Luận văn Nợ công của Mỹ và ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế Việt Nam

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 được châm ngòi từ tín dụng bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ, hoành hành thế giới suốt 3 năm qua tưởng đã tạm yên thì bước sang năm 2011, lại được châm thêm mồi lửa từ khủng hoảng nợ công. Nợ công đang bộc lộ những ảnh hưởng mang tầm vóc sâu rộng và nguy hiểm đối với nền tài chính toàn cầu, đến nỗi, giới phân tích cho rằng, thế giới sắp phải đón một "siêu bão tài chính mới”. Việt Nam là một nước đang phát triển, đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự tác động từ cuộc nợ công của Mỹ tuy không có tác động lớn nhưng nó đã để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm, những chính sách mang tính vĩ mô của chính phủ chắc chắn sẽ đưa lại những kết quả tốt, tránh cho Việt Nam lâm vào tình trạng nợ công như ở Mỹ.

doc35 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2485 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nợ công của Mỹ và ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hương mại thông thường. 4. Theo trách nhiệm đối với chủ nợ thì nợ công được phân loại thành nợ công phải trả và nợ công bảo lãnh. Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa phương có nghĩa vụ trả nợ. Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh cho người vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ. 5. Theo cấp quản lý nợ thì nợ công được phân loại thành nợ công của trung ương và nợ công của chính quyền địa phương. Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính phủ, nợ do Chính phủ bảo lãnh. Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính quyền địa phương là bên vay nợ và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 thì những khoản vay nợ của chính quyền địa phương được coi là nguồn thu ngân sách và được đưa vào cân đối, nên về bản chất nợ công của địa phương được Chính phủ đảm bảo chi trả thông qua khả năng bổ sung từ ngân sách trung ương. Những tác động của nợ công Như trên đã phân tích, ta có thể rút ra được nợ công vừa có nhiều tác động tích cực nhưng cũng có một số tác động tiêu cực. Nhận biết những tác động tích cực và tiêu cực nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực là điều hết sức cần thiết trong xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý nợ công. Những tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm: - Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước. Việt Nam đang trong giai đoạn tăng tốc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó cơ sở hạ tầng là yếu tố có tính chất quyết định. Muốn phát triển cơ sở hạ tầng nhanh chóng và đồng bộ, vốn là yếu tố quan trọng nhất. Với chính sách huy động nợ công hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế. - Huy động nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân cư. Một bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc Nhà nước vay nợ mà những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem lại hiệu quả kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu vực tư. - Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế. Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế – ngoại giao quan trọng của các nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng như muốn hợp tác kinh tế song phương. Nếu Việt Nam biết tận dụng tốt những cơ hội này, thì sẽ có thêm nhiều nguồn vốn ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, trên cơ sở tôn trọng lợi ích nước bạn, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền và chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, nợ công cũng gây ra những tác động tiêu cực nhất định. Nợ công sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các khoản tài trợ ngoài nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo, nợ công sẽ tỏ ra kém hiệu quả và tình trạng tham nhũng, lãng phí sẽ tràn lan nếu thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ việc sử dụng và quản lý nợ công. Chương II THỰC TRẠNG NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN VIỆT NAM Tổng quan tình hình nợ công thế giới Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009, nợ công ở các nền kinh tế phát triển đã tăng lên đáng kể. Nguyên nhân đến từ việc đẩy mạnh các gói kích cầu, quốc hữu hóa những khoản nợ tư nhân, kế hoạch giảm thuế… trong nỗ lực kéo nền kinh tế thoát khỏi suy thoái.  Tuy nhiên, nợ công không chỉ là câu chuyện của nước Mỹ, là vấn đề của nhiều nước với những nguy cơ và thách thức to lớn và có thể gọi là khủng khoảng cũng không sai. Theo thống kê của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Nhật Bản là nước có tỷ lệ tổng nợ công quốc gia (Gross general government debt) trên GDP lớn nhất với mức 220% GDP, tiếp theo là Hy Lạp với 142% GDP. Mỹ đứng ở vị trí thứ 8 về gánh nặng nợ công tính theo cách này. Tuy nhiên, nếu tính thêm vào tài sản tài chính mà quốc gia đó nắm giữ, thì Hy Lạp mới là nước có tỷ lệ nợ ròng quốc gia (Net general government debt) trên GDP lớn nhất với 142% GDP, sau đó mới đến Nhật Bản với 117% GDP. Với cách tính này, Mỹ đứng thứ 11 trong danh sách các quốc gia có gánh nặng nợ công lớn. Điểm đáng chú ý là mặc dù Nhật Bản và Ý có tỷ lệ nợ công trên GDP lớn, nhưng phần lớn khoản nợ đó do các nhà đầu tư trong nước nắm giữ. Kinh tế Mỹ  Kinh tế Mỹ vẫn ảnh hưởng to lớn và mạnh mẽ đối với kinh tế thế giới như vốn có và mọi thay đổi hay diến biến của kinh tế Mỹ đều được dư luận theo dõi sát sao. Việc xử lý nợ công của Mỹ trong tuần cũng không nằm ngoài nhận định đó.  Cuối cùng Quốc hội Mỹ đã thông qua dự luật và Tổng thống Barack Obama đã ký ban hành thành luật nâng trần nợ công với nội dung chủ yếu là nâng trần nợ thêm 2.100 tỷ USD cho tới năm 2013 và cắt giảm thâm hụt ngân sách 2.500 tỷ USD trong vòng 10 năm tới. Điều này đã chấm dứt “cuộc chiến” nợ công dai dẳng, phức tạp của các nhánh quyền lực Mỹ trong năm 2011.  