Luận văn Phân tích thực trạng và những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Huyện Mỏ Cày

Hiện nay dù chi nhánh NHNo & PTNT Huyện MỏCày chưa có chính sách bảo hiểm tiền gửi cho khách hàng. Nhưng trong những năm tới thì chi nhánh Ngân hàng nên có chính sách mua bảo hiểm cho tài sản hình thành vốn vay hoặc mua bảo hiểm cho tài sản làm đảm bảo tín dụng. Đặc biệt chi nhánh Ngân hàng cần quan tâm hơn vềviệc mua bảo hiểm tiền gửi cho khách hàng vì đây là điều kiện đểcó thểthu hút được nhiều hình thức gửi tiền hơn. Đồng thời cũng tạo được lòng tin với khách hàng đểkhách hàng tin tưởng mà gửi tiền thay vì phải giữlại trong nhà. Từ đó sẽlàm cho nguồn huy động vốn của Ngân hàng ngày càng đa dạng và phong phú, đáp ứng được nhu cầu thi

pdf64 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2294 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích thực trạng và những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Huyện Mỏ Cày, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2 100 339.507 100 381.570 100 27.945 8,97 42.063 12,39 ( Nguồn: Phòng tín dụng NHNo & PTNT huyện Mỏ Cày) Năm 2005 38% 62% Ngắn hạn Trung dài hạn Năm 2006 63% 37% Ngắn hạn Trung dài hạn Năm 2007 66% 34% Ngắn hạn Trung dài hạn Hình 8: Dư nợ theo thời gian Dư nợ được xem như là một chỉ tiêu không thể thiếu trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Tuy nhiên mức mức dư nợ cao sẽ thể hiện được quy mô của Ngân hàng. Nhìn chung, tổng dư nợ của chi nhánh NHNo & PTNT Huyện Mỏ Cày điều tăng qua các năm. Năm 2005 tổng dư nợ đạt 311.562 triệu đồng trong đó ngắn hạn chiếm 62,45%, trung dài hạn 37,55% tổng dư nợ; đến năm 2006 đạt 339.507 triệu đồng tăng 27.945 triệu đồng với tỷ lệ 8,97% so với năm 2005. Riêng năm 2007 thì tổng dư nợ đạt 381.570 triệu đồng tăng 42.063 triệu đồng tương ứng 12,39% so với năm 2006. Sự tăng tổng dư nợ qua các năm là do Ngân hàng nắm bắt được nhu cầu vốn trên địa bàn, tình hình kinh tế huyện diễn ra sôi động nên nhu cầu vốn của khách hàng cũng tăng và hội đủ diều kiện để Ngân hàng cho vay nên đã được đáp ứng. Mặc khác, do chi nhánh Ngân hàng đã đề ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng theo hướng chậm mà chắc, Ngân hàng chỉ chú trọng đến việc mở rộng cho vay đối với những khách có nguồn tài sản đảm bảo và nguồn trả nợ chắc chắn, đồng thời duy trì việc cho vay đối với những khách hàng truyền thống, không cho vay theo lượng mà tiến hành sàn lọc khách hàng trước khi cho vay để hạn chế rủi ro. 4.2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG 4.2.1. Rủi ro nợ quá hạn theo thời gian Bảng 6: NỢ QUÁ HẠN THEO THỜI GIAN ĐVT: Triệu đồng Năm Chênh lệch 2005 2006 2007 2006/2005 2007/2006 Chỉ tiêu Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền % Số tiền % Ngắn hạn 584 570 2.514 -14 -2,40 1.944 341,05 Trung dài hạn 1.170 1.363 1.302 193 16,50 -61 -4,48 Tổng 1.754 1.933 3.816 179 10,21 1.883 97,41 ( Nguồn: Phòng tín dụng NHNo & PTNT huyện Mỏ Cày) 0 500 1.000 1.500 2.000 2.500 3.000 2005 2006 2007 Năm T ri ệu đ ồn g Ngắn hạn Trung dài hạn Hình 9: Nợ quá hạn theo thời gian Nợ quá hạn là một vấn đề mà các Ngân hàng đặc biệt quan tâm. Mức độ rủi ro tín dụng là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng, nợ quá hạn càng cao thì nó phản ánh hiệu quả hoạt động của Ngân hàng càng kém và ngược lại chỉ số này càng nhỏ thì hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng càng cao. Một Ngân hàng muốn tăng trưởng dư nợ một cách an toàn, hiệu quả thì trước hết phải đảm bảo giảm thiểu rủi ro tín dụng xuống mức thấp nhất. Vì thế chúng ta thường đi sâu phân tích, xem xét tình hình nợ quá hạn để có thể đánh giá được chất lượng của những khoản nợ vay tại Ngân hàng. Cụ thể: Nợ quá hạn ngắn hạn Qua bảng số liệu trên ta thấy nợ quá hạn đang có xu hướng tăng, năm 2006 chỉ tiêu này là 570 triệu đồng giảm 14 triệu đồng, tỷ lệ giảm 2,40% so với năm 2005. Nhưng năm 2007 thì chỉ số này lại tăng khá lớn 2.514 triệu đồng tăng 1.944 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 341,05% so với năm 2006. Nguyên nhân do việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất còn mới mẽ, thiếu kinh nghiệm sản xuất mô hình sản xuất còn phân tán, chất lượng sản phẩm không đồng đều, sức cạnh tranh sản phẩm yếu, người sản xuất lúng túng trước sự biến động giá, thời tiết không thuận lợi. Do đó, nó gây khó khăn đến tình hình tài chính, làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Nợ quá hạn trung dài hạn Nợ quá hạn trung dài hạn cũng không ổn định lúc tăng lúc giảm nhưng tỷ lệ giảm thì lại rất thấp. Cụ thể: Năm 2006 nợ quá hạn trung dài hạn là 1.363 triệu đồng, tăng 193 triệu đồng ứng với tỷ lệ là 16,50% so với năm 2005 là 1.170 triệu đồng. Tuy nợ quá hạn năm 2007 đã giảm so với năm 2006 chỉ còn 1.302 triệu đồng, giảm