Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, đi đôi với mở rộng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, đi đôi với mở rộng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là một tất yếu khách quan. Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, những biểu hiện thực chất của vấn đề đó sẽ cung cấp những cơ sở khoa học để chúng ta tìm ra cách thức, biện pháp tác động để nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành tố trong hệ thống chính trị cũng như phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các thành tố trong quá trình vận hành hệ thống chính trị nhằm bảo đảm quyền lực thực tế thuộc về nhân dân trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, đi đôi với mở rộng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành, của cả hệ thống chính trị, trong đó chủ thể cơ bản và trực tiếp là Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và các tổ chức chính trị xã hội. Quân đội có vị trí, vai trò quan trọng trong đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, mở rộng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để phát huy vai trò của mình quân đội cần phải thường xuyên chăm lo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội trong quân đội vững mạnh. Hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, chỉ huy trong quân đội phù hợp với yêu cầu của tình hình mới nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, phát huy hiệu lực chỉ huy, quản lý của người chỉ huy, vai trò của các tổ chức quần chúng, tăng cường đoàn kết, giữ nghiêm kỷ luật.Ban hành và thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở đơn vị cơ sở, bảo đảm các quyền dân chủ về chính trị, kinh tế, quân sự của cán bộ, chiến sĩ, các quyền lợi, nghĩa vụ của quân nhân, khắc phục những biểu hiện quân phiệt, gia trưởng, chuyên quyền, độc đoán, vô tổ chức, vô kỷ luật, đấu tranh với mọi hiện tượng tham nhũng, lãng phí, xâm phạm đến lợi ích của đơn vị và quân nhân. Nâng cao chất lượng công tác dân vận đông thời chủ động, tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị, tăng cường quan hệ phối hợp, kết hợp với hệ thống chính trị ở địa phương và cơ sở.

doc31 trang | Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 3764 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, đi đôi với mở rộng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng tổ chức xây dựng xã hội mới; là công cụ hữu hiệu để vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và xây dựng nền dân chủ nói xã hội chủ nghĩa nói riêng được thực hiện. Chính vì vậy, trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, đảng ta xem nhà nước là “trụ cột”, “là một công cụ chủ yếu, vững mạnh của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc” Đảng cộng sản Việt nam, Văn kiện NQTW3, KhóaVIII, Nxb CTQG, H.1997, Tr.6. . Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện bằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bằng cả hệ thống tổ chức và cơ chế phức tạp của nhiều yếu tố phức hợp tạo thành. Nhưng với tính cách là một chế độ chính trị, trước hết dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân trên cơ sở khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do Đảng cộng sản lãnh đạo. Nhà nước có chức năng cụ thể hóa đường lối quan điểm của Đảng về các quyền của nhân dân thành Hiến pháp, pháp luật, chính sáchvà tổ chức thực hiện chúng. Pháp luật trở thành công cụ chủ yếu của nhà nước trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý bằng pháp luật. Mọi cá nhân tổ chức hợp pháp đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trước pháp luật. Quyền lực xã hội, quyền lực nhà nước dưới chủ nghĩa xã hội thuộc về nhân dân nhưng phải được đảm bảo bằng hiến pháp và pháp luật, phải được quy định cụ thể trong luật pháp. Công việc đó là do các cơ quan nhà nước thực hiện, thể hiện ý trí nguyện vọng của nhân dân và đại diện cho nhân dân thực hiện quyền lực ấy trên cơ sở điều hành, quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền lực của mình trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa , xã hội, quốc phòng, an ninh Vấn đề thuộc bản chất của bất cứ nền dân chủ nào đó là giải quyết mối quan hệ giữa dân chủ và chuyên chính. Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ luôn gắn với kỷ cương, pháp luật, pháp chế; thống nhất giữa quyền lợi - nghĩa vụ - trách nhiệm, dân chủ đi đôi với chuyên chính. Để thực hiện dân chủ cho nhân dân phải chuyên chính với kẻ thù; bọn phản động phá hoại dân chủ, Nhà nước là công cụ thực hành chuyên chính với mưu đồ đi ngược lại với với lợi ích và quyền làm chủ của nhân dân, đó cũng là chức năng cơ bản của nhà nước chuyên chính vô sản trong xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội cách mạng ra đời và trưởng thành trong quá trình cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các đoàn thể ấy là tổ chức của nhân dân, phấn đấu cho dân, thực hiện quyền lợi cho dân, bênh vực cho quyền lợi chính đáng của nhân dân, liên lạc mật thiết giữa nhân dân với Chính phủ. Cho nên, nó có vai trò rất to lớn trong tập hợp, giáo dục quần chúng nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước; quy tụ mọi thành viên vào thực hiện có hiệu quả những quyền lực hợp pháp của mình. Đồng thời nó là công cụ, thông qua đó nhân dân tham gia xây dựng, giám sát hoạt động của Đảng, Nhà nước, bảo vệ, thỏa mãn lợi ích, nhu cầu chính đáng của các thành viên trong tổ chức mình. Thực chất đó là hệ thống công cụ trong thiết chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện quyền lực của mình đối với xã hội. Các thành tố trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành cơ chế bảo đảm quyền làm chủ chủa nhân dân. Do vậy, đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị nói chung và các thành tố nói riêng thực chất là đổi mới, kiện toàn thiết chế, cơ chế cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng và từng bước hoàn thiện. 