Hoàn thiện chính sách Tỷ giá ở Việt Nam- Cơ sở xác định, cơ chế và công cụ điều tiết trước yêu cầu của WTO và các đối tác thương mại

Nâng cao sức mạnh cho đồng tiền Việt Nam bằng các giải pháp kích thích nền kinh tế như: hiện đại hoá nền sản xuất trong nước, đẩy mạnh tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, tăng cường thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, xây dựng chính sách thích hợp để phát triển nông nghiệp, khuyến khích xuất khẩu, bài trừ tham nhũng

doc19 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2759 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện chính sách Tỷ giá ở Việt Nam- Cơ sở xác định, cơ chế và công cụ điều tiết trước yêu cầu của WTO và các đối tác thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhóm thực hiện: Nguyễn Hoàng Công Bùi Thị Đào Đinh Trọng Đạt Diệp Thị Dệt Nguyễn Danh Đoàn Nguyễn Huy Đức Hoàng Thị Kim Dung Lý Thị Phương Dung Lớp: CH21D Môn học: Tài chính quốc tế Chuyên đề 4: Hoàn thiện chính sách Tỷ giá ở Việt Nam: Cơ sở xác định, cơ chế và công cụ điều tiết trước yêu cầu của WTO và các đối tác thương mại. MỤC LỤC Cơ sở lý thuyết về tỷ giá hối đoái Khái niệm Theo nghĩa rộng, chính sách tỷ giá là những hoạt động của Chính phủ (mà đại diện thường là NHTW) thông qua một chế độ tỷ giá nhất định (hay cơ chế điều hành tỷ giá) và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. Theo nghĩa hẹp, chính sách tỷ giá là những hoạt động của NHTW thông qua cơ chế điều hành tỷ giá và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm đạt được một mức tỷ giá nhất định, để tỷ giá tác động tích cực đến hoạt động cuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của quốc gia. Mục tiêu của chính sách tỷ giá Ổn định giá cả Với các yếu tố khác không đổi, khi phá giá nội tệ (tức tỷ giá tăng), làm cho giá hàng hoá nhập khẩu (bao gồm hàng tiêu dùng và nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị cho sản suất trong nước) tính bằng nội tệ tăng. Giá hàng hoá nhập khẩu tăng làm cho mặt bằng giá cả chung của nền kinh tế tăng, tức gây lạm phát. Tỷ giá tăng càng mạnh và tỷ trọng hàng hoá nhập khẩu càng lớn thì tỷ lệ lạm phát càng cao. Điều này được thể hiện thông qua công thức: Pt = a.P + (1 - a).E.P* Trong đó: a - là tỷ trọng hàng hoá sản suất trong nước (1 - a) là tỷ trọng hàng hoá nhập khẩu P - là mức giá cả hàng hoá sản xuẩttong nước tính bằng nội tệ P* - là mức giá cả hàng hoá nhập khẩu tính bằng ngoại tệ E – là tỷ giá (số đơn vị nội tệ trên 1 đơn vị ngoại tệ) Pt – là mức giá cả hàng hoá chung của nền kinh tế Ngược lại, khi nâng giá nội tệ (tức tỷ giá giảm), làm cho giá hàng hoá nhập khẩu tính bằng nội tệ giảm, tạo áp lực giảm lạm phát. Qua phân tích thấy được, chính sách tỷ giá có thể được sử dụng như một công cụ hữu hiệu nhằm đạt được mục tiêu ổn định giá cả. Với các yếu tố khác không đổi, muốn kiềm chế lạm phát gia tăng, NHTW có thể sử dụng chính sách nâng giá nội tệ (tức tác động làm cho tỷ giá giảm); muốn kích thích lạm phát gia tăng, NHTW có thể sử dụng chính sách phá giá nội tệ (tức tác động làm cho tỷ giá tăng); muốn duy trì giá cả ổn định NHTW phải sử dụng chính sách tỷ giá ổn định và cân bằng. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm Khi các yếu tố khác không đổi, với chính sách phá giá nội tệ sẽ làm cho. Kích thích tăng trưởng suất khẩu và hạn chế nhập khẩu, trực tiếp làm tăng thu nhập quốc dân và tăng công ăn việc làm. Y = C + I + G + X – M Phá giá nội tệ làm cho suất khẩu X tăng và nhập khẩu M giảm, do đó tác dụng làm tăng trực tiếp thu nhập quốc dân Y.Phá giá nội tệ làm cho những ngành sản suất không sử dụng (hoặc sử dụng ít) đầu vào là hàng nhập khẩu sẽ tăng được lợi thế cạnh tranh về giá so với hàng hoá nhập khẩu, từ đó mở rộng được sản suất, tăng thu nhập và tạo thêm công ăn việc làm mới.Tuy nhiên, để có được một cuộc phá giá thành công, thì trong nèn kinh tế phải có sẵn điều kiện cần thiết như năng lực sản suất và thị trường cho hàng suất khẩu, năng lực sản suất hàng hoá thay thế nhập khẩu, đồng thời để tránh vòng xoáy của “phá giá - lạm phát và lạm phát – phá giá”, thì phải áp dụng một chính sách thắt chặt tiền tệ và một quỹ dự trữ ngoại tệ đủ mạnh để can thiệp trong thời gian đầu. Ngược lại, với các yếu tố khác không đổi, khi nâng giá nội tệ sẽ tác động làm giảm tăng trưởng kinh tế và gia tăng thất nghiệp. Qua phân tích cho thấy, chính sách tỷ giá có thể được sử dụng như một công cụ nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế và tăng công ăn việc làm. Với các yêu tố khác không đổi, muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cần áp dụng chính sách phá giá nội tệ; ngược lại muốn kiềm chế và giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế thì áp dụng chính sách nâng giá nội tệ. Cân bằng cán cân vãng lai Với chính sách tỷ giá định giá thấp nội tệ sẽ có tác dụng thúc đẩy suất khẩu và hạn chế nhập khẩu, giúp cải thiện được cán cân