Tuy nhiên kinh tế Mỹ không vì thế mà “sáng sủa” hơn. Tăng trưởng GDP quí 2 chỉ đạt 1,3%, là mức thấp nhất kể từ sau khủng khoảng năm 2008-2009 đến nay, thêm vào đó là nợ công đã vượt GDP năm 2010 với con số 14.580,7 tỷ USD/14.526,5 tỷ USD vào ngày 3/8, tiếp đó ngày 4/8 chỉ Dow Jones bốc hơi 500 điểm và được gọi là “Ngày Thứ Năm đen tối”. Trong bối cảnh đó, có quan điểm cho rằng nước Mỹ có thể rơi vào cuộc suy thoái mới. “Việc thắt chặt ngân sách trong tình hình hiện nay có nguy cơ đưa kinh tế Mỹ tới một cuộc suy thoái khác”, đó là quan điểm của nhà kinh tế Sherry Cooper thuộc BMO Capital Markets. Tuy chưa xác nhận kinh tế Mỹ sẽ rơi vào suy thoái nhưng “Mỹ đang cố gắng ổn định tình hình tài chính trong nước và hậu quả sẽ khiến nền kinh tế Mỹ chậm tăng trưởng trong một vài năm”, theo phân tích của chuyên gia kinh tế Paul Dales làm việc cho Capital Economics. Dù các nhận định trên có đúng hay gần đúng thì kinh tế Mỹ hiện nay vẫn “u ám”, vẫn “tồi tệ” nhưng không “bất thường” và phản ánh những mâu thuẫn sâu sắc trong chính nội tại kinh tế Mỹ, đó là điều chắc chắn. Trung Quốc Trong bối cảnh toàn cầu hóa và quốc tế hóa, các nền kinh tế, đặc biệt là các nền kinh tế lớn có mối liên hệ, có sự đan xen và phụ thuộc lẫn nhau rất lớn. Sự phụ thuộc lẫn nhau có thể trong lĩnh vực XNK, có thể trong lĩnh vực thị trường lao động, thị trường nguyên liệu và có thể trong cả lĩnh vực đầu tư tài chính…Điều này hoàn toàn đúng với quan hệ kinh tế Mỹ -Trung, đây là mối quan hệ kinh tế của 2 cường quốc lớn nhất thế giới hiện nay. Có thể nói quan hệ kinh tế Mỹ - Trung Quốc là điển hình cho sự phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế lớn. Mỹ và Trung Quốc không chỉ là một trong những bạn hàng lớn nhất của nhau, mà còn là chủ nợ lớn nhất và cả trong 2 trường hợp này, Trung Quốc đều có lợi thế, đó là thặng dư thương mại cao 273 tỷ USD, là chủ nợ của 1.500 tỷ USD trái phiếu Mỹ. Tuy nhiên, trong bối cảnh nợ công đang đe dọa kinh tế Mỹ thì chủ nợ Trung Quốc cũng “đứng ngồi không yên”. “Hành động có trách nhiệm” và “hy vọng rằng Chính phủ và Quốc hội Mỹ sẽ có các biện pháp cũng như chính sách cụ thể, có trách nhiệm để đối phó với các vấn đề nợ, đảm bảo cho các hoạt động của thị trường tài chính và nhà đầu tư”. Đó là phát biểu của Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc Chu Tiểu Xuyên trước thời điểm nước Mỹ đạt thỏa thuận nâng trần nợ công. Điều này hoàn toàn dễ hiểu, bởi vì nếu nếu nợ công không được nâng trần, đồng USD sẽ bị mất giá và không ai dám chắc 1.500 tỷ USD trái phiếu hiện Trung Quốc sở hữu sẽ không bị ‘bốc hơi”. Sự lo lắng này còn kéo dài vì lần nâng trần nợ công này chắc chắn không phải là lần cuối cùng và đồng USD cũng chưa có cơ hội nâng giá và như vậy “kho tiền’ USD của Trung Quốc sẽ sụt giảm đáng kể. Đây cũng là kinh  nghiệm lớn trong việc đa dạng hóa các nguồn lực dự trữ quốc gia mà Trung Quốc là ví dụ điển hình nhất. Châu Âu Tình hình Hy Lạp đã tạm “bình yên” khi EU, IMF và Eurozone nhất trí thông qua gói cứu trợ lần 2 với trị giá 109 tỷ Euro (khoảng 158 tỷ USD) và Hy Lạp bắt đầu đàm phán với các ngân hàng để họ mua lại các khoản nợ sắp đáo hạn.  Tuy nhiên, với khoản nợ công khổng lồ 350 tỷ Euro (khoảng 506 tỷ USD) và chưa có giải pháp giảm nợ khả thi thì Hy Lạp vẫn là “ứng cử viên số một” hay “sự lựa chọn số một” cho danh sách các quốc gia có nguy cơ vỡ nợ. Mọi kết quả sẽ có vào thời gian này năm 2012. Trong một diễn biến khác, không chỉ các quốc gia nhỏ của EU, của Eurozone bị “bão” nợ công tàn phá, một thành viên G7 đồng thời là nền kinh tế lớn thứ 4 Châu Âu - Italy cũng có nguy cơ cao vỡ nợ công. Nhiều chỉ số kinh tế của Italy đều trong diện “báo động đỏ”, cụ thể nợ công của Italy sẽ tăng từ 128% GDP lên 150% GDP vào năm 2017; lãi suất đi vay của Chính Phủ tăng cao và thâm hụt ngân sách vượt 3%... Các nhà phân tích cho rằng, ngoài việc chưa nhất trí với các nhận định xấu về kinh tế Italy, chính phủ của ông Silvio Berlusconi cần phải có một chương trình đặc biệt nhằm khôi phục đà tăng trưởng cũng như phải lựa chọn biện pháp “thắt lưng buộc bụng” thì Italy mới có hy vọng “thoát hiểm”. Đây không phải là điều dễ dàng vì tăng trưởng khó đi cùng với “thắt chặt”. Do vậy, đối với Italy hiện nay mọi điều đều có thể xảy ra. Và như vậy, kinh tế Châu Âu sẽ còn “rối ren” hơn nhiều. Nhật Bản  Nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới đang đứng trước hai nhiệm vụ khó khăn: tái thiết đất nước sau thảm họa và khôi phục kinh tế,  trong đó xử lý đồng Yên tăng giá là một trong những nhiệm vụ quan trọng và khó khăn nhất. Trong việc tái thiết đất nước, khoảng 19.000 tỷ Yên đã và sẽ được chi cho việc khôi phục cơ sở hạ tầng tại khu vực bị thảm họa, xây trường học và tạo thêm các việc làm mới. Không những vậy, Nhật Bản còn có kế hoạch phát hành 10.000 tỷ Yên (khoảng 128 tỷ USD) trái phiếu để “tăng tốc” quá trình tái thiết. Có thể nói Nhậ Bản đã “không tiếc tiền” để khắc phục hậu quả thảm họa cũng như khôi phục kinh tế và thực tế là có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Trong một diễn biến khác, sau một thời gian theo dõi và đánh giá những tác động tiêu cực do đồng Yên liên tục tăng giá trong thời gian vừa qua, ngày 4/8 Bộ trưởng Tài chính Nhật Bản Yoshihiko Noda tuyên bố Nhật bản sẵn sàng cho việc đơn phương can thiệp vào thị trường tiền tệ để ngăn việc đồng Yên lên giá. Thực tế Nhật Bản đã bán 4.000 tỷ Yên (khoảng 50,6 tỷ USD) và BOJ quyết định tăng quy mô chương trình mua tài sản từ 10.000 tỷ Yên (126 tỷ USD) lên 50.000 tỷ Yên (630 tỷ USD).Đây là lần thứ 2 trong vòng một năm trở lại đây Nhật Bản đơn phương can thiệp vào thị trường tiền tệ và có sự phối hợp chặt chẽ giữa Ngân hàng Trung ương và Bộ Tài chính. Tuy nhiên lần can thiệp này nếu xảy ra sẽ gặp nhiều khó khăn hơn lần trước đây vì đồng USD và Euro hiện nay đang có nguy cơ giảm giá cao và kinh tế Mỹ cũng như Châu Âu đang gặp khó. Và như vậy, tỷ giá đồng Yên vẫn là vấn đề “trung tâm” và không dễ xử lý của kinh tế Nhật Bản trong thời điểm hiện nay. Nợ công của Mỹ Diễn biến nợ công của Mỹ Trong lịch sử nợ công của nước Mỹ, đã có hai lần đạt mức cao kỷ lục: sau Thế chiến thứ 2 đạt mức 110%/GDP và lần này (2011) với 14.300 tỷ USD, gần bằng 100%/GDP. Con số này vượt quá cao so với mức an toàn của nền kinh tế, đe dọa sự phục hồi kinh tế của nước Mỹ và kinh tế toàn cầu khiến không chỉ nước Mỹ mà cả thế giới lo ngại.  Theo số liệu báo ra ngày 8/4/2012 cuả tờ báo  cho thấy Nợ liên bang của Mỹ tính đến ngày 2/8/2011 đã vượt mức 238 tỷ USD/ngày. Bộ Tài chính Mỹ hôm 3/8/2011 cho biết, nợ công của nước này đã vượt 100% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), ngay khi lưỡng viện Quốc hội Mỹ thông qua dự luật về nâng trần nợ công và cắt giảm ngân sách.  