1.3. Xuất phát từ quy luật hình thành chế độ dân chủ và điều kiện thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Dân chủ là giá trị nhân loại, ước nguyện từ xa xưa của con người muốn làm chủ tự nhiên, xã hội và làm chủ chính bản thân mình; đó là nhu cầu khách quan của sự phát triển xã hội loài người. Nhưng dân chủ bao giờ cũng bị chi phối, quy định bởi cơ sở kinh tể - xã hội và cơ sở chính trị - xã hội. ở chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến hầu như không có dân chủ. Đến nền văn minh Châu Âu (thế kỷ XVI đến XIX) dân chủ đã có sự phát triển vượt bậc đó là chế độ dân chủ tư sản. Tuy nhiên, đó vẫn là nền dân chủ chật hẹp, bị cắt xén, giả dối, giả hiệu bởi do chế độ kinh tế - xã hội và bản chất giai cấp tư sản quy định. Chỉ đến chế độ xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ mới được xây dựng trên cơ sở của chính nó, chế độ kinh tế - xã hội dựa trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất và công bằng, không có bóc lột, bất công, mọi người được sống tự do, bác ái, khi ấy xã hội mới có bước phát triển lên trình độ dân chủ, nhân dân làm chủ xã hội. Theo nghĩa đó, ở nước ta vấn đề dân chủ luôn gắn liền với vấn đề dân tộc, chỉ có giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức bóc lột mới mở đường cho dân chủ phát triển, dân chủ trở thành mục đích trực tiếp trong công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta được hình thành và phát triển là kết quả tất yếu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đó là vấn đề có tính quy luật trong quá trình hình thành, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nếu không có cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công thiết lập nên chuyên chính vô sản thì không thể có nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tồn tại và phát triển như hiện nay. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Cách mạng táng Tám năm 1945 thành công, thiết lập nền dân chủ mới - Nhà nước dân chủ nhân dân; phát huy vai trò của nó trong cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Do vậy, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là quá trình lâu dài nhằm từng bước hoàn thiện các thiết chế, cơ chế dân chủ, hệ thống pháp luật, thực hiện các nội dung, hình thức dân chủ trong đời sống xã hội; nâng cao trình độ văn hóa dân chủ cho nhân dân; hạn chế loại trừ những ảnh hưởng của dân chủ tư sản, tàn dư của tâm lý, thói quen của nền sản xuất nhỏtoàn bộ quá trình đó tất yếu phải do hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa tổ chức xây dựng. Cho nên, thực chất quá trình phát huy, đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị là yêu cầu khách quan do chính quy luật hình thành phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta quy định, thực chất đó là quá trình từng bước hoàn thiện nền dân chủ ở nước ta hiện nay. Xét về điều kiện để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta bao gồm nhiều vấn đề: cơ sở kinh tế - xã hội, cơ sở chính trị - xã hội, trong đó trực tiếp nhất là vần đề dân sinh, dân trí và dân quyền. Muốn có dân chủ, dân chủ là dân làm chủ, trước hết dân phải có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhân dân phải có trí tuệ, văn hóa, tri thức về dân chủ, phải có độc lập dân tộc, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Những điều kiện trực tiếp ấy không thể nào không do cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đem lại; không thể nào không do hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa xây dựng, tổ chức lên. Điều đó được thể hiện rất rõ trong vai trò của Đảng đặt ra đường lối, chiến lược, sách lược phát triển đúng đắn, nhất là khi có chính quyền, Đảng trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo chính quyền nhà nước và lãnh đạo toàn xã hội tiến hành xây dựng những điều kiện, cơ sở chính trị - xã hội, kinh tế - xã hội cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do vậy, sư phát triển của dân chủ phụ thuốc rất lớn vào uy tín của Đảng với quần chúng. Nếu Đảng được lòng dân, được dân tin, dân yêu thì dân chủ sẽ đực phát huy mở rộng. Ngược lại, Đảng không ngang tầm, không trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức sẽ mất lòng tin của nhân dân, dân chủ sẽ bị thu hẹp hoặc hình thức. Nhà nước phải là nhà nước thực quyền, của dân, do dân, vì dân, phát huy vai trò tổ chức xây dựng các điều kiện cho dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong đó, phải có sự đột phá trong khâu thông tin cho dân, giáo dục nhận thức cho nhân dân, nâng cao trình độ học vấn, đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, bồi dưỡng năng lực thực hành dân chủ cho dân để tạo điều kiện cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “dân chỉ biết rõ giá trị của độc lập khi nào dân được ăn no, mặc đủ” Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H.2000, Tr.152. và “Nhà nước chẳng những công nhận những quyền lợi của công dân mà còn bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để cho công dân thực sự được hưởng quyền đó” Hồ Chí Minh toàn tập, tập9, Nxb CTQG, H.2000, Tr.593. . Như vậy, xét về điều kiện để thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính trị ở nước ta đóng vai trò trực tiếp thỏa mãn những điều kiện ấy. Cho nên đổi mới, kiện toàn, phát huy vai trò của hệ thống chính trị thực chất là tạo điều kiện cần thiết để xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ ở nước ta hiện nay. 1.4. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới chứng minh hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa đóng vai trò quyết định trực tiếp sự tồn tại và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn 60 năm xây dựng nhà nước dân chủ - nhà nước xã hội chủ nghĩa và thực tiễn nền dân chủ ở Việt Nam cho thấy ở đâu, khi nào hệ thống chính trị được kiện toàn, xây dựng trong sạch vững mạnh, cơ chế hoạt động linh hoạt, nhịp nhàng, ăn khớp thì ở đó, khi đó dân chủ được phát huy, mở rộng, phát triển (xét trên cả bình diện phạm vi toàn quốc và từng cơ sở). Ngược lại, khi nào, ở đâu hệ thống chính trị mắc bệnh quan liêu, tham nhũng trì trệ, cồng kềnh, hoạt động chồng chéo lấn sân, pháp luật không hoàn thiện và nghiêm minh, đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị xa dân, suy thoái về đạo đức, chính trị, lối sốngthì ở đó, khi đó quyền dân chủ của nhân dân bị vi phạm, cắt xén hoặc dân chủ hình thức, làm lung lay thậm trí xụp đổ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề có tính quy luật trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Thực tiễn ở một số nơi, một số địa phương có tình trạng mất dân chủ, xảy ra hiện tượng khiếu kiện kéo dài của nhân dân, hoặc bạo loạn chính tri, những hiện tượng đó do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu là do hệ thống chính trị còn yếu kém, một bộ phận không nhỏ cán bộ trong hệ thống chính trị tham nhũng, quan liêu, sách nhiễu nhân dân. chính vì vậy, để đảm bảo dân chủ cho nhân dân, tất yếu phải xây đựng, kiện toàn hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh. Bài học thực tiễn về sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực và chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô cho thấy: Sự tan rã của chế dộ dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết và bắt đầu từ sự biến chất của hệ thống chính trị. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ, tiến công vào hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Trước hết là làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, Đảng xa dời các nguyên lý lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, bản chất giai cấp công nhân; Tách dời sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân, “phi chính trị hóa” quân đội. Khuyến khích “dân chủ hóa” đời sống xã hội theo kiểu phương tây, buông lỏng kỷ cương, pháp luật, dân chủ vô nguyên tắctừ đó chúng làm cho quá trình “tự diễn biến” trong nội bộ hệ thống chính trị diễn ra nhanh chóng. Trong nội bộ hệ thống chính trị, bắt đầu từ việc chấp nhận đa nguyên về chính trị, đa Đảng đối lập, thực chất là xa rời bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa, vì đặc chưng cơ bản của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là hệ thống chính trị nhất nguyên dưới sự lãng dạo của Đảng cộng sản. Từ sự không thừa nhận nhất nguyên về chính trị dẫn đến từ bỏ sự lãnh đạo hợp pháp của Đảng đối với toàn xã hội (xóa bỏ điều 6 trong hiến pháp nước Cộng hòa Liên bang Xô viết) dẫn đến mất vai trò lãnh đạo của Đảng, sức mạnh quản lý của nhà nước xã hộ chủ nghĩa, sức mạnh chiến đấu quân đội trong bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa làm cho nó bị sụp đổ nhanh chóng, nhân dân lại trở lại địa vị bị bóc lột, nô lệ làm thuê dưới chủ nghĩa tư bản. Đây là thực tiễn sinh động chứng minh quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn gắn liền và chịu sự quy định của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa luôn được đổi mới, kiện toàn, củng cố cùng với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ những phân tích ở trên, cùng với yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, chúng ta khẳng định rằng: đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị là quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn có cơ sở khoa học cả lý luận và thực tiễn. II. Những biểu hiện thực chất đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, đi đôi với mở rộng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là một yêu cầu khách quan trong mối quan hệ với đổi mới kinh tế nằm trong tổng thể của sự nghiệp đổi mới đất nước. Đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị bao gồm giữ vững nguyên tắc đổi mới, đổi mới nội dung, phương thức, cơ chế hoạt động của của hệ thống chính trị nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước và nhân dân lao động thực sự làm chủ mọi mặt đời sống xã hội. Thực chất đó quá trình xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 2.1. Giữ vững nguyên tắc đổi mới chính trị kết hợp với bảo đảm quá trình xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đổi mới là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng đất nước trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội nước ta. Đảng ta xác định: “kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị” Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội VIII, Nxb CTQG, H.1996, Tr.71. . Theo nguyên tắc đổi mới nhưng không đổi mầu, đổi mới phải đi đến mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Theo đó, “mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy dủ quyền làm chủ của nhân dân” Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội VIII, Nxb CTQG, H.1996, Tr.71. . để đạt được mục tiêu đó trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị phải quán triệt và bảo đảm các nguyên tắc chủ yếu sau: Nguyên tắc thứ nhất: Đổi mới hệ thống chính trị là đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tổ chức cán bộ và các mối quan hệ giữa các tổ chức chính trị hợp pháp và đang có vai trò đối với việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đổi mới hệ thống chính trị là không thay đổi mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là con đường duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam đồng thời đó cũng là mục tiêu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Vì chỉ có chủ nghĩa xã hội, quyền lực xã hội của nhân dân mới được thực hiện trên thực tế, chỉ dưới chủ nghĩa xã hội nhân dân lao động mới được làm chủ mọi mặt đời sống xã hội. Do đó, nguyên tắc này vừa đảm bảo cho xây dựng hệ thống chính trị giữ được bản chất xã hội chủ nghĩa vừa đảm bảo cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện trên thực tế. Nguyên tắc thứ hai: Đổi mới hệ thống chính trị phải bảo đảm cho chức năng, nhiệm vụ của nó được thực hiện một cách triệt để và ngày càng tốt hơn nhằm làm cho quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được mở rộng. Vì hai mặt dân chủ và chuyên chính luôn gắn kết với nhau trong bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ phải đi đôi với chuyên chính, dân chủ với đại đa số nhân dân lao động và chuyên chính với bọn phản động. Có như vậy, hệ thống chính trị mới phát huy được đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và dân chủ mới được phát huy. Nguyên tắc thứ ba: Đổi mới hệ thống chính trị phải giữ vững bản chất nhất nguyên của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Đây là nguyên tắc bảo đảm tốt nhất cho sự ổn định đời sống chính trị - xã hội, tạo tiền đề cho xã hội phát triển; xã hội có phát triển nhanh và bền vững, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa thì dân chủ xã hội chủ nghĩa mới được giữ vững và từng bước hoàn thiện. Bởi vì, chỉ có dưới sự lãnh đạo độc tôn của đảng cộng sản, hệ thống chính trị ở nước ta mới vững mạnh về chính trị, mới giữ vững bản chất giai cấp công nhân của nhà nước. Đồng thời quyền làm chủ của nhân dân chỉ được thực hiện và phát huy cao độ, có hiệu quả tích cực khi có định hướng chính trị đúng đắn; mới khắc phục được những nhận thức và hành vi sai trái về dân chủ như: dân chủ tư sản, dân chủ cực đoan vô chính phủ, coi thường kỷ cương phép nước hoặc thờ ơ với chính trịtrong xã hội. Đây là nguyên tắc cơ bản, chủ yếu, xuyên suốt trong quá trình đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, đồng thời là những nguyên tắc chỉ đạo cho quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 2.2. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị gắn liền với quá trình xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Cùng với quá trình đổi mới đất nước, đổi mới kinh tế, trong những năm qua, việc đổi mới hệ thống chính trị đã đạt được những thành tựu quan trọng, tác động trực triếp đến việc phát huy dân chủ trong mọi mặt đời sống xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phấn đấu thực hiện thắn lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thực hiện và phát huy dân chủ sẽ nêu cao được tính chủ động, sáng tạo, nhiệt tình cách mạng của quần chúng nhân dân, tập trung được quyền lực, ý trí, sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Do vậy, phải tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nói chung và từng thành tố trong đó nói riêng, nhằm “bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân” Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, Tr.238. . Nhưng để phát huy dân chủ đúng hướng và đạt kết quả tốt thì trong quá trình đó phải được lãnh đạo tốt, có bước đi vững chắc phù hợp với tình hình chính trị - xã hội và từng bước phát triển của đất nước. Sự phát triển của dân chủ bao giờ cũng chịu sự chi phối của phương thức sản xuất, chế độ xã hội, trạng thái kinh tế - xã hội, văn hóa, dân trítrong đó bản chất chính trị của giai cấp cầm quyền quyết định. Cho nên, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, dân chủ xã hội chủ nghĩa phát triển trước hết phụ thuộc vào vai trò lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn phát triển phong phú về quy mô, tốc độ, chiều sâu sau 20 năm công cuộc đổi mới đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng xây dựng, chỉnh đốn nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu ngang tầm nhiệm vụ. Để phát huy tích cực nhất những thành tựu về dân chủ của 20 năm đổi mới, Đảng ta đã rút ra: phải “đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng”, “bảo đảm vừa nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể nhân dân, và người đứng đầu; khắc phục khuynh hướng buông lỏng lãnh đạo hoặc bao biện làm thay; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, thắt chặt mối quan hệ mắu thịt với nhân dân” Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, Tr.306. . Đó là mục tiêu, yêu cầu và nội dung của đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng hịên nay. Có thể nói sự thành công hay không của công cuộc đổi mới phát huy, mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay tùy thuộc một phần cơ bản quan trọng vào việc đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng. Bởi lẽ, phương thức lãnh đạo là cách thức, biện pháp, bước đi để thực hiện nhiệm vụ, nội dung lãnh đạo, là nhân tố quan trọng đảm bảo cho đường lối đi vào cuộc sống thông qua phong trào hành động cách mạng của đông đảo nhân dân lao động, dưới ngọn cờ của Đảng. Tuy nhiên, cho đến nay việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng chưa tương xứng với yêu cầu đổi mới, mở rộng, phát huy dân chủ của nhân dân trên các phương diện như: Chưa đáp ứng được hiệu quả yêu cầu đổi mới trong tổ chức và hoạt động của nhà nước và các đoàn thể. Trên một số lĩnh vực còn lúng túng cả về tổ chức và tổ chức hoạt động; có không ít vấn đề chưa cụ thể hóa, thể chế hóa được một số quan niệm, phương hướng chỉ đạo xây dựng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đề ra, vẫn còn tình trạng bao biện lẫn tình trạng buông lỏng, thậm trí còn lúng túng ở một số phương diện. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng vẫn là một khâu yếu, chưa khắc phục kịp thời và có hiệu quả. Đảng nhấn mạnh: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Chức năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, ban cán sự đảng chưa được xác định rõ ràng, cụ thể nên hoạt động còn lúng túng.” Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, Tr.175. Trước đòi hỏi cấp bách của đất nước và thực trạng nền dân chủ hiện nay phải tranh thủ cơ hội vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững hơn, Đảng ta phải tiếp tục đổi mới sâu sắc, hoàn thiện hơn nữa phương thức lãnh đạo trên cơ sở những quan điểm sau: Một là, đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của đảng phải xuất phát từ đường lối chính trị thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện. Hai là, đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và cơ chế vận hành của cả hệ thống chính trị. Đây là một nội dung, một bộ phận trọng yếu của công tác xây dựng Đảng; là sự biểu hiện và tập trung sinh động năng lực lãnh đạo chính trị, văn hóa chính trị của Đảng. Xác định đúng, phân tích rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức mối quan hệ giữa Đảng với các tổ chức quần chúnh trong hệ thống chính trị, đặc biệt là đối với nhà nước trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ba là, đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng phải phù hợp với trình độ trí tuệ của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trình độ dân chủ của Đảng, trình độ dân chủ của toàn xã hội và hệ thống tổ chức của Đảng, đặt vững trên nền tảng tập trung dân chủ. Đổi mới, đảm bảo nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, bí thư cấp ủy phải thật là người tiêu biểu về phẩm chất, về trí tuệ và phong cách công tác; đồng thời cụ thể hóa thể chế quan điểm, chủ trương đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thành điều lệ, quy chế, quy trình công tác. Nâng cao trình độ mọi mặt, trước hết là trình độ chính trị và trình độ học vấn của cán bộ, đảng viên. phát huy dân chủ trong Đảng một cách mạnh mẽ làm tiền đề động lực phát huy dân chủ trong xã hội một cách đúng hướng, toàn diện nhằm góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách chủ động và có hiệu quả. Bốn là, phải lấy hiệu quả của việc tổ chức thực hiện đường lối chính trị, sự trưởng thành toàn diện của Đảng, hệ thống chính trị, trình độ phát triển của dân chủ xã hội, mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân làm thước đo quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng. Đây là sự kiểm chứng nghiêm khắc nhất vai trò, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Các cấp ủy, tổ chức Đảng từ trung ương tới chi bộ, mỗi đảng viên phải lấy đó làm tiêu trí soát xét mình, từ đó chủ đông kịp thời đều chỉnh phương pháp, hình thức công tác cho phù hợp trong việc thực hiện đường lối lãnh đạo chính trị. Dân chủ bao giờ cũng gắn với chế độ nhà nước, Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng là ông cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Cho nên, muốn nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện thì tất yếu phải đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của nhà nước. Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng quản lý hinh tế, quản lý xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân,với thị trường. Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước théo pháp luât” Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, Tr.246. . Thực chất việc đổi mới kiện toàn tổ chức và hoạt động của nhà nước ta hiện nay là quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Một trong những quan điểm cơ bản của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân là quyền lực Nhà nước thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp trên việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, và tư pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hoạt động lập pháp hiện nay đang đứng trước những yêu cầu to lớn về hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như yêu cầu mới mẻ và phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong điều kiện hội nhập, hợp tác quốc tế. Muốn vậy, cần phải tổ chức tốt hơn nữa quy trình lập pháp. Quy trình đó vừa phải đảm bảo phản ánh được sự phát triển sống động của đời sống xã hội trong các lĩnh vực, lại vừa đảm bảo tính khoa học, tính chuyên môn pháp lý của các quy định, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các khâu làm luật với việc ban hành các văn bản dưới luật và tổ chức thực thi pháp luật. Vấn đề cải cách hành chính, những năm qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước còn bộc lộ không ít nhược điểm, còn nhiều mặt chưa theo kịp và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Tổ chức hành pháp chưa thông suốt, còn nhiều hạn chế trong việc xử lý những mối liên kết dọc và ngang, thậm trí có hiện tượng cục bộ, bản vị. Chế độ phân cấp trách nhiệm còn thiếu rành mạch làm trầm trọng thêm tác phong làm việc quan liêu, dựa dẫm. Thẩm quyền trách nhiệm cá nhân chưa được quy định chặt chẽ. Phong cách làm việc và trách nhiệm trước dân của đội ngũ công chức, viên chức còn là vấn đề bức xúc. Vì vậy, Đảng chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và đặt thành nhiệm vụ chiến lược cần được xem xét trên cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm xây dựng cho được một nền hành chính Nhà nước dân chủ, trong sạch vững mạnh. Một trong nội dung cơ bản của nguyên tắc phân công và phối hợp quyền lực nhà nước và cải cách hành chính là sự phân công, phân cấp giữa trung ương và địa phương, sự phối hợp giữa chính quyền với các bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị. Sự phân công phân cấp ấy phải dựa trên cơ sở khuyến khích, nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của các bộ phận hợp thành và các cấp chính quyền, kết hợp chặt chẽ quản lý hành chính lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Về lĩnh vực hoạt động tư pháp, đề cao pháp luật tăng cường pháp chế phải đi liền với mối quan tâm làm sao để đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ, đảng viên và tầng lớp nhân dân. Vì vậy, xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một nhiệm vụ. Đổi mới và hoàn thiện pháp luật phải đi liền với đổi mới và thực tiễn áp dụng pháp luật. Tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật phải đi liền với việc khuyến kích, tạo điều kiện cho các các hoạt động của các tổ chức và công dân nhằm sử dụng đầy đủ quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ của họ, khuyến khích tính tích cực pháp lý của họ phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, cải cách hành chính và hệ thống tư pháp. Đồng thời, đề cao pháp luật, pháp chế còn đặt ra nhiệm vụ phải bằng mọi cách nâng cao hiểu biết pháp luật, tổ chức tốt công tác tư vấn pháp luật cho mọi tổ chức công dân, đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm và tội phạm, kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Thực thi quyền lực và thi hành pháp luật là những hoạt động luôn cần đến sự kiểm tra, giám sát đầy đủ và hữu hiệu. Trong một nhà nước pháp quyền các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải thực sự được coi trọng và hoàn thiện ở mức cao nhất, đảm bảo quyền lực nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo thực thi tốt nhất quyền dân chủ của công dân, phục vụ lợi ích chung của xã hội, của đất nước, pháp luật luôn được tôn trọng, pháp chế và kỷ cương được giữ vững. Đối với các cơ quan Nhà nước, kiểm tra, giám sát là cách tốt nhất để các cơ quan đó thực hiện đúng chức trách và thẩm quyền của mình, đồng thời là điều kiện để phối hợp các hoạt động một cách có hiệu quả. Đến lượt mình, các hoạt động, các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải có sự phân công phối hợp đầy đủ và hoàn thiện hơn. Đặc biệt, cần nhấn mạnh quyền giám sát tối cao của Quốc hội và quyền giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp. Đổi mới nội dung phương thức hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là yêu cầu khách quan của quá trình đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Đại hội X, Đảng ta nhấn mạnh: “Thực hiện tốt luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam, quy chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị. Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và các hội quần chúng, khắc phục tình trạng hành chính hóa, phô trương, hình thức; làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần dân và có trchs nhiệm với dân.”16, 17 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, Tr.124. ; nhằm “thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng và nhà nước, thực hiện giám sát của nhân dân đối với công tác, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và cơ quan nhà nước” . Mặt trận tổ quốc Việt nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý trí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên. Mặt trận có vai trò to lớn trong xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, thực hiện quyền chủ của nhân dân. khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận tổ quốc phải được củng cố phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm của công dân của hội viên, đoàn viên, giữ vững kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, góp phần rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhân dân vừa thực hiện quyền dân chủ trực tiếp vừa thực hiện quyền dân chủ thông qua đại diện các cơ quan Nhà nước, các đại biểu nhân dân, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Đảng và Nhà nước xây dựng và hoàn thiện quy chế để Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, qua đó tăng cường đoàn kết toàn dân, củng cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội. Với tinh thần đó, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cần phát huy đầy đủ vai trò đại diện của nhân dân trong tổ chức bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện giám sát của nhân dân đối với việc thực thi trách nhiệm và đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và các cơ quan nhà nước; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước; cùng chăm lo, bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của nhân dân; giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân; tham gia công tác hòa giảiCần tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận tổ quốc Việt Nam theo hướng: khắc phục tình trạng hành chính hóa, hình thức, quan liêu, xa dân; thực hiện tốt luật Mặt trtận tổ quốc Việt Nam; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, xây dựng đời sống văn hóa, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, gắn liền với các chương trình kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội của cả nước, từng địa phương và địa bàn dân cư. Như vậy, đổi mới nôi dung, phương thức hoạt động của các thành tố trong hệ thống chính trị chính là từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 2.3. Đổi mới cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị, biểu hiện trực tiếp của đổi mới cơ chế bảo đảm và thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa. Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, việc đổi mới hệ thống chính trị không chỉ dừng lại ở đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của từng thành tố mà còn đòi hỏi phải đổi mới trong việc giải quyết mối quan hệ qua lại giữa các thành tố đó. Thực chất là đổi mới hoàn thiện cơ chế hoạt đông của hệ thống chính trị, nhưng cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hoạt động thống nhất theo cơ chế: Đảng lãnh đạo; Nhà nước quản lý; Nhân dân lao động làm chủ. Do đó, đổi mới cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị là biểu hiện trực tiếp của đổi mới cơ chế bảo đảm cho dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát huy hoàn thiện và mở rộng. Trên cơ sở cơ chế vận hành chung đó, trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị cần làm rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận hoạt động trong cơ chế đó chống chồng chéo, lấn sân, làm thay hoặc bỏ trống làm cho hệ thống chính trị cũng như nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hoạt động nhịp nhàng ăn khớp, hệ thống trong sạch vững mạnh, dân chủ ngày càng dược xây dựng hoàn thiện và mở rộng. Trong đó, giải quyết tốt các mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo Nhà nước quản lý là cơ bản nhất. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị, nhưng là bộ phận lãnh đạo quy định bản chất của hệ thống chính trị và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng không bao biện, làm thay chức năng của nhà nước. Nhà nước là bộ phận thực hiện cụ thể hóa đừng lối của Đảng, nhưng không lấn sân lãnh đạo của Đảng. Mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là mối quan hệ giữa lãnh đạo và phục tùng sự lãnh đạo, trên cơ sở đường lối chủ trương của Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện chức năng tổ chức , tập hợp lực lượng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa mở rộng và phát huy dân chủ với lãnh đạo tập trung dân chủ có lãnh đạo, định hướng, có cơ chế đảm bảo cho dân chủ được thực hiện trên thực tế. Giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là mối quan hệ quản lý và chịu sự quản lý. Nhà nước quản lý các tổ chức chính trị xã hội bằng hệ thống hiến pháp, pháp luật, pháp lệnh trên cơ sở đường lối chính sách của Đảng. Các tổ chức chính trị xã hội hoạt động theo sự quản lý của nhà nước, theo hiến pháp, pháp luật, thực hiện chức năng là công cụ trực tiếp đảm bảo quyền dân chủ đại diện cho nhân dân; nhằm phát huy quyền làm chủ của các thành viên trong từng tổ chức tham gia hoạt đọng xã hội vì mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa của đất nước. Thực chất đây là giải quyết mối quan hệ giữa dân chủ với kỷ cương, kỷ luật, dân chủ được đảm bảo bằng hệ thống pháp lý, dân chủ trong pháp luật. Hệ thống pháp luật là cơ sở bảo đảm cho dân chủ được hiện thực hóa trong đời sống xã hội. Mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị với nhân dân phải được giải quyết hài hòa bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Đảng Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đều là những thiết chế cùng với cơ chế để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Do vậy, đó là mối quan hệ giữa nhân dân - người chủ với các thiết chế, công cụ bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Cho nên, Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng phải thực sự được dân yêu, dân tin và nhân dân làm nền tảng của các thiết chế ấy. Theo đó, đổi mới cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị thực chất là tăng cường cho cơ chế bảo đảm cho dân chủ ngày càng được mở rộng, hoàn thiện và phát huy. Việc xây dựng, tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở có vai trò rất quan trọng để thực hiện dân chủ trên thực tế được nhiều hơn và góp phần xây dựng lòng tin giữa quần chúng nhân dân với Đảng và Nhà nước ngày một tăng cường và hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng vững mạnh thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ hơn. 2.4. Quân đội ta với việc phát huy vai trò nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và quyền tự do dân chủ ở nước ta hiện nay. Quân đội ta là công cụ của Đảng, Nhà nước, được nhà nước nuôi dưỡng, sử dụng; đồng thời cán bộ chiến sĩ quân đội ta từ dân mà ra, vì dân mà chiến đấu, hy sinh; sức mạnh vũ khí và sức mạnh chính trị, tinh thần cũng trên nền tảng nhân dân. Như một quy luật của sự hình thành và phát triển, Quân đội nhân dân Việt Nam vừa mang bản chất cách mạng của Đảng, bản chất giai cấp của Nhà nước, vừa mang tính nhân dân và dân