vãng lai từ trạng thái thâm hụt trở về trạng thái cân bằng hay thặng dư. Với chính sách tỷ giá định giá cao nội tệ sẽ có tác dụng kìm hãm suất khẩu và kích thích nhập khẩu, giúp điểu chỉnh cán cân vãng lai từ trạng thái thặng dư trở về trạng thái cân bằng hay thâm hụt. Với chính sách tỷ giá cân bằng sẽ có tác dụng cân bàng suất khẩu và nhập khẩu, giúp cán cân vãng lai tự động cân bằng Vai trò của chính sách tỷ giá đến tăng trưởng kinh tế Đối với cán cân thanh toán Tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ là quan trọng đối với một quốc gia vì trước tiên nó tác động trực tiếp tới giá cả hàng suất nhập khẩu của chính quốc gia đó. Khi TGHĐ tăng (đồng nội tệ xuống giá) sẽ làm tăng giá trong nước của hàng nhập khẩu và giảm giá ngoài nước của hàng suất khẩu của nước đó, cải thiện sức cạnh tranh quốc tế của hàng trong nước. Các nguồn lực sẽ được thu hút vào những ngành sản suất mà giờ đây có thể cạnh tranh hiệu quả hơn so với hàng nhâp khẩu và cũng vào ngành suất khẩu mà giờ đây có thể có hiệu quả hơn trên các thị trường quốc tế. Kết quả là suất khẩu tăng nhập khẩu giảm làm cán cân thanh toán được cải thiện. Đối với lạm phát và lãi suất Khi các yếu tố khác không đổi TGHĐ tăng làm tăng giá các mặt hàng nhập khẩu tính bằng nội tệ. Các hộ gia đình,các nhà sản suất sử dụng đầu vào nhập khẩu phải tiêu dùng hàng nhập khẩu với mức giá tăng cùng tỷ lệ phá giá. Kết quả mức giá chung trong nền kinh tế trở nên cao hơn đặc biệt là nền kinh tế nhỏ, mở cửa với thế giới bên ngoài có suất khẩu và nhập khẩu chiếm tỷ lệ cao so với GDP. Nếu TGHĐ tiếp tục có sự gia tăng liên tục qua các năm có nghĩa là lạm phát đã tăng. Nếu lãi suất tăng ở mức vừa phải có thể kiểm soát sẽ kích thích tăng trưởng nhưng nếu lạm phát tăng quá cao sẽ tác động làm lãi suất tăng làm giảm đầu tư ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế giảm sút. Đối với sản lượng và việc làm Đối với các lĩnh vực sản suất chủ yếu dựa trên nguồn lực trong nước thì khi TGHĐ tăng, sự tăng giá hàng nhập khẩu sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh cho các lĩnh vực này giúp phát triển sản suất từ đó tạo thêm công ăn việc làm giảm thất nghiệp, sản lượng quốc gia có thể tăng lên và ngược lại. Đối với đầu tư quốc tế Đầu tư trực tiếp: TGHĐ tác động tới giá trị phần vốn mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư hoặc góp vốn liên doanh. Vốn ngoại tệ hoặc tư liệu sản suất được đưa vào nước sở tại thường được chuyển đổi ra đồng nội tệ theo tỷ giá chính thức. Bên cạnh đó tỷ giá còn có tác động tới chi phí sản suất và hiệu quả các hoạt động đầu tư nước ngoài. Do đó sự thay đổi TGHĐ có ảnh hưởng nhất định tới hành vi của các nhà đầu tư nước ngoài trong việc quyết định có đầu tư vào nước sở tại hay không. Đầu tư gián tiếp: là loại hình đầu tư thông qua hoạt động tín dụng quốc tế cũng như việc mua bán các loại chứng khoán có giá trên thị trường. Trong một thế giới có sự luân chuyển vốn quốc tế tự do khi TGHĐ tăng tổng lợi tức từ khoản vay bằng ngoại tệ lớn hơn lãi suất trong nước sẽ xảy ra hiện tượng luồng vốn chảy ra nước ngoài và ngược lại TGHĐ giảm luồng vốn sẽ đổ vào trong nước. Như vậy muốn tạo môi trường đầu tư ổn định nhằm phát triển kinh tế đòi hỏi các quốc gia xây dựng và điều chỉnh một chính sách tỷ giá ổn định hợp lý giảm mức độ rủi ro trong lĩnh vực đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đối với đầu tư nước ngoài Các khoản vay nợ nước ngoài thường được tính theo đơn vị tiền tệ nước đó hoặc những đồng tiền mạnh nên khi TGHĐ tăng lên cũng đồng nghĩa với sự tăng lên của gánh nặng nợ nước ngoài. Ngày nay khi sự luân chuyển vốn quốc tế ngày càng tự do thì các nước đặc biệt các nước đang phát triển càng cần phải thận trọng hơn trong chính sách tỷ giá để đảm bảo tăng trưởng và khả năng trả nợ nước ngoài. Các công cụ điều tiết chính của chính sách tỷ giá Nhóm công cụ tác động trực tiếp lên tỷ giá. Thông thường đó là hoạt động của NHTW trên thị trường ngoại hối thông qua việc mua bán đồng nội tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố định (trong chế độ tỷ giá cố định), hay ảnh hưởng làm cho tỷ giá thay đổi đạt tới một mức nhất định theo mục tiêu đã đề ra (trong chế độ tỷ giá thả nổi). Để tiến hành can thiệp buộc NHTW phải có một lượng dự trữ ngoại hối đủ mạnh. Hơn nữa, các hoạt động can thiệp trực tiếp của NHTW tạo ra hiệu ứng thay đổi cung ứng tiền trong lưu thông, có thể tạo ra áp lực lạm phát hay thiểu phát không mong muốn cho nền kinh tế; chính vì vậy, đi kèm theo hoạt động can thiệp trực tiếp, NHTW thường phải sử dụng thêm một nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ lượng dư cung hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ trong lưu thông. Do có hạn chế nhất định, nên các NHTW của các nước phát triển đã dần chuyển từ can thiệp trực tiếp sang can thiệp gián tiếp mà chủ yếu là thông qua công cụ lãi suất tái chiết khấu. Thuộc nhóm công cụ trực