Tình hình tài chính công do Bộ Tài chính Mỹ công bố, nợ liên bang của Mỹ tính đến ngày 2/8/2011 đã vượt mức 238 tỷ USD/ngày, đạt 14.580,7 tỷ USD, vượt GDP của năm 2010 (14.526,5 tỷ USD). Tuy nhiên, theo những đánh giá gần đây của Chính phủ Mỹ, GDP của nước này trong năm 2011 hiện cao hơn con số này, cụ thể giá trị sản lượng của nền kinh tế lớn nhất thế giới trong quý 2/2011 tương ứng với mức tăng trưởng hàng năm là 15.038 tỷ USD. Căn cứ vào các dữ liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), như vậy Mỹ đã gia nhập lại nhóm các nước có nợ công cao hơn GDP, gồm Nhật Bản (229%), Hy Lạp (152%), Jamaica (137%), Lebanon (134%), Italy (120%), Ireland (114%) và cả Iceland (103%). Trên thực tế, chúng ta cùng xem xét một điều rằng nếu Mỹ vỡ nợ ai là người chịu thiệt hại lớn nhất từ cú sốc trên? Chắc chắn là chính Mỹ, mà đầu tiên là các lãnh đạo của nhà trắng. “Bóng ma vỡ nợ" “Bóng ma vỡ nợ" đang bao phủ khắp Nhà Trắng bởi nợ công của Chính phủ Mỹ đã lên tới hơn 14 nghìn tỷ USD, mức kịch trần giới hạn vay nợ. Ngày 25-7, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cảnh báo, Mỹ sẽ đối mặt với "cú sốc nặng" nếu nước này không sớm nâng trần nợ công. Trong một báo cáo về kinh tế Mỹ, các chuyên gia IMF tuyên bố cần nhanh chóng nâng trần nợ liên bang để tránh một cú sốc nặng cho nền kinh tế Mỹ và các thị trường tài chính thế giới. Ban giám đốc IMF cũng kêu gọi nhà chức trách Mỹ cắt giảm chi tiêu từng bước để tránh bị đánh tụt hạng tín nhiệm tài chính. Nguyên nhân Nguyên nhân của tình trạng nợ công tăng cao là chính quyền đã “vung tay quá trán”, ngay từ thời người tiền nhiệm là cựu Tổng thống George W. Bush, số nợ đã tăng thêm 4.900 tỷ USD; thời của Tổng thống Obama con số này đã là 2.400 tỷ USD. Cụ thể, ngoài Chương trình cải tổ hệ thống y tế quốc gia, nước Mỹ còn phải chịu gánh nặng về bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm vỡ nợ, hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ năm 2008; Chi tiêu cho các gói kích thích kinh tế với hơn 900 tỷ USD nhưng không mấy hiệu quả, trong khi nguồn thu vẫn bị thu hẹp do tác động từ suy thoái kinh tế cũng là nguyên nhân làm bội chi ngân sách. Mặt khác phải kể đến là chi tiêu cho các cuộc chiến ở Iraq, Ápganixtan, Libya cũng tác động không nhỏ đến nợ công và sự phục hồi kinh tế của Mỹ. Chỉ tính riêng chi tiêu cho hai cuộc chiến ở Iraq, Ápganixtan, Mỹ đã tốn gần 4 tỷ USD; Hậu quả Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã bộc lộ mặt trái không mong muốn của nợ công nước Mỹ và nhiều nước khác. Đối với những quốc gia sở hữu nhiều trái phiếu Chính phủ Mỹ như Trung Quốc và Nhật Bản mặc dù vẫn lớn tiếng trấn an rằng: "Đó vẫn là công cụ dự trữ quan trọng bậc nhất" nhưng trên thực tế, tỷ trọng trái phiếu Chính phủ Mỹ trong dự trữ quốc gia đã suy giảm rõ rệt để bổ sung thêm vàng, góp phần tạo nên cơn sốt vàng dữ dội nhất trong lịch sử suốt hai tuần qua. Chẳng hạn, Nhật Bản giảm từ 90% xuống 75% - 80%, Brazin giảm từ 90% xuống 81%; Trung Quốc giảm từ 90%  xuống 80%. Trong vòng 7 tuần sau khi nợ công chạm ngưỡng tuần, Chính phủ Mỹ có nguy cơ vỡ nợ với một số khoản; hàng loạt khoản chi tiêu ngân sách sẽ phải rút bớt, tạm hoãn hoặc dừng hẳn, trong đó có cả lương quân đội và trợ cấp về hưu, y tế, hoàn thuế... Khi nợ công vượt giới hạn mà Quốc hội không nâng ngưỡng giới hạn này, các khoản vay của Chính phủ sẽ phải chịu lãi suất cao hơn, trong khi nhà cửa sẽ tiếp tục mất giá và các khoản tiết kiệm hay lương hưu của người dân Mỹ sẽ bị hao hụt. Theo số liệu của FDIC, nợ liên bang đã tăng gấp đôi trong 7 năm qua lên mức 14 nghìn tỷ USD, hậu quả trực tiếp từ khủng hoảng tài chính và việc chính phủ không muốn hạn chế thâm hụt cấu trúc dài hạn. Nếu không quyết sách nào được đưa ra, nợ liên bang của Mỹ có thể tăng từ mức 62% GDP vào năm nay lên mức 185% GDP vào năm 2035. Khi hơn 70% trái phiếu Bộ Tài chính Mỹ do nhà đầu tư tư nhân bên ngoài nắm giữ đáo hạn trong 5 năm tới, việc nhà đầu tư kém tin tưởng vào nước Mỹ sẽ khiến chi phí lãi vay của chính phủ và lĩnh vực tư nhân Mỹ tăng lên. Thêm vào đó, theo thông báo của Bộ Tài chính Mỹ, tính đến tháng một Trung Quốc đã bán ròng trái phiếu chính phủ Mỹ trong 3 tháng liên tiếp. Hàng loạt các quĩ đầu tư lớn nhất thế giới về trái phiếu chính phủ Mỹ cũng bắt đầu bán tháo. Tổng số trái phiếu chính phủ Mỹ mà Trung Quốc nắm giữ trong tháng một giảm 5,4 tỷ USD, xuống còn 1.155 tỷ USD, giảm liên tục trong ba tháng liên tiếp. Tháng 12 năm ngoái, Trung Quốc đã bán ròng 4 tỷ USD trái phiếu chính phủ Mỹ. Trong tháng 10/2010, số trái phiếu chính phủ Mỹ mà Trung Quốc sở hữu đã giảm xuống mức kỷ lục 1.175 tỷ USD. Các ngân hàng trung ương nước ngoài nắm giữ 3.150 tỷ USD trái phiếu Chính phủ Mỹ trong tổng số 4.440 tỷ USD lưu hành ở nước ngoài. Chưa hết, ngay cả quỹ đầu tư Pimco - quỹ đầu tư lớn nhất thế giới về trái phiếu chính phủ và là một chi nhánh của tập đoàn tài chính bảo hiểm Allianz khổng lồ - cũng đang bán dần trái phiếu chính phủ Mỹ. Pimco dự tính giá trái phiếu chính phủ Mỹ sẽ đột ngột giảm mạnh, khi Ngân hàng Trung ương Mỹ(FED)không còn tiếp tục mua trái phiếu chính phủ kể từ cuối tháng 6. Nếu phân tích về con số, thâm hụt ngân sách của Mỹ trong những năm gần đây đều là con số khổng lồ. Năm 2009 thâm hụt 1.420 tỷ USD, năm 2010 giảm xuống còn 1.290 tỷ USD, nhưng năm 2011 rất có thể thâm hụt đạt tới 9,8% GDP tương đương 1.450 tỷ USD. Bội chi ngân sách, mức trần nợ công dâng lên đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế: Đồng USD mất giá làm cho các chỉ số niềm tin cả trong và ngoài nước suy giảm, đồng USD không đi vào sản xuất kinh doanh mà tìm nơi trú ẩn là vàng, làm cho giá vàng tăng vọt… Như vậy, lạm phát, giá cả tăng, thất nghiệp luôn ở mức cao, số việc làm tạo ra không đáp ứng nhu cầu, đời sống nhân dân giảm sút, uy tín quốc tế của Mỹ suy giảm… đó là hậu quả mà nền kinh tế Mỹ đang phải gánh chịu. Những thách thức đặt ra đối với các nước phát triển về nợ công Đầu tiên, Chính phủ các nước dễ tổn thương trước những thay đổi nhanh chóng và bất ngờ trong hành vi của nhà đầu tư, và hệ quả là những chính sách cũng bị thay đổi theo để kịp thời thích nghi. Hơn thế nữa, các nhà đầu tư sẽ yêu cầu lãi suất cao hơn hoặc từ chối cho vay mượn trước nỗi lo về khả năng vỡ nợ ở các quốc gia rủi ro cao. Hiện ba nước trong khu vực eurozone là Hy Lạp, Ireland và Bồ Đào Nha đang phải gánh chịu áp lực này; tuy nhiên các nước lớn khác trong khu vực eurozone và IMF đã cho các nước này vay mượn để tránh nguy cơ vỡ nợ.  Thứ hai, sự cạnh tranh vốn của chính phủ cho những khoản nợ vay sẽ đẩy lãi suất lên cao, gây khó khăn cho khả năng tiếp cận nguồn vốn của doanh nghiệp, nhà đầu tư tư nhân.  Thứ ba, mức nợ công cao sẽ hạn chế khả năng ứng phó với những khủng hoảng không mong muốn, ví dụ như thảm họa thiên nhiên. Điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng hồi phục nhanh và bền vững của nền kinh tế trong nước.  