với tỷ lệ là 4.48 % tức là giảm với giá trị là 61 triệu đồng. Nguyên nhân chủ yếu là thị trường trong năm không ổn định, có nhiều sự biến động đặc biệt là biến động về giá cả đã làm cho nhiều đơn vị kinh doanh gặp nhiều khó khăn trong việc thanh toán tiền với nhau hoặc trả gối đầu, nên các đơn vị không có đủ nguồn tài chính để trả cho Ngân hàng đúng hạn. Ngoài ra, năm 2005 theo quyết định 493/2005/QĐ_ NHNN Quyết định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng. Đây là quyết định đưa hoạt động tín dụng tiếp cận dần đến các chuẩn mực quốc tế, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động cho vay thu nợ, dự phòng, chi phí và lợi nhuận của các NHTM. Cho vay thực hiện theo quy định và hướng dẫn chuyển nợ quá hạn của Ngân hàng Nhà nước là đối với những món vay ngắn hạn nếu vượt thời hạn cho vay 10 ngày làm việc, nếu khách hàng không trả gốc và lãi kịp thời như đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng mà không cho gia hạn nợ gốc và lãi thì Ngân hàng thực hiện chuyển nợ quá hạn; còn đối với món vay trung – dài hạn, nếu quá hạn 1 kỳ trả nợ đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng nếu Ngân hàng không cho điều chỉnh kỳ hạn trả nợ thì Ngân hàng lập tức chuyển toàn bộ số nợ gốc sang nợ quá hạn dẫn đến nợ quá hạn tăng cao. Với việc áp dụng phân loại nợ theo qui định mới làm tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của NHNo & PTNT chi nhánh Huyện Mỏ Cày cũng như các NHTM khác tăng cao so với trước. Nhìn chung, tỷ lệ nợ quá hạn qua các năm luôn có sự biến động tương đối nhưng vẫn đạt tiêu chuẩn của Ngân hàng cấp trên đề xuống. 4.2.2. Rủi ro nợ quá hạn theo thành phần kinh tế Bảng 7: NỢ QUÁ HẠN THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ ĐVT: Triệu đồng Năm Chênh lệch 2005 2006 2007 2006/2005 2007/2006 Chỉ tiêu Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền % Số tiền % Doanh nghiệp tư nhân 53 30 64 -23 -43,40 34 113,33 Hộ sản xuất kinh doanh 1.684 1.890 3.740 206 12,23 1.850 97,88 Nợ quá hạn khác 17 13 12 -4 -23,53 -1 -7,69 Tổng 1.754 1.933 3.816 179 10,21 1.883 97,41 ( Nguồn: Phòng tín dụng NHNo & PTNT huyện Mỏ Cày) 53 1.684 17 30 1.890 13 64 3.740 12 0 500 1.000 1.500 2.000 2.500 3.000 3.500 4.000 Triệu đồng 2005 2006 2007 Năm Doanh nghiệp tư nhân Hộ sản xuất kinh doanh Nợ quá hạn khác Hình 10: Nợ quá hạn theo thành phần kinh tế Qua biểu đồ trên cho thấy rủi ro có thể xảy ra ở bất cứ ngành nào, tỷ trọng cao hay thấp đặc biệt trong hộ sản xuất kinh doanh chiếm tỷ lệ nợ quá hạn rất cao. Doanh nghiệp tư nhân Năm 2005 nợ quá hạn là 53 triệu đồng, sang năm 2006 thì chỉ số này giảm 23 triệu đồng tương ứng tỷ lệ giảm là 43,40% so với năm 2005. Sự giảm chỉ số nợ quá hạn cho thấy hoạt động của Ngân hàng có hiệu quả tất cả là sự cố gắng và nỗ lực của cán bộ tín dụng trong việc thẩm định và cho vay. Nhưng đến năm 2007 thì tỷ lệ nợ quá hạn lại tăng lên 64 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 113,33% so với năm 2006. Nguyên nhân sự tăng của nợ quá hạn đó là do kinh tế Huyện nhà phát triển nhiều doanh nghiệp tư nhân được thành lập nên nhu cầu vốn cao. Mặc khác, trong năm qua thời tiết không được thuận lợi nên đã làm cho việc kinh doanh không hiệu quả từ đồng vốn vay của Ngân hàng nên các doanh nghiệp không thể thực hiện đúng trách nhiệm trả nợ khi đến hạn. Hộ sản xuất kinh doanh Huyện Mỏ Cày là Huyện có kinh tế nông nghiệp chiếm tỷ trọng khá cao, vì thế hoạt động tín dụng của Ngân hàng đối với thành phần này cũng rất lớn và khả năng xảy ra rủi ro cũng không thấp, từ bảng số liệu trên ta thấy nợ quá hạn đối với thành phần này tăng liên tục qua các năm. Cụ thể: Năm 2005 chỉ số nợ quá hạn là 1.684 triệu đồng, đến năm 2006 thì lại tiếp tăng 1.890 triệu đồng tăng 206 triệu đồng so với năm 2005 ứng với tỷ lệ tăng 12,23%. Riêng năm 2007 thì nợ quá hạn lại tăng lên đáng kể 3.740 triệu đồng tăng 1.850 triệu đồng với tỷ lệ tăng 97,88% so với năm 2006. Do thời tiết diễn biến phức tạp làm mất mùa, làm ăn thua lỗ do dịch cúm bùng phát đã làm cho người dân không trả nợ đúng kỳ hạn. Nợ quá hạn khác Đối với thành phần này thì nợ quá hạn qua các năm đã giảm nhưng cũng chỉ tương đối. Năm 2005 nợ quá hạn là 17 triệu đồng, sang năm 2006 chỉ còn 13 triệu đồng giảm 4 triệu đồng, ứng tỷ lệ 23,53% so với năm 2005. Đến năm 2007 thành phần này cón 12 triệu đồng giảm 1 triệu đồng với tỷ lệ giảm là 7,69% so với năm 2006. Nguyên nhân chủ yếu là do sự biến động của của giá cả nguyên vật liệu trên thị trường, thanh toán hợp đồng của các doanh nghiệp, công ty chậm. Vì thế mà họ không trả nợ kịp cho Ngân hàng. Nhìn chung, ở đây bất kỳ món vay nào khâu thẩm định là rất quan trọng, không những cán bộ tín dụng xem xét phương án sản xuất kinh doanh khả thi hay không mà còn phải đánh giá được tình hình tài