tiếp còn có các biện pháp can thiệp hành chính của Chính phủ: Biện pháp kết hối: Là việc Chính phủ quy định đối với các cá nhân và pháp nhân có nguồn thu ngoại tệ phải bán một tỷ lệ nhất định trong một thời hạn nhất định cho các tổ chức được phép kinh doanh ngoại hối. Biện pháp kết hối được áp dụnh trong những thời kỳ khan hiếm ngoại tệ giao dịch trên thị trường ngoại hối. Mục đích chính của biện pháp kết hối là nhằm tăng cung ngoại tệ tức thời để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho thị trường, hạn chế hành vi đầu cơ và giảm áp lực phải phá giá nội tệ. Quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, quy định hạn chế mục đích sử dụng ngoại tệ, quy định hạn chế số lượng mua ngoại tệ, quy định hạn chế thời điểm được mua ngoại tệ. Tất cả các biện pháp này đều nhằm mục đích giảm cầu ngoại tệ, hạn chế đầu cơ và tác động giữ cho tỷ giá ổn định. Nhóm công cụ tác động gián tiếp lên tỷ giá Bao gồm các công cụ như: Lãi suất tái chiết khấu, thuế quan, hạn ngạch, giá cả v.v… Trong số các công cụ gián tiếp thì công cụ lãi suất tái chiết khấu thường được sử dụng nhiều nhất và tỏ ra hiệu quả nhất. Lãi suất tái chiết khấu: Với các yếu tố khác không đổi, khi NHTW tăng mức lãi suất tái chiết khấu, sẽ có tác động làm tăng mặt bằng lãi suất thị trường; lãi suất thị trường tăng hấp dẫn các luồng vốn ngoại tệ chạy vào làm cho nội tệ lên giá. Khi lãi suất tái chiết khấu giảm sẽ có tác dụng ngược lại. Thuế quan: Thuế quan cao sẽ có tác dụng làm hạn chế nhập khẩu; nhập khẩu giảm làm cho cầu ngoại tệ giảm, kết quả làm cho nội tệ lên giá. Khi thuế quan thấp sẽ có tác dụng ngược lại. Hạn ngạch: Hạn ngạch có tác dụng làm hạn chế nhập khẩu, do đó có tác động lên tỷ giá giống như thuế quan cao. Dỡ bỏ hạn ngạch có tác dụng làm tăng nhập khẩu, do đó có tác dụng lên tỷ giá giống như trường hợp thuế quan thấp. Giá cả: Thông qua hệ thống giá cả, Chính phủ có thể trợ giá cho những mặt hàng xuất khẩu chiến lược hay đang trong giai đoạn đầu sản xuất. Trợ giá xuất khẩu làm cho khối lượng xuất khẩu tăng, làm tăng cung ngoại tệ, khiến cho nội tệ lên giá. Chính phủ cũng có thể bù giá cho một số mặt hàng nhập khẩu thiết yếu; bù giá làm tăng nhập khẩu, kết quả là làm cho nội tệ giảm giá. Ngoài các công cụ gián tiếp, trong từng thời kỳ Chính phủ (chủ yếu là các nước đang phát triển) còn có thể áp dụng một số biện pháp cá biệt khác như: Điều chính tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các NHTM: Khi ngoại tệ khan hiếm trên thị trường ngoại hối, NHTW có thể tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với vốn huy động bằng ngoại tệ của các NHTM, làm cho chi phí sử dụng vốn ngoại tệ tăng; để kinh doanh có lãi buộc các NHTM phải hạ lãi suất huy động ngoại tệ, kết quả là việc nắm giữ ngoại tệ trở nên kém hấp dẫn hơn so với nắm giữ nội tệ, khiến cho những người sử dụng ngoại tệ phải bán đi lấy nội tệ, làm tăng cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Quy định mức lãi suất trần kém hấp dẫn đối với tiền gửi bằng ngoại tệ. Quy định trạng thái ngoại tệ đối với các NHTM ngoài mục đích chính là phòng ngừa rủi ro tỷ giá, còn có tác dụng hạn chế đầu cơ ngoại tệ, làm giảm áp lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân đối. Các loại chính sách tỷ giá Chế độ tỷ giá cố định Khái niệm: Tỷ giá cố định là tỷ giá được cố định (giữ không đổi) hoặc chỉ được cho phép dao động trong một phạm vi rất hẹp. Nếu tỷ giá bắt đầu dao động quá nhiều thì các chính phủ có thể can thiệp để duy trì tỷ giá hối đoái trong vòng giới hạn của phạm vi này. Chế độ tỷ giá hối đoái cố định là một chế độ tỷ giá hối đoái được nhà nước công bố sẽ duy trì không thay đổi tỷ giá giữa đồng nội tệ với một đồng ngoại tệ nào đó. Đặc điểm của chế độ tỷ giá cố định: Về cơ bản, những lực cung - cầu vẫn tồn tại trong thị trường ngoại tệ và chi phối số lượng cung - cầu ngoại tệ trên thị trường. Nhà nước cam kết sẽ duy trì tỷ giá hối đoái ở mức độ cố định nào đó bằng cách nếu cung trên thị trường lớn hơn cầu ở mức tỷ gía cố định thì nhà nước đảm bảo mua hết số dư cung ngoại tệ. Nếu cung trên thị trường nhỏ hơn cầu ở mức tỷ gía cố định đó thì nhà nước sẽ đảm bảo cung cấp một lượng ngoại tệ bằng đúng lượng dư cầu. Nhà nước sẽ thực hiện hoạt động mua bán lượng dư cung hay cầu đó với tư cách là người mua bán cuối cùng, người điều phối. Những dự báo thay đổi tỷ giá trên thị trường gần bằng không trừ trường hợp nhà nước thay đổi mức tỷ giá cố định. Chế đô tỷ giá cố định được một số nước áp dụng như Trung Quốc từ những năm 80 của thập niên 20. Đáng chú ý là Thái Lan với cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ tháng 7/1999 do áp dụng chế độ tỷ giá cố định quá lâu. Nước ta trước năm 1991 đã áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái này. Nói chung chế độ tỷ giá này chỉ phù hợp với một thời gian nào đó mà thôi. Hiện nay chế độ tỷ giá hối đoái này coi như không được áp dụng trên thế