngân hàng vẫn là ngành có tốc độ tăng trưởng cao của ngành đang ở giai đoạn thứ hai của chu kỳ tăng trưởng. Ngành đang ở mức tăng trưởng nhanh và tố độ tăng trưởng 20% sẽ giữ vững trong thời gian tới Bảng tóm tắt các chỉ tiêu chính của ngân hàng Chỉ tiêu 2005 2006 Dư nợ / Tổng tài sản 42,9125 39,4058 Tình trạng nợ xấu 2,9322 1,383 Hệ số an toàn vốn 8,2371 8,5951 ROA 1,0344 1,4620 ROE 17,2737 24,4343 Kết Luận Các chỉ tiêu phân tích ngành ngân hàng đã được áp dụng từ rất lâu ở các nước trên thế giới và được coi như một chuẩn mực trong phân tích, đánh giá tổ chức tín dụng. Tuy nhiên việc vận dụng để phù hợp với điều kiện các ngân hàng ở Việt Nam về các chỉ tiêu tính toán, các mức chuẩn thì vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu. Phân tích tài chính NHTM luôn là mối quan tâm đối với rất nhiều người từ những người dân đến những người quản lý. Bởi lẽ sự thất bại của các NHTM không những ảnh hưởng đến cá nhân, các tổ chức mà ảnh hưởng tới cả nền kinh tế. Hoạt động kinh doanh của các NHTM liên quan trực tiếp đến tiền tệ nên rất nhạy cảm và tiềm ẩn rủi ro. Cho nên phân tích tài chính NHTM là một trong những nội dung khó, đòi hỏi phải có nhiều kinh nghiệm cũng như am hiêu sâu sắc về hoạt động của các NHTM, do đó, tác giả chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để không ngừng hoàn thiện nội dung phân tích tài chính nhằm phục vụ cho sự phát triển an toàn và hiệu quả của các ngân hàng thương mại nói riêng và của toàn nền kinh tế nói chung. Nghiên cứu khoa học này muốn cung cấp một sơ sở ý thuyết nền tảng trong việc phân tích các công cụ phân tích ngành, và phân tích thực trạng cũng như các chỉ số ngành ngân hàng như là một bước đầu trong việc hoàn thiện việc cung cấp thông tin một cách minh bạch và đầy đủ cho những người quan tâm. MỤC LỤC Mở đầu: Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu 1 Mục đích nghiên cứu 2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 Phương pháp nghiên cứu 4 4.1.Phương pháp so sánh 4 4.2. Phương pháp phân tích tỷ lệ 5 4.3. Phương pháp tính toán chỉ số ngành 6 4.3.1. Chọn mẫu chủ quan 6 4.3.2. Chọn mẫu tạo sự thuận tiện 7 4.3.3. Chọn mẫu định mức 7 5.Cấu trúc đề tài 8 Chương I: Cơ sở lý luận về xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành 1.1. Khái quát về ngành kinh tế 9 Khái niệm ngành kinh tế 9 1.1.2. Phân loại ngành kinh tế 10 1.1.2.1. Phân ngành của tổng cục thống kê 10 Phân ngành của GICS 11 1.1.2.3. Phân ngành của ICB 13 1.2. Hệ thống chỉ tiêu phân tích 19 1.2.1. Khái niệm hệ thống chỉ tiêu phân tích 19 1.2.2. Các tỷ số tài chính cơ bản trong phân tích tài chính 20 1.2.2.1. Các tỷ số thanh toán 20 1.2.2.2. Các tỷ số hoạt động 21 1.2.2.3. Các tỷ số đòn bẩy tài chính 23 1.2.2.4. Các tỷ số sinh lợi 25 1.2.2.5. Các tỷ số giá trị thị trường 25 1.2.3. Nhóm chỉ tiêu phân tích tài chính trong ngân hàng 26 1.2.3.1. Nội dung phân tích 26 1.2.3.2. Phân tích về vốn 28 1.2.3.3. Phân tích chất lượng tài sản 30 1.2.3.4. Phân tích khả năng sinh lời 32 1.2.3.5. Phân tích khả năng thanh toán 34 Chương II : Thực trạng hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam: 2.1. Khái quát về hệ thống ngân hàng thương mại 36 2.1.1. Khái niệm ngành ngân hàng 36 2.1.2. Khái quát quá trình phát triển hệ thống NHTM Việt Nam 37 2.1.3. Hệ thống tổ chức của khối NHTM Việt Nam 38 2.1.4. Các đặc điểm chính của hệ thống NHTM Việt Nam 40 2.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động các NHTM 46 2.2. Các hoạt động chính của NHTM 50 2.2.1. Hoạt động huy động vốn 50 2.2.2. Hoạt động tín dụng 52 2.2.3. Các hoạt động khác 53 Chương III: Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành NH ở Việt Nam 3.1. Dư nợ / Tổng tài sản 55 3.2. Tình trạng nợ xấu 58 3.3. Hệ số an toàn vốn 60 3.4. ROA 62 3.5.ROE 65 3.6. Nhận xét chung 66 Kết luận 68 Tài liệu tham khảo Tài liệu tham khảo Giáo trình tài chính doanh nghiệp, Lưu Thị Hương(1988), Nhà xuất bản giáo dục. Thị trường chứng khoán – Phân tích cơ bản, T.S Trần Đăng Khâm, NXB Đại học kinh tế Quốc Dân. Tài chính doanh nghiệp hiện đại, TS. Trần Ngọc Thơ, Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Ngân hàng thương mại,Phan Thu Hà, Nhà xuất bản thống kê (2002) Quản trị ngân hàng thương mại, Peter S.Rose, Nhà xuất bản tài chính, Hà Nội (2004) Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, NXB Thống Kê (2005) Quản lý và kinh doanh tiền tệ, Đại học Tài chính kế toán Hà Nội (1999) “Vận dụng mô hình CAMEL trong phân tích tài chính tại ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á”, luận văn thạc sĩ Kinh tế, Lê Thu Trang (2006) Fundamentals of Corporate Finance, Ross. Thompson. Christensen. Westerfield. Jordan, McGraw-Hill Irwin. Thống kê của ngân hàng nhà nước Báo cáo thường niên 2004 của NHNN Tạp chí kế toán Báo cáo phân tích ngân hàng của VinaCapital Báo cáo IFC Thời báo kinh tế Sài Gòn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân hàng ở Việt Nam.DOC
Luận văn liên quan