chính khách hàng, cuối cùng là tài sản đảm bảo có ổn định, có dễ bị mất giá trị hay dễ dàng phát mãi hay không, tuy nhiên cũng không nên đặt nặng vào các tài sản thế chấp. Điều này sẽ giúp cho cán bộ tín dụng thu hồi được nợ quá hạn nhanh chóng, kịp thời làm giảm nợ quá hạn. 4.2.3. Phân tích nợ quá hạn theo nguyên nhân Bảng 8: NỢ QUÁ HẠN THEO NGUYÊN NHÂN ĐVT: Triệu đồng Năm Chênh lệch 2005 2006 2007 2006/2005 2007/2006 Chỉ tiêu Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền % Số tiền % Do thiên tai, dịch bệnh 550 960 1.833 410 74,55 873 90,93 Do kinh doanh thua lỗ 850 690 1.503 -160 -18,82 813 117,83 Nguyên nhân khác 354 283 480 -71 -20,06 197 69,61 Tổng 1.754 1.933 3.816 179 10,21 1.883 97,41 ( Nguồn: Phòng tín dụng NHNo & PTNT huyện Mỏ Cày) 550 850 354 960 690 283 1.833 1.503 480 0 200 400 600 800 1000 1200 1400 1600 1800 2000 Triệu đồng 2005 2006 2007 Năm Do thiên tai, dịch bệnh Do kinh doanh thua lỗ Nguyên nhân khác Hình 11: Nợ quá hạn theo nguyên nhân Thiên tai, dịch bệnh Đây là nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Rõ ràng, những hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp rất cực nhọc vì phải chịu quá nhiều rủi ro (thời tiết, môi trường, giá cả đầu vào, đầu ra). Phải khẳng định rằng, trên tầm vĩ mô thị trường giá cả nông sản thế giới thường xuyên biến động: hàng nông sản mất giá,….Trong sản xuất, đa số là hộ nông dân trình độ canh tác bảo quản sản phẩm chưa tiên tiến còn lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ dừng ở mức kìm chế, sự đổi mới và hoàn thiện vẫn trong quá trình thực hiện, do đó lĩnh vực nông nghiệp gặp nhiều rủi ro nhất cho người sản xuất kéo theo tình trạng tồn đọng vốn, rủi ro cho Ngân hàng là tất yếu. Đến cuối năm 2005 số dư nợ quá hạn là 550 triệu đồng. Đến năm 2006 thì tăng lên 960 triệu đồng tăng 410 triệu đồng (tỷ lệ tăng 74,55%) so với năm 2005. Sự tăng đột ngột của dư nợ trong năm 2007 đã kéo theo sự tăng lên của nợ quá hạn do thiên tai, dịch bệnh là 1.833 triệu đồng tăng 873 triệu đồng ứng tỷ lệ 90,93% so với năm 2006. Do thiên tai nên đã làm cho việc thu hồi vốn của khách hàng gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng đến công tác thu hồi nợ đến hạn của Ngân hàng. Kinh doanh thua lỗ Năm 2005 nợ quá hạn chiếm 850 triệu đồng, đến năm 2006 giảm 160 triệu đồng tương đương 18,82% so với 2005, năm 2007 thì tăng 117,83% tương đương số tiền là 813 triệu đồng. Nguyên nhân do bước đầu đi vào sản xuất kinh doanh các hộ kinh doanh thường không có trình độ chuyên môn cao, hạn chế kiến thức khoa học kỹ thuật, chưa có kiến thức sâu rộng về vấn đề kinh doanh, đồng thời cũng không nắm bắt được tình hình kinh tế thị trường. Mặc khác, sự gia tăng này là do việc mở rộng sản xuất kinh doanh quá mức dẫn đến tình trạng không quản lý nổi dự án, việc quản lý kiểm soát không chặt chẽ hoặc hộ vay chỉ chú tâm vào sản xuất không nghiên cứu đầu ra sản phẩm làm cho lợi nhuận thấp, chi phí cao, không đủ trả nợ Ngân hàng. Nguyên nhân khác Năm 2005 nợ quá hạn là 354 triệu đồng, năm 2006 là 283 triệu đồng giảm 71 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ là 20,06% so với 2005. Nguyên nhân là do khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, còn hạn chế ở ý thức sử dụng vốn vay, khi vay chỉ mong vay vốn được nhiều, đến lúc sử dụng vốn lại phân tán không định hướng, lại rất thoải mái trong chi tiêu, từ đó khách hàng sử dụng vốn vay không mang lại lợi ích trực tiếp cho hộ vay. Đến 2007, nợ quá hạn tăng 197 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 69,61% so với 2006, tốc độ tăng cao nhất trong 2 năm 2005 và 2006. Tuy nhiên, vẫn có một số khách hàng do ý thức chấp hành pháp luật không tốt, mặt bằng dân trí thấp, ý thức chấp hành vay trả Ngân hàng chưa có, cố tình kỳ kèo không trả nợ. Một số cố tình lừa đảo bằng những thủ đoạn được xác định trước khi quan hệ vay vốn với Ngân hàng, ví dụ như: một thửa đất 2 giấy chứng nhận thế chấp vay ở 2 tổ chức tín dụng, sau khi vay vốn tiến hành sang bán, cầm cố tài sản đang còn thế chấp cho Ngân hàng, đó là do chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa địa phương và Ngân hàng. 4.2.4. Phân tích tình hình xử lý nợ rủi ro (RR) Bảng 9: BẢNG TỔNG HỢP XỬ LÝ RỦI RO ĐVT: Triệu đồng Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Chỉ tiêu Nợ đã xử lý RR Số thu được Nợ đã xử lý RR Số thu được Nợ đã xử lý RR Số thu được Nợ có tài sản đảm bảo 1.189 998 1.233 1.085 2.586 1.465 Nợ không có tài sản đảm bảo 565 500 700 675 1.230 950 Tổng 1.754 1.498 1.933 1.760 3.816 2.415 ( Nguồn: Phòng tín dụng NHNo & PTNT huyện Mỏ Cày) 0 500 1.000 1.500 2.000 2.500 3.000 Triệu đồng 2005 2006 2007 Năm Nợ có tài sản đảm bảo Nợ không có tài sản đảm bảo Hình 12: Biểu đồ nợ xử lý rủi ro Qua bảng xử lý nợ rủi ro ta thấy các khoản nợ đã xử