tộc sâu sắc. Hơn 70 năm xây dựng và chiến đấu, quy luật đó không thay đổi, song các biện pháp chủ quan để quy luật xã hội được phát huy tác dụng đã có sự phát triển sinh động. Trong đó, việc tạo mọi điều kiện để có sự thống nhất cao giữa tính chính trị - giai cấp và tính dân tộc - nhân dân của quân đội. Nhờ vậy, quân đội ta không chỉ là lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị của Đảng, Nhà nước mà còn là đội quân công tác, đội quân sản xuất, gắn bó với đời sống của toàn xã hội, xung kích trong mọi nhiệm vụ, là lực lượng trực tiếp quán triệt thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước ở những nơi khó khăn, gian khổ nhất. Thành tựu gần 30 năm đổi mới của đất nước là một chứng minh đầy tính thuyết phục cho sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn dân về sự thống nhất chức năng xã hội - chính trị và xã hội của nhà nước; về thống nhất bản chất giai cấp, bản chất cách mạng và tinh nhân dân rộng rãi của quân đội. Nhờ vậy, quan hệ giữa nhà nước với đời sống xã hội thực sự được thắt chặt, tạo ra những điều kiện, nhân tố thuận lợi nâng cao văn hoá quản lý của bộ máy quản lý nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức thông qua việc giải quyết các vấn đề chính trị xã hội. Đồng thời cũng chính là môi trường thực tiễn để rút ra những bài học kinh nghiệm về sự cần thiết phải thực hiện thống nhất các chức năng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đối với các định chế xã hội dân sự, quan hệ giữa Nhà nước với pháp quyền xã hội chủ nghĩa với đời sống xã hội dân sự được giải quyết thoả đáng là cơ sở nâng cao văn hoá làm chủ của nhân dân trong hoạt động thực tiễn tự quản, và cũng là động lực thúc đẩy phát triển các chế định đó trong thực hiện chức năng trực tiếp đại diện cho nhân dân thực hiện dân chủ. Đối với quân đội, sau khi có đường lối quan điểm của Đảng, các chính sách chủ trương tăng cường quốc phòng đã được thể chế hoá bằng pháp luật và được quán triệt trong toàn dân, toàn xã hội. kết quả đó không chỉ tạo ra sức chiến đấu trực tiếp, mà còn tạo cơ sở pháp lý và sự đồng thuận của toàn dân trong xây dựng quân đội và ủng hộ mọi hoạt động của quân đội, làm cho quân đội hoà vào lòng dân, trong lòng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. đó cũng là tác động thuận lợi cho việc quân đội tham gia xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên hiện nay còn tồn tại không ít lực cản cho việc quân đội tham gia bảo vệ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ của dân, do dân, vì dân. Trước hết, tình trạng tham nhũng, quan liêu, thoái hoá biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, viên chức trong bộ máy Đảng, Nhà nước, Quân đội đang làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng, làm kém hiệu lực quản lý của Nhà nước, làm hạn chế đến sức mạnh chiến đấu của quân đội. Hiệu quả đó làm giảm lòng tin của nhân dân, của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang vào Đảng, Nhà nước, Quân đội, phá vỡ sự thống nhất giữa Đảng - Nhà nước - quân đội - nhân dân. Thứ hai, sự chống phá của kẻ thù; bằng thủ đoạn lôi kéo, mua chuộc, làm tha hoá đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, cán bộ chiến sĩ quân đội. Chúng tìm mọi cách kìm hãm quá trình xây dựng, phát triển đời sống xã hội ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sử dụng “diễn biến hoà bình” kết hợp với các vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động, lôi kéo nhân dân gây nên sự mất ổn định về chính trị, chống lại sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và thực hiện nhiệm vụ của quân đội; Lái các chế định xã hội chủ nghĩa theo quỹ đạo “tự do tuyệt đối”, “dân chủ không hạn định” và dần dần biến bản chất xã hội ta theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản; các lực lượng thù địch tìm mọi thủ đoạn để làm phai mờ bản chất giai cấp công nhân, bản chất cách mạng và tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội ta. Để làm tròn nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ của dân, do dân và vì dân quân đội phải làm tròn chức năng của mình là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất. Đội quân chiến đấu, trong giai đoạn hiện nay, Quân đôi nhân dân Việt Nam không chỉ là đội quân chiến đấu trên mặt trận vũ trang, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch bằng biện pháp vũ trang bảo vệ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân mà còn là đội quân chiến đấu trên mặt trận phi vũ trang chống lại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch và chống lại cả những nguy cơ “nội sinh” đang hàng ngày, hàng giờ tấn công vào chế độ dân chủ ở nước ta. Đội quân công tác, quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng chính trị quan trọng góp phần tuyên truyền, giáo dục những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần quan trọng vào thực hiện phương châm “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” của Đảng và Nhà nước ta trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, quân đội nhân dân Việt Nam thực sự là lực lượng quan trọng trong việc góp phần bảo vệ và xây dựng chính quyền các cấp, nhất là trong việc xây dựng và bảo vệ chính quyền cơ sở ở vùng sâu, vùng cao, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây. Thực tiễn đã chứng minh rằng, thông qua việc thực hiện chức năng công tác, quân đội ta đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và tham gia xây dựng và củng cố chính quyền các cấp, nhất là ở các địa bàn khó khăn, xung yếu. Đội quân sản xuất, Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng quan trọng góp phần xây dựng nhà nước vững mạnh. Điều đó được thể hiện qua việc quân đội góp phần tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của nhà nước ta. Trong điều kiện hiện nay của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng quan trọng góp phần thực hiện chủ trương, chính sách của Nhà nước trong việc xây dựng, củng cố, phát triển cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, nhất là ở vùng sâu, vùng cao, vùng xa, góp phần xoá đói giảm ngèo, nâng cao dân trí, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo ra những cơ sở xã hội cho việc xây dựng và củng cố chính quyền nhà nước. Quân đội là một trong những thành phần cơ bản của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, là công cụ sắc bén của nền chuyên chính vô sản, bảo vệ quyền làm chủ của đất nước, làm chủ xã hội của