Tác động đối với nền kinh tế Việt Nam Về ảnh hưởng của tình hình kinh tế thế giới tới Việt Nam, nợ công của Mỹ là hậu quả từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ. Và có tác động trực tiếp thế nào đến Việt Nam? Điều đó phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế giữa 2 nước. Tình hình hội nhập mở cửa của Việt Nam có sâu rộng với kinh tế Mỹ và thế giới hay không? Xét trên khía cạnh Đầu tư, hiện nay, Mỹ đứng thứ 6 trong số các nước đầu tư vào Việt Nam. Mỹ cũng là nhà đầu tư (NĐT) lớn, nếu cộng cả giá trị đầu tư qua các nước thứ 3 thì Mỹ là NĐT số 1 vào  Việt Nam trong nhiều năm qua. Các dự án từ Mỹ vào Việt Nam phần lớn là giai đoạn đầu và tập trung nhiều vào hạ tầng dài hạn. Ngược lại, quan hệ về ngắn hạn chúng ta xuất sang Mỹ nhiều hơn. Trên lĩnh vực thương mại, Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng khoảng 23-25%. Còn lại, quan hệ giữa 2 hệ thống tài chính, ngân hàng gần như không đáng kể. Về các tác động gián tiếp,  Việt Nam chưa vào sâu trong cuộc chơi toàn cầu nên đang có lợi thế là cơn tác động này chưa lan tới. Các nền kinh tế khác trong những ngày qua đã bị ảnh hưởng. Lợi thế này tạo cho chúng ta cái nhìn tốt về một nền kinh tế “an bình” không bị bão táp làm tan vỡ. Chính điều này đã quyết định tính chất và quy mô của cơn địa chấn này đến nền Cuộc khủng hoảng này tác động đến kinh tế Việt Nam trên một số mảng cơ bản: Lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc tế tăng dẫn đến nợ ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp tăng, làm cho người dân dự đoán đồng USD giảm nên họ đã rút đồng USD ra khỏi ngân hàng hoặc bán USD mua tiền Việt Nam gửi vào,… Diễn biến nợ công trong 5 năm gần nhất (tính theo %GDP)-Nguồn Bộ Tài chính Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng về mặt tiền tệ đối với Việt Nam có lẽ không đáng kể. Nếu như cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ nền kinh tế Mỹ ảnh hưởng ngay lập tức tới các nền kinh tế hùng mạnh khác, thì cơn bão này đến Việt Nam chậm hơn 1 nhịp. Nếu như sức tàn phá của cuộc khủng hoảng ở hầu hết các nước thể hiện đầu tiên và rõ nét nhất là hệ thống tài chính, ngân hàng, thì ở Việt Nam lại thể hiện trước hết là ở lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sức ảnh hưởng mạnh nhất lại đè lên vai hàng triệu người nông dân, thợ thủ công tham gia sản xuất hàng xuất khẩu. Những loại chứng khoán mà hiện nay đang có vấn đề của những công ty chứng khoán và bảo hiểm của Mỹ chưa bán ở Việt Nam. Hệ thống tiền tệ và thị trường vốn, thị trường chứng khoán ở Việt Nam chưa lành mạnh, dễ tổn thương, dễ lâm vào bất ổn chủ yếu là do các yếu tố trong nội bộ Việt Nam như thiếu tính công khai, thiếu minh bạch, dân chúng khó tiếp cận, tồn tại giao dịch nội gián..., chứ không liên quan nhiều đến cuộc khủng hoảng ở Mỹ.  Ngành ngân hàng Việt Nam bị ảnh hưởng không đáng kể bởi hầu hết các NH Việt Nam là NHTM, phục vụ cho vay tiêu dùng, cho vay doanh nghiệp, độ phân tán rủi ro cao và không có sự liên thông đầu tư với các ngân hàng đầu tư lớn của Mỹ như các nước khác. Sự ảnh hưởng nếu có thì chỉ do tác động tâm lý nhất thời của nhà đầu tư. Nếu có chăng cũng chỉ có thể xảy ra khả năng một số nhóm nhà đầu tư sẽ làm động tác “xả hàng” cổ phiếu ngành ngân hàng nhằm làm trầm trọng thêm tình hình để kéo giá cổ phiếu ngân hàng xuống. Đầu tư trực tiếp (FDI) ở Việt Nam có lẽ cũng không bị ảnh hưởng nhiều từ cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Mỹ. Các nhà đầu tư chính ở Việt Nam là Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan... Ngay cả những công ty chế tạo của Mỹ nếu có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam cũng sẽ không vì cuộc khủng hoảng này mà đình hoãn kế hoạch đó. Kinh nghiệm của thập niên 1990 cho thấy kinh tế Nhật suy thoái hầu như không ảnh hưởng gì đến FDI của họ ở Trung Quốc và  Việt Nam. Kinh nghiệm của Intel tại Việt Nam cũng cho thấy công ty này chậm triển khai kế hoạch đầu tư ở nước ta chủ yếu vì không bảo đảm được nguồn nhân lực có trình độ cao cần thiết. Theo một khảo sát gần đây thì các doanh nghiệp nước ngoài khi được hỏi họ nước nào là địa điểm mà họ sẽ chú trọng đầu từ vào? Thì Việt Nam được nhiều người chọn lựa là thị trường mục tiêu hàng đầu. Vì VIệt Nam có tình hình chính trị ổn định cộng thêm cơ sở pháp lý của Việt Nam ngày càng được cải cách , làm thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Cộng thêm khu vực châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng ít bị chịu ảnh hưởng bởi khủng hoảng và được dự đoán là khu vực sẽ hồi phục nhanh sau khủng hoảng. Lĩnh vực xuất khẩu Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nhất từ cuộc suy thoái của Mỹ có lẽ là ở lĩnh vực xuất khẩu. Hiện nay Mỹ chiếm hơn 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng phần lớn sản phẩm của ta xuất khẩu sang Mỹ là hàng may mặc, giày dép và hàng thủy sản nên trước mắt chỉ những mặt hàng này gặp khó khăn. Dù Mỹ không gặp khủng hoảng, việc tập trung xuất khẩu một số mặt hàng nhất định sang Mỹ dễ gây va chạm với các nhà sản xuất bản xứ. Vấn đề của Việt Nam là phải nỗ lực chuyển dịch cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu theo hướng cao cấp hơn, đa dạng hơn. Trong thời gian trước mắt, Việt Nam nên củng cố sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp để khi kinh tế Mỹ hồi phục sẽ triển khai chiến lược xuất khẩu với nhiều mặt hàng đa dạng hơn. Đối với hoạt động xuất khẩu khoáng sản, nhiên liệu Trước khi chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, sản phẩm dầu thô xuất khẩu chỉ tăng nhẹ trong mấy năm đầu của giai đoạn 2001 – 2006 sau đó giảm dần. Sự sụt giảm là do các mỏ dầu đã cạn kiệt trong khi việc thăm dò và mua các mỏ dầu mới của các nước khác không mấy tiến triển khi xảy ra suy thoái. Nhiều nền kinh tế lớn bắt đầu từ Nhật, Nga, EU lâm vào tình trạng suy thoái, Mỹ chính thức lâm vào suy thoái từ tháng 12/2007 thì giá dầu thô sụt giảm mạnh cùng với đó là nhu cầu xây dựng đi xuống ảnh hưởng tới mặt hàng dầu của Việt Nam, đang từ ngưỡng cao xuống còn 50 USD/thùng. Kinh tế thế giới bước vào giai đoạn suy thoái khiến giá dầu giảm mạnh, giá dầu giảm tác động đến nguồn thu từ dầu mỏ Việt Nam. Tuy không chịu ảnh hưởng về thị trường nhưng chịu ảnh hưởng về giá. Kim ngạch xuất khẩu nhóm này trong năm 2008 đạt gần 5 tỷ USD giảm 40,1% tương đương 3,35 tỷ USD, trong đó giảm