lý rủi ro đối với nợ có tài sản đảm bảo có tỷ lệ cao so với nợ không có tài sản đảm bảo. Nguyên nhân do nợ không có tài sản đảm bảo là món vay của đa số hộ nghèo, họ có trình độ sản xuất thấp kém, thường làm ăn thua lỗ và tiềm ẩn rủi ro cao hơn nợ có tài sản đảm bảo và Ngân hàng sẽ hạn chế đến mức thấp nhất các khoản vay mà không có tài sản thế chấp. Song, đối với các khoản vay không có tài sản đảm bảo thì cán bộ tín dụng Ngân hàng luôn dùng những biện pháp để tận thu, nếu không thực hiện được thì mới đề nghị Ngân hàng cấp trên xử lý rủi ro theo quy định. Tuy nhiên, việc thu hồi nợ xử lý RR vẫn chưa triệt để: năm 2005 số thu là 1.498 triệu đồng với tỷ lệ đạt 85,40%. Năm 2006 đạt 1.760 triệu đồng đạt tỷ lệ 91,05% tốc độ đôn đốc thu hồi nợ có phần nhanh hơn so với năm 2005, sang 2007 đạt 2.415 triệu đồng chiếm tỷ lệ là 63,29%. Nguyên nhân do sự phối hợp giữa Ngân hàng và các ngành chức năng chưa mang tính kịp thời để xử lý tài sản thế chấp đối với những hộ mất khả năng thanh toán nên đã làm cho tốc độ thu hồi nợ đã xử lý của Ngân hàng chậm hơn so với năm 2005 và năm 2006. Song song với những điều đó thì còn có những vướng mắc mang tính xã hội cũng như hộ vay quá khó khăn gây ảnh hưởng tâm lý của các cơ quan pháp luật không muốn đi đến giải pháp thi hành đối với hộ vay đó, nhiều món vay thì tài sản thế chấp phần lớn là đất sản xuất nông nghiệp ít ỏi. Việc lựa chọn giải pháp thu hồi nợ xử lý RR là một vấn đề nan giải của hầu hết các Ngân hàng mà đặc biệt là chi nhánh NHNo & PTNT Huyện Mỏ Cày. Mặc dù vậy, cán bộ tín dụng Ngân hàng vẫn cố gắng tìm mọi biện pháp linh hoạt nhất để thu hồi nợ tồn đọng, chủ yếu từ biện pháp vận động trực tiếp khách hàng tuyên truyền sâu rộng trong tâm lý người vay hiểu rõ được lợi ích và quyền lợi hợp pháp, nghĩa vụ cụ thể. Từ đó, hộ vay có hướng chí thú làm ăn khắc phục rủi ro. Làm sao thu được những khoản nợ tồn đọng một cách tối ưu và giảm thiểu nợ tồn đọng là một trong những tiêu chí của Ban lãnh đạo Ngân hàng nhằm đưa tình hình tài chính của chi nhánh luôn lành mạnh và khởi sắc, thu nhập ngày càng cao đáp ứng được kế hoạch kinh doanh và uy tín thương hiệu Ngân hàng. 4.2.5. Trích lập dự phòng của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Mỏ Cày Bảng 10: BẢNG TRÍCH LẬP DỰ PHÒNG RỦI RO ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số quỹ trích lập 1.936 2.392 5.385 Số quỹ còn lại 3.330 4.385 8.000 ( Nguồn: Phòng tín dụng NHNo & PTNT huyện Mỏ Cày) Tuy nợ quá hạn của chi nhánh tăng qua các năm nhưng chi nhánh Ngân hàng đã thực hiện việc trích dự phòng rủi ro đúng quy định theo quyết định 493/2005/QĐ – NHNN. Trong 2 năm 2005 và năm 2006 thì nợ xấu không chỉ có nhóm 3, nhóm 4, và nhóm 5 mà bao gồm thêm một phần nợ trong nhóm 2, từ năm 2007 khi có quyết định mới thì nợ xấu của chi nhánh chỉ còn nợ thuộc nhóm 3, nhóm 4 và nhóm 5. Từ bảng số liệu trên thì việc trích lập quỹ qua các năm của chi nhánh Ngân hàng tăng qua các năm, đồng thời số quỹ còn lại cũng tăng. Cụ thể: Năm 2005 số qũy trích lập là 1.936 triệu đồng, và số quỹ còn lại là 3.330 triệu đồng. Năm 2006 số qũy trích lập là 2.392 triệu đồng, với số quỹ hiện còn là 4.385 triệu đồng, mặc dù trong năm 2007 nợ quá hạn tăng đáng kể so với những năm qua nhưng việc trích lập cũng không thấp là 5.385 triệu đồng trong khi đó số quay hiện còn là 8.000 triệu đồng. Từ kết quả trên cho ta thấy hoạt động tín dụng của chi nhánh NHNo & PTNT huyện Mỏ Cày ngày càng được mở rộng và đa dạng hoá các hình thức dịch vụ, đó là do sự lãnh đạo đúng đắn của Ban Giám Đốc chi nhánh và sự nỗ lực hết mình của cán bộ Ngân hàng đặc biệt là cán bộ tín dụng. 4.3. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG TRONG 3 NĂM (2005 – 2007) THÔNG QUA CÁC CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH Bảng 11: CÁC CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng nguồn vốn Triệu đồng 313.614 350.550 381.796 Vốn huy động Triệu đồng 151.100 138.300 203.000 Doanh số cho vay Triệu đồng 323.389 369.000 292.789 Tổng dư nợ Triệu đồng 311.562 339.507 381.570 Doanh số thu nợ Triệu đồng 277.000 341.055 258.249 Dư nợ bình quân Triệu đồng 288.368 325.535 360.538 Vốn huy động/ Tổng nguồn vốn % 48,18 39,45 53,17 Mức độ rủi ro tín dụng % 0,56 0,57 1,00 Vòng quay vốn tín dụng vòng 0,96 1,05 0,72 Hệ số thu nợ % 85,66 92,43 88,20 Tỷ lệ tổng dư nợ / vốn huy động lần 2,06 2,45 1,88 Thời gian thu nợ bình quân ngày 375 344 503 ( Nguồn: Phòng tín dụng NHNo & PTNT Huyện Mỏ Cày) Vốn huy động trên tổng nguồn vốn Chỉ tiêu này cho biết trong tổng nguồn vốn có bao nhiêu tỷ lệ % là vốn huy động tại địa phương, tỷ lệ này càng cao càng tốt. Tỷ lệ này của NHNo & PTNT Huyện Mỏ Cày nhìn chung tăng qua 3 năm. Cụ thể, năm 2005 tỷ lệ này là 48,18%, năm 2006 là 39,45% và năm 2007 tăng vọt lên 53,17%. Tỷ lệ vốn