giới. Điều kiện: Phải có sự can thiệp của chính phủ Ưu điểm: Đảm bảo sự ổn định về tỷ giá trong một thời gian dài. Nhược điểm: Không phản ánh đúng tỷ giá thị trường do vậy phát sinh tình trạng tỷ giá ngầm. Đây chỉ là tỷ giá mang tính hình thức. Chế độ tỷ giá thả nổi tự do Khái niệm: TGHĐ được xác định hoàn toàn dựa trên tương quan (mối quan hệ) cung cầu giữa các đồng tiền trên thị trường ngoại hối mà không cần đến bất kỳ sự can thiệp nào của NHTW. Chế độ tỷ giá thả nổi là chế độ mà trong đó tỷ giá hối đoái được xác định và vận động một cách tự do theo quy luật thị trường mà trực tiếp là quy luật cung - cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ. Đặc điểm của chế độ tỷ giá thả nổi Tỷ giá hối đoái được xác định và thay đổi hoàn toàn tùy thuộc vào tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Nhà nước hoàn toàn không có bất cứ một tuyên bố, một cam kết nào về điều hành và chỉ đạo tỷ giá. Nhà nước không có bất kỳ sự can thiệp trực tiếp nào vào thị trường ngoại tệ. Ưu điểm Chế độ tỷ giá hối đoái này đảm bảo cán cân thanh toán, đảm bảo chính sách tiền tệ, làm cho nền kinh tế trở nên độc lập, góp phần ổn định kinh tế, đầu tư tư nhân, ổn định thị trường. Chính sách này được nhiều nước tư bản có đồng tiền mạnh áp dụng như Mỹ, Anh… Nhược điểm Đặt ra những rủi ro khó lường trước cho việc quản lý nguồn vốn và hoạt động xuất nhập khẩu. Khi xảy ra những biến động về cung cầu của các đồng tiền thì các đồng tiền sẽ có xu hướng tăng hoặc giảm giá một cách tự động. Điều kiện áp dụng Đối với những nước đã có thị trường ngoại hối tương đối hoàn chỉnh. Chế độ tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của nhà nước Về cơ bản tỷ giá do thị trường quyết định nhưng có sự can thiệp của nhà nước vào những lúc cần thiết nhằm tránh những cơn sốc về tỷ giá, hạn chế sự biến động. Tỷ giá được xác định và thay đổi hoàn toàn phụ thuộc tình hình quan hệ cung cầu trên thị trường. Ngân hàng nhà nước tuyên bố một mức biến động cho phép đối với tỷ giá và chỉ can thiệp vào thị trường với tư cách là người mua bán cuối cùng khi tỷ giá có sự biến động mạnh vượt mức cho phép. Nếu tình hình kinh tế có những thay đổi lớn thì mức tỷ giá hối đoái, biên độ dao động cho phép được nhà nước xác định và công bố lại. Do những ưu điểm của chế độ này nên chế độ này được nhiều nước áp dụng đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam Thực trạng Chế độ tỷ giá của VN hiện nay Sau khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997, Việt Nam đã lựa chọn cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết. Sự thả nổi của chính sách tỷ giá được thể hiện ở đây chính là: Chúng ta đã từ bỏ cơ chế tỷ giá neo mềm, theo đó, tỷ giá thị trường được giao dịch quanh tỷ giá chính thức do Ngân hàng nhà nước (NHNN) công bố tỷ giá bình quân liên ngân hàng và một biên độ được ấn định sẵn. Việc thay thế tỷ giá chính thức bằng tỷ giá bình quân liên ngân hàng cho thấy, lần đầu tiên tỷ giá do NHNN công bố phản ánh mức tỷ giá do thị trường quyết định. Sự điều tiết của NHNN được thể hiện qua việc NHNN: Tham gia vào thị trường liên ngân hàng bằng hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường này để tác động tới cung cầu ngoại tệ, từ đó tác động tới tỷ giá, hướng tỷ giá về mức tỷ giá mục tiêu ( Đó là mức tỷ giá mà tại đó NHNN mong muốn đạt được các mục tiêu: Góp phần đảm bảo cân bằng cán cân thương mại, ổn định kinh tế vĩ mô, giảm lạm pháp, bảo hộ được cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước, đồng thời hạn có thể hạn chế nhập khẩu ở một mức độ nhất định…tùy vào từng bối cảnh kinh tế cụ thể.) Tuy nhiên, thực tế chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết nhưng vẫn còn mang nặng tính điều tiết cao bởi: Tỷ giá bình quân liên ngân hàng không phải là tỷ giá có sẵn mà phải được NHNN tính toán theo các cơ chế nhất định Biên độ giao động rất nhỏ so với tỷ giá của ngày làm việc trước nên trong 1 ngày làm việc, nếu thị trường có sự biến động lớn trong ngày thì tỷ giá vẫn giữ nguyên theo đã công bố vào đầu ngày, do vậy không linh hoạt theo thị trường Khối lượng giao dịch trên thị trường liên ngân hàng còn rất nhỏ so với toàn bộ thị trường, vì vậy tỷ giá đưa ra có thể không phản ánh theo cân bằng trên thị trường Cơ sở xác định tỷ giá của VN Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng của mỗi quốc gia. Diễn biến của TGHĐ giữa USD/VND trong thời gian qua cho thấy, tỷ giá luôn là vấn đề thời sự, rất nhạy cảm. TGHĐ không chỉ tác động đến xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, nợ quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của dân chúng. Để trả lời câu hỏi tỷ giá USD/VND tiếp tục xu hướng tăng hay sẽ giảm trong những tháng tới, điều này còn phụ thuộc vào yếu tố ảnh hưởng đến cung- cầu ngoại tệ trong nước cũng như xu hướng vận động của đồng USD trên thế giới. Do đó có thể cho rằng việc điều hành tỷ giá luôn là bài toán không dễ cho Chính phủ: Hai yếu tố có thể gây áp lực giảm giá VND: Nhập siêu tăng dần: dựa trên báo cáo của Tổng cục Thống kê, 7 tháng đầu năm Việt Nam vẫn xuất siêu 88 triệu USD. Tuy nhiên nhập siêu bắt đầu trở lại từ tháng 8 và tính chung 10 tháng đầu năm 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 93,45 tỷ USD, tăng 18,4% so với cùng kỳ năm trước; tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt trên 93,8 tỷ USD, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước. Nhập siêu 10 tháng đầu năm khoảng 357 triệu USD, bằng 0,4% tổng kim ngạch xuất khẩu. Những tháng cuối năm khi nhập siêu tăng tốc rất có thể sẽ gây ra thiếu hụt về ngoại tệ, khiến cho vấn đề tỷ giá lại càng đáng quan tâm, ít nhất là tại một vài thời điểm. Mục tiêu kích thích xuất khẩu: phá giá đồng nội tệ luôn được coi là một công cụ hữu ích mỗi khi các nước muốn kích thích xuất khẩu. Việc giảm giá VND với một biên độ hợp lý sẽ giúp cho hàng xuất khẩu của Việt Nam có sức cạnh tranh hơn, qua đó trực tiếp đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu, hỗ trợ tích cực cho mục tiêu tăng trưởng trong bối cảnh gói kích cầu hỗ trợ lãi suất trong nước sắp kết thúc. Ba lý do không ủng hộ cho việc nâng tỷ giá: Nợ nước ngoài lớn: Tính đến hết năm 2012 tổng nợ nước ngoài của Việt Nam ước khoảng… tỷ USD. Việc nâng tỷ giá lên với biên độ lớn sẽ khuếch đại số nợ này, làm tăng nghĩa vụ nợ, gây mất an toàn cho quốc gia. Tất nhiên số nợ này sẽ không bị ảnh hưởng nếu Việt Nam có nguồn trả nợ bằng ngoại tệ. Tuy nhiên, với việc xuất khẩu vẫn gặp nhiều khó khăn và kho dự trữ ngoại hối còn hạn hẹp thì Việt Nam vẫn cần phải cân nhắc kỹ mỗi khi muốn nâng tỷ giá. Áp lực lạm phát: Tỷ giá tăng ngay lập tức sẽ ảnh hưởng đến giá các mặt hàng nhập khẩu, trực tiếp gây áp lực lên lạm phát trong nước. Phần lớn các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam là nguyên vật liệu, máy móc thiết bị mà các sản phẩm trong nước chưa thay thế được, do đó tỷ giá tăng không có tác dụng kiềm chế nhập khẩu mà trái lại còn là chất xúc tác gây ra lạm phát. Xu hướng giảm giá của đồng USD trên thị trường thế giới: với các gói kích thích kinh tế lớn cùng với mong muốn duy trì đồng USD yếu nhằm hỗ trợ xuất khẩu của Chính quyền Mỹ, đồng USD được dự báo sẽ còn tiếp tục giảm gái trong trung và dài hạn. Với những lý do nêu trên, việc điều hành tỷ giá đặt ra cho Việt Nam những thách thức và lựa chọn không dễ. Ưu tiên và hy sinh cho mục đích nào sẽ còn phụ thuộc rất lớn vào những biến động kinh tế, đặc biệt là trong những tháng giáp tết. Một kịch bản mà trong đó các lợi ích và mục tiêu được hài hòa và cân bằng sẽ được NHNN lựa chọn. Cơ chế điều chỉnh tỷ giá của VN hiện nay Cơ chế điều chỉnh tỷ giá của VN cũng như của các nước đang phát triển hiện nay đều được thực hiện thông qua các công cụ điều tiết ( gồm công cụ trực tiếp hoặc gián tiếp của chính sách tỷ giá), thông qua việc sử dụng các công cụ này NHNN tác động trực tiếp hoăc gián tiếp tới cung, cầu ngoại tệ, từ đó làm thay đổi tỷ giá về mức mong muốn ( hay mức tỷ giá mục tiêu) của NHNN. Từ khi thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết đến nay, việc điều tiết tỷ giá của VN chủ yếu thông qua các công cụ trực tiếp và thường mang tính hành chính cao.Trước mỗi biến động kinh tế làm tác động tới tỷ giá, NHNN đã đưa ra nhiều quyết định thay đổi biên độ giao động tỷ giá để đảm bảo mức tỷ giá giao dịch trên thị trường liên ngân hàng có thể gần sát hơn với tỷ giá trên thị trường tự do. Cụ thể như sau: Trước cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 1997 hàng loạt các quốc gia phá giá đồng tiền, NHNN đã liên tục nới lỏng các biên độ giao động tỷ giá áp dụng đối với ngân hàng hàng thương mại từ ±5% đến ±10% trong giai đoạn 1997-1999. Đặc biệt từ ngày 26/2/1999, NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng công với 1 biên độ nhất định. Tiếp đó, ngày 1/7/2002 NHNN đã nới rộng biên độ giao động tỷ giá dần từ mức ±1% lên mức ±25%. Trên cơ sở đó NHTM kinh doanh ngoại tệ sẽ tự động cồn bố và điều chỉnh tỷ giá mua và bán phù hợp với yêu cầu kinh doanh của mình. Với cơ chế này từ 3/1999 đến nay tỷ giá hối đoái đã thường xuyên được điều chỉnh linh hoạt, bán sát cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Đến năm 2007, NHNN tuyên bố các NHTM được phép được phép xác định tỷ giá mua bán đối với USD không được vượt quá 0.75% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó. Năm 2008, đây là một năm khó khắn với nền kinh tế toàn cầu. kinh tế thế giới bị sụp giảm mạnh do tác động của khủng hoảng cho vay dưới chuẩn bất động sản tại Mỹ. Cuộc khủng hoàng này cũng ảnh hưởng một phần không nhỏ tới nền kinh tế Việt Nam. Chính vì thế để giải quyết những tác động tiêu cực tới tỷ giá nên đây là 1 năm đặc biệt của cơ chế điều hàng tỷ giá cũng như những biến động trên thực tế. Năm 2008 là năm biên độ tỷ giá liên tiếp 3 lần được nới rộng, 2 lần được tăng mạnh trực tiếp ở tỷ giá