do giá giảm 4,83 tỷ USD và tăng do lượng khoảng 1,48 tỷ USD. Lượng dầu thô xuất khẩu năm 2008 là 14,5 triệu tấn và bắt đầu giảm từ năm 2009 xuống còn 12 triệu tấn, năm 2010 còn 11 triệu tấn tương đương với việc làm giảm kim ngạch từ 11,3 tỷ USD năm 2008 xuống còn 7,2 tỷ USD năm 2009, 6,6 tỷ USD năm 2010. Mức giá dự tính dự tính sẽ giao động ở mức trung bình khoảng 70 – 80 USD/thùng.Về than đá, cũng sẽ giảm dần do chủ trương kiểm soát chặt chẽ xuất khẩu tài nguyên, mức xuất khẩu than duy trì 23 triệu tấn năm 2008 xuống mức 20 triệu tấn năm 2009 và 18 triệu tấn năm 2010. Dự kiến kim ngạch năm 2010 đạt 1,5 tỷ USD. Đối với hoạt động xuất khẩu nông, lâm, thủy sản. Do kinh tế Việt Nam đã mở cửa hội nhập khá sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới nên không thể tránh khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này. Hoa Kỳ , EU, Trung Quốc là những thị trường quan trọng, có sức tiêu thụ lớn hàng nông, lâm, thủy sản Việt Nam. Trước khủng hoảng hàng xuất khẩu của Việt Nam đã bị cạnh tranh ngày càng khốc liệt bởi hàng xuất khẩu cùng loại của một số nước, hơn nữa khả năng sản xuất mặt hàng nông, thuỷ sản gặp nhiều khó khăn, còn vấp phải nhiều rào cản thương mại quốc tế và mức tăng tỷ giá trong những tháng đầu năm 2009 đã làm cho khả năng xuất khẩu năm giảm hơn so với năm 2008. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông, lâm, thủy sản chính của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng lên từ 619 triệu USD (năm 2001) đến 1,8 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm 2008. Khi khủng hoảng tài chính, tín dụng xảy ra, kinh tế Mỹ và các nước EU gặp khó khăn sức tiêu dùng giảm nên hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường lớn này gặp khó khăn. Những tác động này đã bắt đầu bộc lộ từ giữa tháng 9 năm 2008, xuất khẩu chững lại giá xuất khẩu các mặt hàng nông sản đều giảm so với các tháng trước, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tháng 9/2008 đạt 1,45 tỷ USD tăng 32,6% so với tháng 9/2007 và giảm 11% so với tháng 8/2008. Đối với nhóm hàng công nghiệp chế biến Năm 2008, do chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế thế giới nên hoạt động xuất khẩu diễn biến không theo quy luật, những tháng đầu năm xuất khẩu gặp thuận lợi về giá, kim ngạch xuất khẩu đạt mức cao trong 2 tháng 7 và 8 tuy nhiên đến tháng 9 xuất khẩu giảm mạnh và tiếp tục giảm trong những tháng cuối năm. Nhu cầu của thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, các đơn đặt hàng xuất khẩu dệt may, đồ gỗ vào Mỹ và đều giảm do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trong khi thị trường xuất khẩu gặp khó khăn thì các chi phí đầu vào không giảm thậm chí còn tăng cao. Năm 2008, Việt Nam xuất khẩu được khoảng 64,8 tỷ USD, trong đó khoảng 32,1% giá trị xuất khẩu là hàng công nghiệp nặng và khoáng sản, 45,2% là hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, 23,5% là hàng nông, lâm, thuỷ sản. Nhóm hàng công nghiệp chế biến, công nghiệp và thủ công mỹ nghệ chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu do nhu cầu của các mặt hàng này giảm mạnh. Trong những tháng đầu năm 2009, xuất khẩu các mặt hàng dệt may, da giày, đồ gỗ đều gặp khó khăn do thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, các đơn hàng xuất khẩu dệt may, đồ gỗ, giày dép vào Mỹ đều giảm, nhiều hàng rào phi thuế quan và các biện pháp bảo hộ mậu dịch của các nước được dựng lên. Chi phí đầu vào phục vụ cho sản xuất vẫn tăng cao như lương công nhân và lãi suất ngân hàng. Tuy nhiên đến tháng 5, tháng 6/2009 kinh tế thế giới đã bắt đầu phục hồi kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2009 đạt 20,2 tỷ USD giảm 47% so với năm 2008. Lĩnh vực công nghiệp, mặt hàng dệt may đạt 9,06 tỷ USD giảm 0,6% so với năm 2008, da giày đạt khoảng 4,1 tỷ USD, xuất khẩu đồ gỗ với nhiều nỗ lực đạt khoảng 2,7 tỷ USD trong năm 2009. Đối với bất động sản. Chỉ có  FDI vào lĩnh vực khu cao ốc văn phòng, resort cao cấp là có thể bị ảnh hưởng, tuy nhiên sự suy giảm trong lĩnh vực đầu tư này không phải là điều đáng quan ngại. Đối với thị trường chứng khoán. Sự ảnh hưởng nếu có thì chỉ do tác động tâm lý nhất thời của nhà đầu tư (NĐT). Còn hoạt động của thị trường chứng khoán vẫn do các yếu tố nội tại của nền kinh tế nước ta quy định. Điều này thấy rõ nhất khi mà thị trường chứng khoán Việt Nam không còn quá bị ảnh hưởng của khối ngoại. Nhưng tháng qua mặc cho các quỹ đầu tư nước ngoài thoái vốn hay khối ngoại bán ròng thì thị trường chứng khoán VIệt Nam vẫn sôi động . Về mặt tâm lý ảnh hưởng lớn đến thị trường do thị trường chứng khoán Việt Nam mới được hình thành vì vậy việc chạy theo đám đông là điều không thể chánh khỏi ở thị trườn Việt Nam. Mặc cho các công ty chứng khoán tại VIệt Nam có mối quan hệ làm ăn với các công ty tổ chức nước ngoài hay không thì thị trường vẫn bị ảnh hưởng theo. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng ở thị trường nước ngoài có thể khiến nguồn vốn đầu tư vào TTCK Việt Nam không được dồi dào. Nguồn tiền của các tổ chức đầu tư ở Việt Nam cũng là tiền từ các công ty mẹ ở nước ngoài. Nếu các công ty ở nước ngoài khó khăn thì công ty con ở Việt Nam cũng phải dè dặt trong đầu tư. Điều này làm hạn chế nguồn cung của thị trường, làm cho TTCK khó có thể tăng quá nhanh như vừa qua. Đối với ngành du lịch. Ngành du lịch Việt Nam cũng sẽ không bị tác động nhiều vì khách du lịch vào Việt Nam rất đa dạng chứ không tập trung ở phân khúc khách cao cấp. Chương III GIẢI PHÁP ĐỂ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG CỦA MỸ ĐẾN VIỆT NAM I. Bài học đối với thế giới Trong làn sóng khủng hoảng kinh tế nối tiếp nhau từ Mỹ Latinh trong thập niên 80 của thế kỷ trước cho tới cuộc khủng hoảng châu á giữa năm 1997, các nước đã học được cách tiếp cận chính sách kinh tế có hiệu quả hơn và xây dựng khung quản lý nợ công bền vững hơn. Nhưng thật đáng tiếc, nay lại tới lượt châu Âu lâm nguy. Cuộc khủng hoảng của châu Âu ban đầu chỉ là cuộc khủng hoảng tài chính, rồi nhanh chóng phát triển thành cuộc khủng hoảng nợ công kinh điển sau khi chính phủ phải can thiệp để cứu các ngân hàng. Chính động thái đó lại gây ra một loạt nỗi lo mới về các ngân hàng được cho là "dựa dẫm" vào sự bảo lãnh nợ của chính phủ. Khi đó nợ quốc gia dường như không còn ổn định nữa. Một trong những tiền lệ khó quên là vụ vỡ nợ ở Mỹ Latinh cách đây gần 30 năm. Vào tháng 8/1982 đất nước Mexico đã làm rung chuyển thế giới khi Chính phủ tuyên bố không có khả năng trả