huy động trên tổng nguồn vốn năm sau cao hơn năm trước là một tín hiệu rất đáng mừng. Điều này cho thấy Ngân hàng đã chủ động được phần nào nguồn vốn huy động, góp phần chia sẻ tốt nhiệm vụ cho vay với nguồn vốn điều chuyển từ Ngân hàng cấp trên. Mức độ rủi ro tín dụng Chỉ số này giúp đo lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng, chỉ số này càng lớn càng không tốt. Năm 2005 là 0,56%, sang năm 2006 chỉ số này tăng lên 0,57%, đến năm 2007 là 1,00% . Dư nợ tăng dần là điều tốt, tuy nhiên tỷ lệ nợ quá hạn cũng tăng dần theo làm cho chất lượng tín dụng của Ngân hàng giảm dần. Tuy tỷ lệ nợ quá hạn qua 3 năm vẫn ở dưới mức cho phép của NHNo & PTNT huyện Mỏ Cày là 1% và Ngân hàng Nhà Nước là 5%. Tuy nhiên, trong năm 2007 chi nhánh NHNo & PTNT Huyện đã chạm mức cho phép của Ngân hàng. Do đó chi nhánh cần phải tiếp tục phát huy hiệu quả của công tác thu nợ như hiện nay để hạn chế nợ quá hạn. Vòng quay vốn tín dụng Chỉ tiêu này đo lường tốc độ luân chuyển vốn của Ngân hàng, phản ánh số vốn đầu tư được quay vòng nhanh hay chậm, chỉ số này càng lớn thì càng có lợi cho Ngân hàng. Vòng quay vốn tín dụng của Ngân hàng luôn biến động, năm 2005 là 0,96 vòng, sang năm 2006 tiếp tục tăng lên đạt 1,05 vòng tăng 0,09 vòng so với năm 2005, và đến năm 2007 nó đã giảm xuống và đạt 0,72 vòng. Vòng quay vốn của chi nhánh đã giảm trong năm 2007 điều này do công tác thu nợ của Ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn vì các nguyên nhân khách quan.Vì thế Ban lãnh đạo Ngân hàng cần phải có chính sách tích cực hơn cho công tác thu nợ năm sau. Hệ số thu nợ Hệ số thu nợ phản ánh khả năng thu hồi nợ của Ngân hàng đối với các khoản cho vay, hay khả năng trả nợ của khách hàng cho Ngân hàng. Chỉ số này càng cao thì tiến trình thu nợ của Ngân hàng đạt được hiệu quả cao và ngược lại. Tình hình thu nợ của Ngân hàng được cải thiện qua từng năm. Năm 2005 hệ số thu nợ của Ngân hàng là 85,66%, đây là một con số khá cao, tuy nhiên không thể khẳng định Ngân hàng chưa thực hiện tốt công tác thu hồi nợ, mà trái lại Ngân hàng còn thực hiện rất tốt. Sang năm 2006 sau khi Ngân hàng áp dụng chính sách gắn trách nhiệm của mỗi cán bộ tín dụng đối với từng khoản cho vay của mình, Ngân hàng kết hợp với chính quyền địa phương thường xuyên đôn đốc và nhắc nhở khách hàng trong việc trả nợ cho Ngân hàng… thì tình hình được cải thiện đáng kể, cụ thể như sau: năm 2006 hệ số thu nợ của ngân hàng tăng lên 92,43% và năm 2007 chỉ số này có giảm nhưng cũng không đáng kể và đạt 88,20% Tỷ lệ tổng dư nợ / vốn huy động Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng đồng vốn huy động của Ngân hàng. Nó giúp so sánh khả năng cho vay của Ngân hàng với nguồn vốn huy động được. Chỉ tiêu này quá lớn hay quá nhỏ đều không tốt, bởi vì nếu chỉ tiêu này quá lớn thì cho thấy khả năng huy động vốn của Ngân hàng thấp, ngược lại nếu chỉ tiêu này quá nhỏ cho thấy Ngân hàng đã sử dụng vốn huy động ngày càng không có hiệu quả. Thực tế như bảng số liệu trên thì chỉ tiêu này có xu hướng tăng dần. Cụ thể: Năm 2005 bình quân 2,06 đồng dư nợ mới có 1 đồng vốn huy động tham gia, sang năm 2006 công tác huy động vốn có xu hướng giảm dẫn đến bình quân 2,45 đồng dư nợ thì có 1 đồng vốn huy động tham gia. Điều này không có nghĩa Ngân hàng không khai thác triệt để nguồn vốn huy động của chi nhánh mà là do doanh số thu nợ tăng làm cho dư nợ trong năm tăng không kịp với tốc độ tăng của nguồn vốn huy động, nhưng ở năm 2007 bình quân 1,88 đồng dư nợ thì lại có 1 đồng vốn huy động, trong năm qua Ngân hàng đã quan tâm hơn về lãi suất huy động đã thu hút triệt để tiền nhàn rỗi trong dân cư lầm cho nguồn vốn huy động có hiệu quả hơn 2 năm qua. Thời gian thu nợ bình quân Đây là chỉ tiêu phản ánh tốc độ thu hồi nợ là nhanh hay chậm về mặt thời gian, chỉ tiêu này càng nhỏ thì khả năng thu hồi nợ của Ngân hàng càng cao, tốc độ luân chuyển vốn của Ngân hàng càng nhanh. Trong 3 năm qua tốc độ thu hồi nợ của Ngân hàng không ổn định. Cụ thể năm 2005 chi nhánh cần phải có thời gian là 375 ngày mới có thể thu hồi hết nợ của khách hàng, đến năm 2006 thì thời gian giảm xuống điều này chứng tỏ chi nhánh Ngân hàng đã có những chính sách tích cực để nhanh chóng thu hồi nợ làm cho đồng vốn của Ngân hàng luân chuyển nhanh hơn, đáp ứng kịp cho sản xuất và tái sản xuất. Nhưng năm 2007 do thời tiết không thuận lợi nên đã làm cho công tác thu hồi nợ của Ngân hàng gặp khó khăn và thời gian thu hồi nợ giàn trãi ra dài hơn so với năm 2006 là 159 ngày, đã làm cho nguồn vốn của Ngân hàng luân chuyển chậm. Tóm lại, qua việc phân tích các chỉ tiêu tài chính, có thể nhận thấy tình hình hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHNo & PTNT Huyện Mỏ Cày là khá tốt, mạng lưới tín dụng ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên, Ngân