bình quân liên ngân hàng. So với cuối năm 2007 tỷ giá USD/VND mua vào bán ra của các NHTM đã tăng khoảng 9%. Đây là mức tăng đột biến so với các năm trước. Trong năm 2008 tỷ giá cũng có những biến động trái chiều. Trong giai đoạn đầu năm, thị trường còn tồn đọng khá nhiều ngoại tệ, tỷ giá xuống thấ, nhiều doanh nghiệp, ngân hàng xuất khẩu phải thông qua các hiệp hội yêu cầu ngân hàng đẩy mạnh mua USD đề tăng tỷ giá tháo mức khó khăn. Nhưng khoảng giữa năm, cơn sốt khan hiếm ngoại tệ lại diễn ra căng thẳng trên cả thị trường chính thức lẫn thị trường tự do. Với sự can thiệp của NHNN, cũng như năng lực dự trữ ngoại hối lần đầu tiên được công khai một cách chính thức tỷ giá dần ổn định về cuối năm. Năm 2009: NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá liên ngân hàng và biên độ từ ±3% lên ±5% vào thàng 4/2009. Càng về cuối năm tỷ giá càng biến động và mất gi, thị trường ngoại hối luôn có những biểu hiện căng thẳng, trong đó USD tín dụng thì thừa còn USD thương mại thì thiếu. Những biến động trên thị trường ngoại hối đã gây ra những khó khăn cho cho hoạt động xuất nhập khẩu. Mặt khác, sự mất giá của động nội tệ còn làm lạm phát tăng. Trong bối cảnh làm phát có xu hướng gia tăng và tính khồng ổn định trên thị trường tiền tệ, đòi hỏi cần có sự lựa chọn linh hoạt của cơ chế điều hành tỷ giá. Chính vì thế, đến ngày 30/12/2009, NHNN tiếp tục ban hành thông tư quy định về việc kết hối chi tiết 7 tập đoàn, 7 công ty nhà nước và các doanh nghiệp thành viên có 50% vốn nhà nước có nghĩa vụ bán ngoại tệ cho NHTM và được phép mua lại ngoại tệ trong phạm vi bán với mục đích giúp giải nhiệt thị trường ngoại tệ. Chính vì khó nới biên độ tỷ giá cao hơn nữa, nên NHNN đã gỡ bài toán khó thống qua công cụ gián tiếp bằng phương án kết hối ngoại tệ. Trong giai đoạn này, NHNN cũng đã có nhiều biện pháp nghiệp vụ, thanh tra tại chỗ các hoạt động mua bán ngoại tệ của các NHTM, xử lý nghiêm khắc các hành vi cố tình mua bán ngoại tệ vượt mức mức trần quy định. Năm 2010, tỷ giá VND/USD được điều chính thức điều chỉnh 2 lần. Lần đầu vào ngày 11/02/2010 tỷ giá bình quân liên ngân hàng được NHNN tăng thêm 3,3%. Lần thứ 2 tăng thêm 2,1% vào ngày 18/08/2010 cả 2 lần điều chỉnh đều giữa nguyên biên độ giao động tỷ giá ±3%. Như vậy tỷ giá bình quân liên ngân hàng được điều chỉnh tăng tổng cộng là 5,4%.Trước đó, ngày 18/1 NNN có quyết định số 74/QĐ-NHNN giảm mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng. Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngoại tệ từ 7% xuống 4% đối với kỳ hạn 12 tháng. Điều này làm cho cung ngoại tệ tăng cao. Động thái điều chỉnh tỷ giá của ngân hàng trong đợt này nhằm mục đích ngắn hạn trước mắt đó là khơi thông nguồn cung ngoại tệ cho Ngân hàng, từ đó góp phần làm giảm căng thẳng trên thị trường ngoại hối, tránh áp lực cho khối lượng dự trữ ngoại hối đang khá mỏng. Năm 2011 được xem là thành công của chính sách tỷ giá. Vào những ngày đầu năm 2011, do chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới tiếp tục tăng cao đã đẩy thị trường tự do tăng lên mức 21.000. Trước sức ép phá giá đồng VND, nhưng NHNN vẫn duy trì mức tỷ giá bình quân liên ngân hàng tại mức 18.932, trong khi các ngân hàng thương mại niêm yết ở mức giá trần 19.500. Diễn biến này khiến cho chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chính thức và thị trường tự do cao. Để giải quyết vấn đề này, NHNN đã điều hành tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên 9,3% tương đương với việc phá giá đồng VN tới 8.5% và thu hẹp biên độ giao động tỷ giá xuống còn ±1%. Điều chỉnh tỷ giá lần này giúp cho Việt Nam xích gần hơn giá trị thực và có thể phần nào loại trừ được tình trạng tồn tại 2 tỷ giá với mức chênh lệch quá lớn trong thời gian dài, từ đó khơi nguồn cung ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại. Sau ngày 11/2 NHNN thực hiện linh hoạt trong việc niêm yết tỷ giá chứ không cố định tỷ giá trong thời gian dài như trước đây thông qua việc tăng giảm tỷ giá theo ngày. Trước tác động tiêu cực của thị trường tự do tác động đến tâm lý và hiện tượng đầu cơ làm giá của các đại lý thu đổi ngoại tệ, NHNN đã thực hiện chính sách thu đổi ngoại tệ với sự phối hợp của cơ quan công an và quản lý thị trường. Thông tin này đã khiến cho thị trường ngoại hối tự do tạm ngừng giao dịch vào ngày 7/03/2111. Mặc dù thị trường tự do có vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho cá nhân và các doanh nghiệp song đây cũng là nhân tố gây lên sự bất ổn của thị trường ngoại tệ. Bên cạnh việc điều chỉnh tỷ giá theo tín hiệu thị trường, NHNN cũng đã áp dụng các công cụ gián tiếp như áp trần lãi suất huy động đối với USD của các NHTM từ 6% về còn 2%, thực hiện kết hối và mở rộng đối tương kết hối, xử lý hàng loạt các giao dịch ngoại hối bất hợp pháp trên thị trường tự do. Tất cả những biện pháp hành chính mạnh tay cộng với chênh lệch lãi suất VND và USD cao đã giúp nguồn