nợ. Gần như suốt mùa hè năm đó Mexico, nước được tiên lượng thâm hụt ngân sách chiếm 11% GDP vẫn vay mượn trên thị trường quốc tế với chi phí ngày càng bị đẩy lên cao hơn. Các ngân hàng tự trấn an rằng đất nước không thể bị vỡ nợ. Nhưng rồi những gì phải đến đã đến, một loạt nước vốn có mô hình kinh tế khác nhau lại xếp hàng đổ vỡ theo hiệu ứng "domino." Trong khi Mexico đi tới sự bùng nổ kinh tế dựa vào dầu mỏ nhờ cú sốc dầu mỏ lần hai trong thập niên 70 của thế kỷ trước, thì đất nước áchentina lại chìm trong cơ chế quản lý nền kinh tế yếu kém bởi chế độ độc tài quân sự. Còn Brazil trải qua sự thần kỳ kinh tế với tốc độ tăng trưởng đầy ấn tượng nhờ nhập khẩu vốn. tựu chung lại các nước này cùng tạo ra một vấn đề chung và cực kỳ đơn giản: nợ nần quá mức. Sự vỡ nợ của Mỹ Latinh ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng của tất cả các nước công nghiệp chủ chốt, gây ra cái gọi là "tua lại" cuộc Đại suy thoái. Nợ nần của Mexico liên đới tới 90% vốn hóa của các ngân hàng chủ chốt Mỹ. Giải pháp được coi là sáng suốt vào thời điểm đó để tránh tình trạng vỡ nợ cho bất kỳ nước vay nợ lớn nào ở Mỹ Latinh có sự kết hợp của ba nhân tố: cứu trợ khẩn cấp của quốc tế thông qua Quỹ Tiền tệ Quốc tế, thực hiện cắt giảm mạnh chi tiêu trong nước theo các điều kiện ngặt nghèo mà IMF đặt ra và các ngân hàng bổ sung vốn. Các tổ chức tài chính không hề xóa nợ cho Mỹ Latinh cho dù 5 năm sau khi xảy ra khủng hoảng khi mà việc cắt giảm chi tiêu không còn đe dọa sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Thay vào đó chỉ là bắt đầu cho vay đối với các dự án mới. Trong khi khu vực này vẫn được biết đến với tên gọi "một thập niên bị đánh cắp." Giải pháp của châu Âu hiện nay dường như đang lặp lại những gì đã xảy ra trong thập niên 80 bị đánh cắp ở các nước đang phát triển. Đó là kết hợp sự hỗ trợ quốc tế, các biện pháp thắt lưng buộc bụng và tuyên bố rõ ràng của các ngân hàng về trách nhiệm tài chính đối với những vấn đề mà họ gây ra. Cùng như các ngân hàng đồng hương trong thập niên 80 của Thế kỷ trước, các "đại gia" châu Âu, trong đó các ngân hàng ở Đức, Anh và Pháp, hiện nay đã "dính" vào những khoản tiền khổng lồ mà họ sai lầm nghĩ là nợ an toàn. Sự cắt giảm đáng kể nợ chủ quyền của các nước Eurozone dễ bị tổn thương có sức công phá mạnh tới mức gây ra đợt hoảng loạn mới về ngân hàng. Thừa nhận vấn đề này các ngân hàng có thể yêu cầu chính phủ cứu trợ. Đó là tại sao cuộc khủng hoảng trở thành thách thức với Anh, Đức và Pháp. Sáng kiến chung mà Pháp và Đức khởi xướng tại Deauville đầu tháng 11/2011 về các biện pháp tái cơ cấu nợ thực hiện sau năm 2013 đã cố gắng tránh cú sốc tức thời của viện cắt giảm chi tiêu. Nhưng việc loan báo trước khả năng xóa nợ vẫn dẫn tới mối lo bất ổn về ngân sách. Do đó cần có sự bảo lãnh kèm theo điều kiện đối với một phần nợ chưa thanh toán để át đi nỗi lo xóa hết nợ. Cơ chế giải quyết nguy cơ vỡ nợ quốc gia theo trình tự sẽ góp phần nâng cao năng lực quản trị toàn cầu và giải quyết các vấn đề lâu dài của thị trường nợ quốc gia. Những đề xuất như vậy từng được thảo luận rộng rãi trong những năm 1999-2000. Phó giám đốc điều hành IMF Anne Krueger đã hối thúc triển khai Cơ chế Tái Cơ cấu Nợ Chủ quyền nhằm đưa ra lộ trình pháp lý cho việc áp mức cắt giảm chung đối với các chủ nợ để từ đó chấm dứt những trở ngại mang tính tập thể trong việc tìm kiếm một giải pháp hiệu quả để tránh vỡ nợ quốc gia. II. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Đối với Việt Nam, cuộc khủng hoảng nợ công ở Mỹ ít nhiều có tác động trực tiếp và gián tiếp, trước mắt và cả lâu dài đến nhiều mặt của đời sống kinh tế-xã hội-chính trị đất nước, nhưng đồng thời cũng cho chúng ta những bài học quý báu: Một mặt, những khó khăn thị trường và tài chính từ Mỹ đang gặp khủng hoảng - với tư cách đối tác thương mại và thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam có thể làm thu hẹp khả năng xuất khẩu các hàng hóa, dịch vụ, lao động và do đó, làm thu hẹp nguồn thu nhập ngoại tệ từ xuất khẩu, kiều hối và dòng FDI, giảm bớt một số nguồn động lực và cơ hội phát triển, mở rộng xuất khẩu của Việt Nam…; Mặt khác, thực tiễn của cuộc khủng hoảng giúp chúng ta rút ra những bài học cảnh tỉnh cần thiết về yêu cầu quản lý nhà nước trong quá trình phòng ngừa và vượt qua khủng hoảng, trong đó có sự minh bạch thông tin, quản lý và nâng cao hiệu quả đầu tư công, duy trì hiệu lực, hiệu quả các giám sát vĩ mô, bảo đảm các yêu cầu an sinh xã hội và tìm kiếm, phối hợp các nguồn lực cho phát triển đất nước theo yêu cầu phát triển bền vững… Đặc biệt, cuộc khủng hoảng nợ công Mỹ đã củng cố quyết tâm tái cấu trúc kinh tế nói chung, đầu tư công của Việt Nam nói riêng, theo hướng về dài hạn, cần chủ động giảm thiểu dần đầu tư công, tăng đầu tư ngoài ngân sách nhà nước trong tổng đầu tư xã hội; chuyển trọng tâm đầu tư công ra ngoài lĩnh vực kinh tế, để tập trung vào phát triển các lĩnh vực hạ tầng và xã hội; phòng ngừa và giảm thiểu những hoạt động đầu tư công gắn với sự chi phối của ý chí chủ quan và ngắn hạn, "tư duy nhiệm kỳ", bệnh thành tích, hay "lợi ích nhóm". Chúng ta cũng cần có sự đổi mới quy trình và tiêu thức phù hợp và chuẩn hóa để tạo căn cứ lựa chọn và thông qua các dự án đầu tư theo lĩnh vực và yêu cầu đầu tư, mục tiêu kinh tế-xã hội, môi trường, cũng như các lợi ích quốc gia và địa phương, ngành, cụ thể và dài hạn, có phân biệt 2 loại mục tiêu và 2 loại tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư công-đầu tư vì lợi nhuận và đầu tư phi lợi nhuận, khắc phục sự nhập nhằng giữa nguồn vốn hoạt động vì lợi nhuận với nguồn vốn hoạt động phi lợi nhuận, cũng như giữa trách nhiệm xã hội của các tập đoàn kinh tế nhà nước đối với ổn định kinh tế vĩ mô với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, dễ dẫn đến đầu tư của tập đoàn vừa bị phân tán, vừa dễ bị lạm dụng, kém hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa, kể cả cổ phần hóa toàn các công ty; giảm, thu hẹp tỷ trọng và giảm thiểu số lượng doanh nghiệp mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối, chỉ duy trì doanh nghiệp 100% vốn nhà nước trong những ngành, lĩnh vực mà nhà nước cần độc quyền, giữ vị trí then chốt của nền kinh tế và các lĩnh vực mà doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân không hoặc chưa muốn, chưa có khả năng tham gia. Ưu tiên xây dựng các mô hình tập đoàn kinh tế đa sở hữu, với vai trò nòng cốt là doanh nghiệp nhà nước, đảm nhận vai trò chủ lực trong nền kinh tế, được vận hành