hàng cần phát huy tích cực hơn nữa công tác huy động vốn tại chỗ để tương xứng với quy mô tín dụng hiện có, giảm bớt gánh nặng tín dụng cho nguồn vốn điều chuyển từ Hội sở. Riêng về vấn đề nợ quá hạn, đây là khó khăn chung của rất nhiều Ngân hàng; mặc dù vậy, chi nhánh NHNo & PTNT Huyện Mỏ Cày trong thời gian tới cần chủ động nâng cao hiệu quả của công tác thu nợ để cho đồng vốn của chi nhánh được đảm bảo an toàn, luân chuyển nhanh mang lại nhiều lợi nhuận cho chi nhánh Ngân hàng. ™ Những thiệt hại do rủi ro tín dụng gây ra Thiệt hại đối với Ngân hàng Trên thực tế, nguồn vốn hoạt động chủ yếu của Ngân hàng là nguồn vốn huy động, tỷ lệ vốn tự có chiếm rất nhỏ trong tổng nguồn vốn. Do đó, đối với một Ngân hàng việc không thu hồi được nợ hoặc không thu hồi nợ đúng hạn không những gây khó khăn cho Ngân hàng mà ngày càng giảm đi nguồn vốn tự có của Ngân hàng vốn đã nhỏ bé. Điều đó, ảnh hưởng đến công tác huy động vốn về quy mô, lẫn lòng tin của khách hàng dành cho Ngân hàng, gây khó khăn trong hoạt động kinh doanh và mở rộng quy mô hoạt động để cùng cạnh tranh với các Ngân hàng khác trên địa bàn. Sự tổn thất của Ngân hàng khi có rủi ro xảy ra có thể là các thiệt hại về vật chất hoặc uy tín của Ngân hàng. Rủi ro tín dụng sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng như: Thiếu tiền chi trả cho khách hàng vì phần lớn nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng là nguồn vốn huy động, mà Ngân hàng không thu hồi được nợ gốc và lãi cho vay thì khả năng thanh toán của Ngân hàng dần dần lâm vào tình trạng thiếu hụt. Đồng thời, lợi nhuận của Ngân hàng sẽ giảm thấp và tùy theo mức độ rủi ro nặng nhẹ mà ảnh hưởng nhiều hoặc ít đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nếu tỷ lệ rủi ro tăng cao sẽ dẫn đến việc mất ổn định tình hình tài chính, chênh lệch thu – chi sẽ âm. Như vậy, rủi ro tín dụng sẽ làm cho Ngân hàng mất cân đối trong việc thanh toán, dần làm cho Ngân hàng thua lỗ và có nguy cơ bị phá sản. Thiệt hại đối với nền kinh tế Hoạt động của Ngân hàng có liên quan đến hoạt động của toàn bộ nền kinh tế, đến tất cả các khách hàng có quan hệ với Ngân hàng: khách hàng gửi và vay tiền. Vì vậy rủi ro tín dụng xảy ra nó không chỉ làm phá sản một Ngân hàng, mà nó kéo theo một loạt các Ngân hàng khác và tạo cho dân chúng một tâm lý sợ hãi. Lúc đó dân chúng sẽ đổ xô đến Ngân hàng để rút tiền trước thời hạn. Điều này có thể đưa đến phá sản đồng loạt các Ngân hàng. Khi đó, rủi ro tín dụng sẽ tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Như vậy, rủi ro tín dụng là vấn đề rất nghiêm trọng mà Chính phủ các nước phải quan tâm, đặt biệt là Ngân hàng trung ương phải có chính sách khuyến cáo thường xuyên thông qua công tác thanh tra kiểm soát, chiết khấu, tái chiết khấu và sẵn sàng hổ trợ vốn cho các Ngân hàng thương mại khi có các biến cố rủi ro xảy ra. 4.4. CÁC NGUYÊN NHÂN LÀM PHÁT SINH RỦI RO TÍN DỤNG 4.4.1. Nguyên nhân bên trong a) Các nguyên nhân phát sinh từ phía Ngân hàng - Do công tác tổ chức, quản lý thiếu sót của cấp lãnh đạo Ngân hàng hoặc do năng lực, trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng Ngân hàng còn hạn chế. Do đó, thẩm định sai, đánh giá không đúng hoặc thu thập thông tin chưa sát về khách hàng, không thực hiện quy trình cho vay đầy đủ, công tác kiểm tra – kiểm toán nội bộ không chặt chẽ. - Do Ngân hàng chưa thích nghi được với điều kiện cạnh tranh, dễ phát sinh những món vay chủ quan. - Do tình trạng nhân viên ngân hàng chưa thực hiện nghiêm túc quy chế – chế độ và đạo đức nghề nghiệp, dẫn đến sa ngã, không quan tâm đến chất lượng tín dụng nên dễ gặp phải những khoản vay có chất lượng thấp. - Do ngân hàng chạy theo lợi nhuận, đặt mong ước về lợi nhuận cao hơn các khoản cho vay lành mạnh. - Do chưa làm tốt công tác phổ biến tuyên truyền cho vay lưu vụ, thông báo những thông tin cần thiết đến khách hàng. - Ngân hàng vi phạm các nguyên tắc cho vay, cho vay vượt tỷ lệ an toàn, thiếu tài sản thế chấp và cầm cố, cho vay khống… b) Các nguyên nhân từ phía khách hàng - Do khách hàng cố ý lừa đảo ngay từ khi làm hồ sơ vay vốn. Trong trường hợp này khách hàng đã chuẩn bị từ trước, từ các thủ tục pháp lý, phương án kinh doanh đến các báo cáo tài chính giả,… hoặc khách hàng có đủ thủ tục pháp lý nhưng cố ý man trá vấn đề thế chấp tài sản (một giấy chứng nhận tài sản đi thế chấp ở nhiều Ngân hàng) và nếu cán bộ Ngân hàng không phát hiện ra thì việc cho vay vốn sẽ tổn thất cho Ngân hàng. - Do kỹ năng lao động của khách hàng hoặc trình độ quản lý của doanh nghiệp, khách hàng còn yếu kém, không có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả dẫn đến thua lỗ, thất bại hoặc do khách hàng là hộ cá thể chuyển đổi cây trồng vật nuôi chưa nắm được các yếu tố biến động sản phẩm đầu ra, doanh nghiệp chưa