USD từ thị trường chuyển sang VND một cách hiệu quả giúp bình ổn thị trường ngoại hối. Năm 2012, được coi là một năm có tỷ giá khá ổn định. Mức tỷ giá duy trì ở mức 20.828 VND/USD. Với các chính sách rõ ràng và minh bạch của NHNN ttrong công tác điều hành chính sách tỷ giá nửa đầu năm 2012, cùng với diễn biến khả quan của cung ngoại tệ trong nền kinh tế (Việt Nam có suất siêu trở lại sau nhiều năm, cán cân vãng lai thặng dư sau khi đã thâm hụt trong năm 2010 và năm 2011, góp phần quan trọng tạo nên thặng dư của cán cân tổng thể nửa đầu năm 2012) đã giúp diễn biến tỷ giá USD/VND trong 6 tháng đầu nam duy trì xu thế ổn định. Để thực hiện mục tiêu tăng dự trữ ngoại hối, tăng cường khả năng can thiệp thị trường ngoại hối của NHNN khi cần thiết tỷ giá mua vào cảu Sở giao dịch NHNN bắt đầu từ ngày 13/02/2012 được điều chỉnh cao hơn tỷ giá của NHTM. Nhờ có chính sách này mà ước lượng mức dự trữ ngoại hối trong quý I/2012 đã tăng thêm 30% so với cuối năm 20111. Từ thực tế điều hành chính sách tỷ giá của NHNN VN trong thời gian qua, có thể thấy một số những đặc điểm chính của chính sách tỷ giá VN hiện nay: Về mặt tích cực: Ổn định tỷ giá góp phần hạn chế tác động tăng của của chỉ số giá. Giá cả ngoại tệ từng bước được gắn với Cung - Cầu Từng bước nâng cáo vị thế của VND Có nhiều chuyển biến tích cực về mặt chính sách theo hướng tỷ giá ngày càng linh hoạt Mặt tồn tại: Cung – Cầu ngoại tệ bị biến dạng ko phản ánh đúng thực tế khách quan của thị trường. ( Do sự phân biệt DN NN XK và DN tư nhân XK) TT NT liên ngân hàng hoạt động kém hiệu quả Thị trường chợ đen vân tồn tại. Hiện tượng Đô la hóa vẫn phổ biến Nguyên nhân: Việc định giá VND cao so với USD trong một thời gian dài làm giảm năng lực cạnh tranh của hang hóa XK, khuyển khích NK, giảm dự trữ ngoại hối. Chưa xây dựng được mục tiêu điều hành CSTG dài hạn và trong từng thời kỳ trong khi luôn phải đánh đổi với các mục tiêu vĩ mô như lạm phát tăng trưởng, khuyển khích XK, các quyết định điều chỉnh TG mang tính đối phó với biến động của thị trường. Quản lý ngoại hối còn nhiều bất cập, chế tài xử phạt không nghiêm Sự phát triển của thị trường tiền tệ và ngoại tệ chưa đáp ứng kịp nhu cầu của nền kinh tế Mục tiêu và giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá tại Việt Nam Mục tiêu hoàn thiện chính sách tỷ giá ở Việt Nam Các mục tiêu trực tiếp (mục tiêu chính) Tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước Chính sách TGHĐ phải đóng vai trò tích cực trong việc bảo hộ một cách hợp lý các doanh nghiệp trong nước. Kết hợp hài hòa lợi ích giữa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu theo hướng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh, nhưng mặt khác cũng cần gia tăng nhập khẩu các sản phẩm không có lợi thế so sánh để thỏa mãn tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng về sản xuất và tiêu dùng nội địa. Các mục tiêu trung gian Đảm bảo cân bằng cung cầu ngoại tệ trong và ngoài nước Ổn định tỷ giá trong mối tương quan cung cầu trên thị trường xuất khẩu, kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu , cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ. Từng bước nâng cao uy tín VND, tạo điều kiện cho VND có thể trở thành đồng tiền chuyển đổi. Phối hợp với chính sách ngoại hối để chống hiện tượng đô la hoá, làm mất đi tâm lý sùng bái ngoại tệ. Các chính sách tiền tệ phải kết hợp hài hoà giữa tỷ giá và ổn định nền kinh tế vĩ mô. Sự điều tiết của Ngân hàng trung ương ngày càng ít để cho tỷ giá ngày càng linh hoạt từ đó dần xoá đi thi trường ngoại tệ tự do. Các biện pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá của Việt Nam Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam: Quản lý tốt dự trữ ngoại hối, tăng tích lũy ngoại tệ: Xây dựng chính sách phát triển xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu để giảm cầu về ngoại tệ. Tiết kiệm chi ngoại tệ, chỉ nhập những hàng hóa cần thiết cho nhu cầu sản xuất và những mặt hàng thiết yếu trong nước chưa sản xuất được. Ngoại tệ dự trữ khi đưa vào can thiệp trên thị trường phải có hiệu quả. Lựa chọn  phương án phù hợp cho việc dự trữ cơ cấu ngoại tệ. Trong thời gian trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại tệ của mình nhưng cũng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng tránh rủi ro khi USD bị mất giá. Nới lỏng tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối. Hiện nay, biên độ giao động tỷ giá được nới rộng dần từ mức 0,25% từ 2002 lên 0,5% vào cuối 2006, 1% vào tháng 3/2008, và 5% vào tháng 3/2009. Hoạt động này bao gồm việc giảm dần, tiến đến loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước trong việc xác định tỷ giá, xóa bỏ các qui định mang tính hành chính trong kiểm soát ngoại hối, thiết lập tính chuyển đổi cho đồng tiền Việt Nam, sử dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ quản lý tỷ giá, nâng cao tính chủ động trong kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại … Trên thực tế, Chính phủ Việt Nam đang sử dụng 2 nhóm chính sách trực tiếp và nhóm chính sách gián tiếp. Thực hiện hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối tại Việt Nam, chúng tôi nghĩ rằng chính phủ nên hạn chế nhóm chính sách trực tiếp và tăng cường sử dụng nhóm chính sách gián tiếp. Đây cũng là biện pháp để thị trường hoạt động theo hướng tự điều tiết của thị trường Hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam: Tạo điều kiện cho việc thực hiện chính sách ngoại hối có hiệu quả bằng cách mở rộng thị trường ngoại hối để các doanh nghiệp, các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia thị trường ngày một nhiều, tạo thị trường hoàn hảo hơn, nhất là thị trường kỳ hạn và thị trường hoán chuyển để các đối tượng kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ tự bảo vệ mình. Đồng thời, việc hoàn thiện thị trường ngoại hối sẽ tăng tính chủ động cho các NHTM mua bán ngoại hối, dần xóa bỏ thị trường chợ đen. Hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Đây là điều kiện cần thiết để qua đó nhà nước có thể nắm được mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, đồng thời qua đó thực hiện biện pháp can thiệp của nhà nước khi cần thiết. Trước mắt cần có những biện pháp thúc đẩy các ngân hàng có kinh doanh ngoại tệ tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, song song đó phải củng cố và phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó, tạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều hòa giữa hai khu vực thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ một cách thông thoáng. Hiện tại, khối lượng giao dịch trên thị trường liên ngân hàng quá nhỏ, ước khoảng 300 triệu USD/tháng, chiếm khoảng 22% tổng doanh số hoạt động trên thị trường ngoại hối. Với tỷ trọng thấp như vậy, thị trường VN khác xa so với thị trường quốc tế, nơi mà thị trường liên ngân hàng chiếm tỷ trọng 85%. Do vậy, cần phải hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó... Hoàn thiện cơ chế điều chỉnh tỷ giá hối đoái Việt Nam Hiện tại, Ngân hàng nhà nước đang sử dụng tỷ giá hối đoái bình quân trên thị trương liên ngân hàng và quy định biên độ giao động xung quanh mức tỷ giá đó. Tuy nhiên, thực tế vì sử dụng tỷ giá bình quân, điều này có nghĩa là NHNN phải tính toán ra, trong khi đó NHNN lại là đơn vị độc quyền điều hành, độc quyền tính toán, độc quyền thông báo tỷ giá bình quân liên ngân hàng nên trong những chừng mực nhất định, tỷ giá này vẫn nằm trong ý chí chủ quan trong điều hành tỷ giá của NHNN. Bên cạnh đó, NHNN sử dụng nhóm công cụ trực tiếp và gián tiếp tác động lên tỷ giá, do đó chính sách tỷ giá mang tính điều tiết rất lớn, chưa thể hiện được cơ chế thả nổi. Để đảm bảo cho tỷ giá phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường nên từng bước loại bỏ dần việc qui định khung tỷ giá với biên độ quá chặt của Ngân hàng nhà nước đối với các giao dịch của các NHTM và các giao dịch quốc tế.  Nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam   Nâng cao sức mạnh cho đồng tiền Việt Nam bằng các giải pháp kích thích nền kinh tế như: hiện đại hoá nền sản xuất trong nước, đẩy mạnh tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, tăng cường thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, xây dựng chính sách thích hợp để phát triển nông nghiệp, khuyến khích xuất khẩu, bài trừ tham nhũng … Tạo khả năng chuyển đổi từng phần cho đồng tiền Việt Nam: đồng tiền chuyển đổi được  sẽ tác động tích cực đến hoạt động thu hút vốn đầu tư , hạn chế tình trạng lưu thông nhiều đồng tiền trong một quốc gia. Hiện tượng đô la hóa nền kinh tế được hạn chế. Việc huy động các nguồn lực trong nền kinh tế trở nên thuận lợi hơn, hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia đó năng động hơn. Đồng tiền tự do chuyển đổi làm giảm sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ vào chính sách quản lý ngoại hối và cơ chế điều hành tỷ giá, giúp cho tốc độ chu chuyển vốn được đẩy mạnh, góp phần đẩy nhanh tiến độ hội nhập kinh tế thế giới. Tuy nhiên, muốn tạo khả năng chuyển đổi cho VND phải có đủ lượng ngoại tệ dự trữ và nền kinh tế vững mạnh. Khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam phải được nhanh chóng cải thiện. Sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất tác động đến tỷ giá Sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất để tác động đến tỷ giá, chính phủ phải tiến hành từng bước tự do hóa lãi suất, làm cho lãi suất thực sự là một loại giá cả được quyết định bởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của chính đồng tiền đó trong thị trường chứ không phải bởi những quyết định can thiệp hành chính của Chính phủ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoàn thiện chính sách Tỷ giá ở Việt Nam- Cơ sở xác định, cơ chế và công cụ điều tiết trước yêu cầu của WTO và các đối tác thương mại.doc
Luận văn liên quan