theo đúng quy luật kinh tế trên cơ sở sự tự nguyện thoả thuận liên kết, hợp tác giữa các pháp nhân độc lập; ủng hộ thành lập tập đoàn kinh tế tư nhân. Kiên quyết chấm dứt tình trạng các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đầu tư dàn trải ra ngoài ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính (Hội nghị TW 3 yêu cầu hoàn thành trước năm 2015) và tập trung phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành, lĩnh vực quan trọng có ý nghĩa then chốt của nền kinh tế quốc dân, chủ yếu thuộc các chuyên ngành kinh tế, kỹ thuật liên quan đến kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ công, ổn định kinh tế vĩ mô. Nghiên cứu chỉnh sửa giảm tỷ trọng xuống dưới 10%, thậm chí bãi bỏ sớm quy định hiện nay về cho phép doanh nghiệp nhà nước được phép đầu tư “trái ngành” tối đa 30% tổng nguồn vốn đầu tư vào các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, mức vốn đầu tư công ty nhà nước không được vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức nhận góp vốn, nhưng mức vốn góp của công ty mẹ và công ty con trong tổng công ty, tập đoàn không vượt quá mức 30% vốn điều lệ của tổ chức nhận góp vốn… Khuyến khích phát triển tập đoàn đa sở hữu, cổ phần và tiêu chuẩn hóa quản trị doanh nghiệp theo yêu cầu phòng tránh rủi ro cao. Đặc biệt, cần đảm bảo tính ổn định hệ thống, chủ động phòng ngừa các tác động mặt trái, những cái “bẫy” nợ nần và hiệu quả thiết thực trong quá trình tái cấu trúc trong cả khu vực doanh nghiệp, cũng như khu vực tài chính- ngân hàng. Ngoài ra, còn cần chú ý xử lý tốt các vấn đề liên quan đến mua bán sáp nhập doanh nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp, an sinh xã hội… Phần lớn các chuyên gia kinh tế quốc tế đều cho rằng công tác quản lý nợ công của Việt Nam hiện nay vẫn giữ được mức an toàn với ngưỡng nợ công cho phép. Tuy nhiên, đã đến lúc chúng ta cần có một chiến lược quản lý nợ công trung và dài hạn: Thứ nhất, các nguyên tắc tài chính phải được xây dựng trên các chính sách tốt, luật chơi và ngân sách phải công khai minh bạch. Thứ 2, phải có khung quy chế trong vấn đề giám sát thường xuyện và hệ thống giám sát tài chính độc lập. Thứ 3, liên quan đến việc minh bạch hoá và thảo luận công khai về quản lý tài chính, Nhà nước và chính các doanh nghiệp tư nhân phải xây dựng được một cơ chế giám sát thảm hoạ”. Để tránh “vết xe đổ” như Mỹ, vấn đề minh bạch hoá khoản vay phải được chú trọng hàng đầu. Chẳng hạn trong một số khoản vay cấu thành nợ công, phải làm rõ nợ chính phủ, nợ do Chính phủ bảo lãnh, nợ của Doanh nghiệp nhà nước; hoặc phải kiểm toán để kiểm soát được nợ vay đã được các doanh nghiệp sử dụng ra sao… Để có thể minh bạch hoá, Việt Nam cần sớm có một hệ thống giám sát độc lập: “Điều quan trọng là hệ thống giám sát sự minh bạch liên quan đến các hoạt động vay nợ và sử dụng khoản vay. Trong đó tình trạng tham nhũng cũng có thể coi là một cách khiến nợ thêm trầm trọng. Ví dụ một doanh nghiệp hối lộ để có thể giảm được số tiền nộp thuế cho Nhà nước sẽ góp phần làm trầm trọng thêm mức nợ công mà nhà nước phải chi trả. Hoặc trong lĩnh vực đất đai, việc quản lý không tốt để lạm phát giá đất đai, từ đó kéo theo giá nguyên vật liệu tăng, giá đầu tư cơ sở hạ tầng tăng…cũng là những nguyên nhân gián tiếp khiến nợ công tăng. Vì thế, rất cần phải có một hệ thống giám sát độc lập trong lĩnh vực đất đai hoặc trong các lĩnh vực khác”. Việc duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô và tăng cường các cơ chế giám sát sẽ giúp chúng ta phát huy hiệu quả của việc sự dụng nợ cho tăng trưởng kinh tế và hạn chế rủi ro. Việt Nam phải nghĩ đến việc tái cấu trúc nền kinh tế để giải quyết vấn đề nhập siêu; và cùng với đó điều chỉnh lại cơ cấu các ngành nghề để tăng cường quản lý vốn vay. Ngân hàng là một ví dụ:Thực tế cho thấy nguồn vốn của một số ngân hàng gia tăng, nhưng cũng có một số ngân hàng thiếu hụt nguồn vốn, dẫn đến việc sử dụng nguồn vốn không hợp lý. Có khá nhiều vấn đề, trong đó có việc đề xuất vốn cho ngành ngân hàng, từ đó chuyển dịch ngành ngân hàng. Thứ 2 là có một nghịch lý: gia tăng nguồn vốn ngân hàng, nhưng sử dụng nguồn vốn lại không hiệu quả. Vấn đề đặt ra lộ trình sử dụng vốn như thế nào để tăng hiệu quả của các ngân hàng và dòng vốn xuất phát từ đây? Đối với các ngân hàng, cần lãm rõ hơn việc triển khai các nguồn vốn.” Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp tục cần thêm nhiều nguồn vốn để xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng. Việc vay các nguồn vốn đầu tư sẽ là điều tất yếu, nhưng từ cuộc khủng hoảng nợ tại Mỹ, Việt nam sẽ có thêm nhiều kinh nghiệm. Ông Benedict Bingham, Trưởng đại diện Văn phòng Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF tại Việt Nam nhận định: “Việt Nam sẽ có nhu cầu đầu tư rất nhiều trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng: cảng, đường bộ, đường sắt, viễn thông, năng lượng và các cơ sở hạ tầng “mềm” khác của nền kinh tế như giáo dục, y tế, dân số. Ngoài việc lựa chọn đầu tư có “kỷ luật”, tôi nghĩ rằng chính phủ Việt nam thấy rõ không ai có thể  làm mọi điều chỉ nhờ các khoản nợ. Vì vậy mà họ sẽ phải xem xét tính đến nhiều yếu tố khác. Qua đó, tự giải phóng các nguồn lực để đầu tư vào những ưu tiên hàng đầu như tăng trưởng bền vững và các cơ sở hạ tầng”. Một khi đã đi vay thì phải trả nợ, và tiền vay nếu không được sử dụng hiệu quả hoặc bị xà xẻo do tham nhũng, tiêu cực thì gánh nặng nợ nần sẽ làm oằn lưng thế hệ tương lai. Một biểu hiện đáng lo là hệ số ICOR (thước đo về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư) nói chung của nền kinh tế Việt Nam đã cao đến mức báo động, đến năm nay hệ số này đã lên đến 8, cao hơn 2,5 lần so với mức lý tưởng mà  một số định chế tài chính quốc tế khuyến nghị. Đáng chú ý trong lĩnh vực chi tiêu công, hệ số ICOR là 12. III. Một số đề xuất nhằm hạn chế ảnh hưởng của nợ công của Mỹ đến Việt Nam Phát triển nội lực nền kinh tế Phát triển nội lực nền kinh tế cần tập trung vào vấn đề gia tăng hàm lượng giá trị gia tăng trong xuất khẩu bằng cách: Giảm nhập khẩu nguyên phụ liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu thông qua việc đầu tư phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ; tăng hàm lượng công nghệ cao trong sản xuất để xuất khẩu được nhiều sản phẩm tinh và ít sản phẩm thô hơn; đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xúc tiến thương mại, nâng cao nhận biết và thực hành về vấn đề thương hiệu cho các sản phẩm của Việt Nam trên thị trường thế