nhân dân lao động. Việc thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trong quân đội là một yêu cầu không thể thiếu, là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp dân chủ hoá xã hội. Thông qua việc mở rộng và thực hiện dân chủ trong quân đội mà tạo nên một động lực to lớn, khơi dậy tính sáng tạo và các tiềm năng của mọi cán bộ, siến sỹ để hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hoạt động của quân đội mang tính tập trung thống nhất cao độ và tính kỷ luật nghiêm ngặt. Tuy nhiên điều đó hoàn toàn không đối lập với dân chủ mà là sự tương tác hữu cơ giữa dân chủ và kỷ luật. Do vậy, chế độ tập trung thống nhất cũng là chế độ dân chủ trong quân đội. Chính vì vậy, muốn mở rộng dân chủ trong quân đội thì mọi quân nhân, từ chỉ huy cao nhất đến người chiến sỹ bình thường trong quân đội đều có quyền dân chủ như nhau, đều bình đẳng về chính trị và nhân phẩm. Vì vậy, người chỉ huy, người lãnh đạo không chỉ yêu cầu cấp dưới phục tùng vô điều kiện các nghị quyết, các chỉ thị, mệnh lệnh mà còn phải biết lắng nghe ý kiến của cấp dưới, tạo mọi điều kiện cho mọi quân nhân tham gia bàn bạc tìm biện pháp thựchiện các nghị quyết của Đảng và mệnh lệnh của người chỉ huy. Cần khắc phục cả hai khuynh hướng lệch lạc trong việc thực hiện dân chủ trong quân đội ta là: gia trưởng, quân phiệt, thích dùng uy quyền cá nhân, coi thường quần chúng; hoặc buông lỏng kỷ luật, tự do vô tổ chức, chấp hành mệnh lệnh một cách tuỳ tiện. Cả hai khuynh hướng đó về thực chất đều dẫn đến việc vi phạm quyền làm chủ của các quân nhân trong quân đội. Thực hiện đầy đủ và mở rộng dân chủ trong quân đội ta phải giắn liền với việc hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và hệ thống chỉ huy điều hành, với cả bộ máy lãnh đạo chỉ huy, cả việc đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện và bố trí sắp xếp đội ngũ cán bộ lãnh đạo chỉ huy phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội trong điều kiện mới. Thực hiện dân chủ hoá trong quân đội đòi hỏi phải thường xuyên quan tâm đến việc giáo dục và bồi dưỡng cho cácn bộ chiến sỹ về ý thức, về pháp luật và nâng cao năng lực làm chủ cho mọi quân nhân trong các lĩnh vực đời sống quân đội; phải tạo môi trường dân chủ; thực hiện công khai hoá những vấn đề có liên quan đến nhiệm vụ và đời sống hàng ngày của quân nhân. Mặt khác, để thực hiệndân chủ hoá trong quân đội phải quan tâm đến đì sống vật chất tinh thần cho bộ đội, quan tâm xây dựng các chế độ chính sách phù hợp, tăng cường trách nhiệm của các cấp lãnh đạo và chỉ huy trong quân đội thực hiện nghiêm túc cdác chế độ chính sách quy định. Sự nghiệp quốc phòng của đất nước ta trong điều kiện lịch sử mới đỏi hỏi phải có một quân đội có sức mạnh tổng hợp, trong đó sức mạnh chính trị - tinh thần là nền tảng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, bảo vệ chế độ chính trị, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Một trong những yếu tố cơ bản đảm bảo sự tăng cường sức mạnh của quân đội là phải thực hiện dân chủ hoá đời sống của quân đội, khắc phục hiện tường vi phạm dân chủ hoá đời sống trong quân đội. Trong sự nghiiệp đó, cán bộ lãnh đạo và chỉ huy các cấp trong quân đội giữ vai trò đặc biệt quan trọng, trước hết là cán bộ chính trị. KẾT LUẬN Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, đi đôi với mở rộng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là một tất yếu khách quan. Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, những biểu hiện thực chất của vấn đề đó sẽ cung cấp những cơ sở khoa học để chúng ta tìm ra cách thức, biện pháp tác động để nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành tố trong hệ thống chính trị cũng như phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các thành tố trong quá trình vận hành hệ thống chính trị nhằm bảo đảm quyền lực thực tế thuộc về nhân dân trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hộithông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, đi đôi với mở rộng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành, của cả hệ thống chính trị, trong đó chủ thể cơ bản và trực tiếp là Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và các tổ chức chính trị xã hội. Quân đội có vị trí, vai trò quan trọng trong đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, mở rộng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để phát huy vai trò của mình quân đội cần phải thường xuyên chăm lo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội trong quân đội vững mạnh. Hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, chỉ huy trong quân đội phù hợp với yêu cầu của tình hình mới nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, phát huy hiệu lực chỉ huy, quản lý của người chỉ huy, vai trò của các tổ chức quần chúng, tăng cường đoàn kết, giữ nghiêm kỷ luật.Ban hành và thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở đơn vị cơ sở, bảo đảm các quyền dân chủ về chính trị, kinh tế, quân sự của cán bộ, chiến sĩ, các quyền lợi, nghĩa vụ của quân nhân, khắc phục những biểu hiện quân phiệt, gia trưởng, chuyên quyền, độc đoán, vô tổ chức, vô kỷ luật, đấu tranh với mọi hiện tượng tham nhũng, lãng phí, xâm phạm đến lợi ích của đơn vị và quân nhân. Nâng cao chất lượng công tác dân vận đông thời chủ động, tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị, tăng cường quan hệ phối hợp, kết hợp với hệ thống chính trị ở địa phương và cơ sở. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO C.Mác - ĂngGhen: Toàn tập, Tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995 V.I.Lênin: Toàn tập, Tập 33, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mát-xcơ-va, Hà Nội 1976 V.I.Lênin: Toàn tập, Tập 27, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mát-xcơ-va, Hà Nội 1980 Hỏi đáp Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2004 Hồ Chí Minh toàn tập: Tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000 Hồ Chí Minh toàn tập: Tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000 Hồ Chí Minh toàn tập: Tập 9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000 Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 1996. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện NQTW3, KhóaVIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 2006. Đảng CSVN, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, HN. 2011.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu_luan_3b_4225.doc
Luận văn liên quan