giới. Xây dựng môi trường tài chính hiệu quả Công khai, minh bạch về tài chính Đây là một nguyên tắc căn bản hàng đầu và phổ biến trên thế giới trong quản trị công nói chung, quản trị tài khóa và đặc biệt là trong quản trị nợ công. Theo hướng dẫn quản lý nợ công của IMF (2003) cũng như Cẩm nang minh bạch tài khóa (2007), cần đặc biệt nhấn mạnh một số yêu cầu cơ bản như sau: Thứ nhất, xác định rõ vai trò và trách nhiệm tài khóa của các cơ quan, của Chính phủ. Đây là yêu cầu thiết yếu để đảm bảo trách nhiệm giải trình trong việc hoạch định và thực thi chính sách tài khóa. Thứ hai, khu vực chính phủ phải được tách bạch rõ ràng ra khỏi phần còn lại của khu vực công và phần còn lại của nền kinh tế; chính sách và vai trò quản lý của khu vực công phải rõ ràng và được công bố công khai. Thứ ba, về quản lý nợ, pháp luật quản lý nợ nên giao trách nhiệm rõ ràng cho một cá nhân, thường là Bộ trưởng Tài chính trong việc: Lựa chọn các công cụ cần thiết cho việc vay nợ; xây dựng chiến lược quản lý nợ; xác định giới hạn nợ (nếu luật không quy định rõ) - thường là dựa vào chiến lược nợ bền vững; thiết lập và kiểm soát cơ quan/tổ chức có trách nhiệm quản lý nợ (thuộc quyền hoặc nằm ngoài) và thiết lập quy chế quản lý nợ. Thứ tư, luật phải quy định cụ thể tất cả các khoản chính phủ bảo lãnh. Luật cũng phải xác định rõ vai trò của Ngân hàng Trung ương sao cho việc phát hành quỹ chứng khoán không bị lẫn với các biện pháp nghiệp vụ thuộc chính sách tiền tệ. Tất cả các khoản vay phải được ghi có tại một tài khoản ngân hàng dưới sự kiểm tra của Bộ Tài chính, và nghĩa vụ nợ và các điều khoản vay nợ phải được công bố đầy đủ cho công chúng. Minh bạch tài khóa đòi hỏi cơ quan lập pháp phải xác định rõ các yêu cầu trong báo cáo hàng năm về dư nợ và dòng chu chuyển nợ, kể cả số liệu về bảo lãnh nợ của chính phủ trình cơ quan lập pháp và công khai cho công chúng.Ngoài ra, cần đảm bảo rằng thông tin về nợ công phải bao quát cả quá khứ, hiện tại và dự tính cho tương lai. Điều này hết sức cần thiết vì thông tin công khai về nợ còn nhằm tăng cường khả năng can thiệp và phòng ngừa tình huống xấu xảy ra. Cải cách hành chính Việc cải cách hành chính nhà nước cần được thực hiện trên tất cả các nội dung: Thể chế; tổ chức bộ máy; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,... Trong đó, cần tăng cường cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành chính trong giải quyết khiếu nại của nhân dân; thực hiện tốt việc tiếp nhận ý kiến, phản hồi của người dân. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính cần phải được đơn giản hóa và thông tin đầy đủ trên cổng thông tin điện tử của bộ, địa phương để tạo thuận lợi tối đa cho người dân, cơ quan, tổ chức nhằm tiết kiệm chi phí, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong cải cách thủ tục hành chính. Đặc biệt, cần chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó có yếu tố hết sức quan trọng là cải cách chế độ, chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức làm việc, nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ sự nghiệp công. Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm toán và hoạt động ngân hàng, cụ thể: + Về hoạt động kiểm toán: Tiến hành kiểm toán độc lập các hoạt động quản lý nợ hàng năm. + Về hoạt động ngân hàng: Đặc biệt tập trung vào tăng cao chất lượng cán bộ tín dụng. Cần phải hướng dẫn tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, chú trọng nghiệp vụ marketing, kỹ năng bán hàng, thương thảo hợp đồng và văn hoá kinh doanh. Đồng thời phải thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng ,chuyển sang bộ phận khác những cán bộ yếu về tư cách đạo đức, thiếu trung thực,những cán bộ tín dụng thiếu kiến thức chuyên môn nghiệp vụ. KẾT LUẬN Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 được châm ngòi từ tín dụng bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ, hoành hành thế giới suốt 3 năm qua tưởng đã tạm yên thì bước sang năm 2011, lại được châm thêm mồi lửa từ khủng hoảng nợ công. Nợ công đang bộc lộ những ảnh hưởng mang tầm vóc sâu rộng và nguy hiểm đối với nền tài chính toàn cầu, đến nỗi, giới phân tích cho rằng, thế giới sắp phải đón một "siêu bão tài chính mới”. Việt Nam là một nước đang phát triển, đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự tác động từ cuộc nợ công của Mỹ tuy không có tác động lớn nhưng nó đã để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm, những chính sách mang tính vĩ mô của chính phủ chắc chắn sẽ đưa lại những kết quả tốt, tránh cho Việt Nam lâm vào tình trạng nợ công như ở Mỹ. Quá trình nghiên cứu do giới hạn về thời gian, nguồn tài liệu nên không tránh khỏi tồn tại những thiếu sót. Mong nhận được sự đóng góp từ giảng viên. Nhóm xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ủng-hoảng-nợ-Hy-Lạp-Nguyên-nhân-và-tác-động-đến-vị-thế-đồng-tiền-chung-châu-Âu#ixzz1rVnwY2gt Thư Viện Điện Tử: www.KILOBOOKS.com VnEconomic- Diễn đàn kinh tế Việt Nam Báo điện tử thương nghiệp, thị trường Việt Nam baokinhte.vn tinkinhte.com MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ NỢ CÔNG 2 Khái quát chung 2 Khái niệm nợ công 2 Đặc trưng 3 II. Bản chất kinh tế của nợ công 4 III.Phân loại nợ công 6 Theo tiêu chí nguồn gốc địa lí của vốn vay 6 Theo phương thức huy động vốn 6 Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công 6 Theo trách nhiệm đối với chủ nợ 6 Theo cấp quản lí nợ 7 IV.Những tác động của nợ công 7 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN VIỆT NAM 9 I. Tổng quan tình hình nợ công thế giới 9 II. Nợ công của Mỹ 13 1. Diễn biến nợ công của Mỹ 13 2. Nguyên nhân 14 3. Hậu quả 15 III. Tác động đối với nền kinh tế Việt Nam 17 1. Ngành ngân hàng 19 2. Đầu tư trực tiếp (FDI) 19 3. Lĩnh vực xuất khẩu 19 4. Đối với nhóm hàng công nghiệp chế biến 21 5. Đối với bất động sản 22 6. Đối với thị trường chứng khoán 22 7. Đối với ngành du lịch 22 CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP ĐỂ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG NỢ CÔNG CỦA MỸ ĐẾN VIỆT NAM 23 I. Bài học đối với thế giới ..23 II. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 25 III. Một số đề xuất nhằm hạn chế ảnh hưởng của nợ công của Mỹ đến Việt Nam 28 1. Phát triển nội lực nền kinh tế 28 2. Xây dựng môi trường tài chính hiệu quả 29 KẾT LUẬN 31 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 32

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docno_cong_cua_my_va_anh_huong_cua_no_den_vn_0599.doc
Luận văn liên quan