thích nghi với môi trường kinh doanh mới. Một số khác có thể sử dụng khoản vay sai mục đích so với dự án đã được lập ban đầu để đầu tư vào những lãnh vực nhiều rủi ro như cho vay với lãi suất cao hơn và không thu hồi được. - Khách hàng có tư tưởng bao cấp ỷ lại, mong chờ xoá nợ. - Ngoài ra, còn có những nguyên nhân khách quan mà Ngân hàng không thể tránh khỏi như thiên tai, hỏa hoạn, lũ lụt trên diện rộng, ảnh hưởng chung của nền kinh tế, chính sách thay đổi, thị trường biến động ngoài dự đoán…làm cho công việc kinh doanh của khách hàng gặp nhiều khó khăn, đình trệ không thể thanh toán các khoản nợ cho ngân hàng. c) Các nguyên nhân do đảm bảo tín dụng - Đảm bảo đối nhân: nếu người bảo lãnh gặp phải những tình huống chủ quan hay khách quan như đã trình bày ở trên thì người bảo lãnh có thể không có khả năng thực hiện những lời cam kết của mình, tức là không có khả năng thay mặt người vay trả nợ cho ngân hàng đầy đủ cả gốc và lãi. - Đảm bảo đối vật: rủi ro tín dụng xảy ra liên quan đến vật dùng thế chấp và cầm cố nợ vay khi gặp phải những trường hợp sau: việc đánh giá tài sản thế chấp và cầm cố không chính xác; tài sản thế chấp và cầm cố không tiêu thụ được; tài sản thế chấp, cầm cố không được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật nên không thể phát mãi; tài sản thế chấp cầm cố bị hỏa hoạn hoặc bị cấm lưu thông. 4.4.2. Nguyên nhân bên ngoài a) Các nguyên nhân khách quan Môi trường hoạt động kinh doanh: hoạt động kinh doanh của Ngân hàng có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Vì vậy môi trường hoạt động kinh doanh thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Khi môi trường hoạt động kinh doanh phát triển không thuận lợi sẽ tạo nên rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng mà đặc biệt là hoạt động tín dụng. Lạm phát hoặc suy thoái kinh tế sẽ gây khó khăn trong hoạt động ngân hàng làm ảnh hưởng đến tâm lý khách hàng về độ an toàn của tiền gửi. Các quy định của Ngân hàng nhà nước và các cơ quan chức năng không thích hợp gây trở ngại trong kinh doanh của Ngân hàng trên địa bàn. Môi trường pháp lý chưa đồng bộ và đầy đủ, thủ tục thế chấp tài sản, giấy tờ sở hữu, tổ chức phát mãi tài sản chưa đảm bảo an toàn vốn cho Ngân hàng. Ngoài ra tình hình kinh tế chính trị bên ngoài không ổn định cũng có thể gây ảnh hưởng đến tình hình chung của một quốc gia, mất cân bằng trong cán cân thanh toán, tỷ giá hối đoái biến động thất thường sẽ làm rủi ro tín dụng tăng cao. Đồng thời bão lụt, hạn hán, động đất cũng làm cho các Ngân hàng có liên quan gặp rủi ro. b) Các nguyên nhân có liên quan đến yếu tố pháp lý Trong quan hệ vay vốn giữa Ngân hàng và khách hàng do ảnh hưởng của các văn bản không đồng bộ và nhất quán dẫn đến những khó khăn liên quan đến hoạt động tín dụng: Đối với kinh tế tư nhân và cá thể theo quy định của NHNo & PTNT Huyện Mỏ Cày thì món vay có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên phải làm thủ tục thế chấp tài sản. Tuy nhiên, phần lớn tài sản thế chấp của DNTN và hộ gia đình là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa được cấp đầy đủ, đông nhất là ở nông thôn. Việc dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn là không đảm bảo tính pháp lý. Do đó, gây khó khăn cho Ngân hàng trong việc dung tài sản thế chấp để thu hồi nợ quá hạn. Về công chứng hồ sơ vay vốn: Theo quy định thì tài sản thế chấp phải có cơ quan công chứng. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp công chứng không đúng với giá trị thực tế của tài sản đem thế chấp, tạo điều kiện cho khách hàng vay vốn lớn hơn giá trị tài sản thế chấp. Điều này dẫn đến rủi ro rất lớn cho Ngân hàng. Phần lớn nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng lớn cho Ngân hàng đó là do từ phía khách hàng. Khách hàng đông nhất của chi nhánh Ngân hàng là nông dân, sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp là chính. Vì thế, sự hiểu biết về pháp luật cũng như các quy định vay vốn còn rất hạn chế nên đã gây không ít khó khăn cho cán bộ tín dụng trong quá trình cho vay. CHƯƠNG 5 MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI NHNo & PTNT HUYỆN MỎ CÀY 5.1. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CHỦ YẾU TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH HUYỆN MỎ CÀY 5.1.1. Những mặt thuận lợi Mỏ Cày là một trong những Huyện đông dân và có diện tích tự nhiên khá lớn. Chính vì thế mà môi trường hoạt động của Ngân hàng cũng không kém phần hấp dẫn. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh làm cho môi trường sản xuất kinh doanh và đầu tư được cải tiến, các thế mạnh về kinh tế vườn, nuôi trồng thuỷ sản, được tập trung khai thác, nhiều dự án quan trọng được đầu tư và phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Ngân hàng, nhất là khả năng hấp thu vốn tín dụng Ngân hàng ngày càng cao và đa dạng về mọi lĩnh vực, đối tượng đầu tư, kể cả hàm lượng vốn. Trong đó, hoạt động tín dụng hiệu quả nhất là tại chi nhánh Ngân hàng. Trong những năm qua, chi nhánh Ngân hàng cũng đã thực hiện thành công các chương trình khuyến mãi như: Khách hàng gửi tiết kiệm với số tiền từ 50 triệu đồng trở lên sẽ được tặng 1 nón bảo hiểm của Ngân hàng,…đã thu hút rất nhiều khách hàng gửi tiền làm nguồn vốn của Ngân hàng cũng được cải thiện. 5.1.2. Những mặt khó khăn Lãi suất cho vay của NHNo & PTNT đối với khu vực nông thôn thường cao hơn so với các Ngân hàng Thương mại khác. Mặt khác khi lãi suất tăng lên thì một số khách hàng đã phải phản ứng mạnh mẽ vì việc bổ sung hợp đồng, điều này gây không ít khó khăn cho hoạt động của Ngân hàng. Vì thế mà việc xác lập mối quan hệ tín dụng đối với khách hàng còn rất hạn chế. Do khối lượng công việc ngày càng nhiều (một cán bộ tín dụng phụ trách 2 xã), đội ngũ cán bộ công nhân viên các phòng ban nói chung, khâu tín dụng và khâu giải ngân nói riêng đã phải hoạt động cật lực nhưng do nhu cầu khách hàng tăng trong những thời điểm khác trong ngày đã chưa đáp ứng được theo nhu cầu, đôi lúc gây bị động và khó khăn cho việc giàn trãi, phân công nhiệm vụ lẫn nhau. Điều này đã làm ảnh hưởng đến tâm lý của khách hàng khi phải ngồi chờ đợi lâu. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, an ninh trật tự cho phát triển nông thôn mặt dù đã được cải thiện nhưng nhìn chung vẫn còn hạn chế và thiếu đồng bộ, khả năng tiềm ẩn rủi ro trong sản xuất nông nghiệp vẫn còn cao. 5.2. GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH HUYỆN MỎ CÀY 5.2.1. Về nhân lực Trong hoạt động Ngân hàng, cán bộ tín dụng có vai trò quan trọng và quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Cán bộ tín dụng là người có trách nhiệm chính đối với các khoản vay (từ khâu tìm kiếm, tiếp xúc khách hàng, thẩm định - kiểm tra - đôn đốc thu hồi nợ…). Do vậy, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải năng nỗ, nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm trong công tác, tinh thông về nghiệp vụ, vững vàng về tư tưởng, có phẩm chất đạo đức tốt, có tầm nhìn chiến lược trong phạm vi nhiệm vụ được giao, có tinh thần say mê học hỏi, bổ sung kiến thức phù hợp để thích ứng với sự vận động và phát triển kinh tế – xã hội. Thường xuyên tổ chức các đợt tập huấn, nâng cao về nghiệp vụ liên quan đến hoạt động tín dụng, kiến thức tối thiểu về luật pháp (luật dân sự, Ngân hàng nhà nước, luật tổ chức tín dụng, và các luật khác…). Đồng thời, phải cập nhật kiến thức dưới dạng tổng quát về những ngành nghề liên quan đến đối tượng cho vay thì việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro mới có hiệu quả. Trang bị cho cán bộ tín dụng kiến thức về tin học để có thể xử lý một cách nhanh chóng và quản lý tốt hồ sơ tín dụng. Đặc biệt, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng thì đòi hỏi cán bộ tín dụng phải phấn đấu nhiều hơn nữa. Trao dồi tác phong, phong cách giao tiếp với khách hàng. Nếu như trong điều kiện cạnh tranh lãi suất thấp, cho suất vay nhiều chưa chắc thu hút khách hàng mà còn dễ dẫn đến rủi ro món vay. Vì thế, cán bộ tín dụng có tác phong giao tiếp lịch thiệp, niềm nở, đạo đức nghề nghiệp, giải thích cặn kẽ, giải quyết cho vay nhanh gọn đúng nguyên tắc, giúp khách hàng không tốn nhiều thời gian, tiền bạc là điều tốt cho Ngân hàng. Như vậy, đầu tư cho đào tạo, đào tạo lại là đầu tư cho chiều sâu của Ngân hàng. Quan tâm đến công tác đào tạo về nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp chính là quan tâm đến kết quả của hoạt động kinh doanh, bởi con người là yếu tố quyết định của mọi thành công. 5.2.2. Về quy trình cho vay Như đã phân tích, hơn 80% nợ quá hạn phát sinh từ nguyên nhân thuộc về khách hàng vay vốn. Vì vậy, thẩm định về tư cách khách hàng vay vốn sẽ hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro do khách hàng gây nên. Đối với việc thẩm định, đánh giá phẩm chất của người vay vốn, cán bộ tín dụng phải đặc biệt quan tâm đến tính trung thực của khách hàng trong quan hệ kinh tế, tính nghiêm túc trong việc chấp hành pháp luật của nhà nước. Bởi lẽ, các khách hàng có năng lực trả nợ nhưng việc sẵn sàng thực hiện lời cam kết trả nợ lại tùy thuộc vào tư cách đạo đức của họ. Để xác định khả năng hoàn trả nợ của người vay thì việc đánh giá năng lực tài chính của khách hàng là yếu tố không thể thiếu để quyết định cho vay. Do đó, cán bộ tín dụng cần phải nhận định những thông tin về năng lực tài chính của khách hàng dựa trên cơ sở mạng lưới cộng tác viên như các cấp Ủy, chính quyền địa phương nơi cư ngụ của khách hàng. Trong những bước kiểm tra, tìm hiểu về khách hàng thì việc xem xét mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng là việc làm mà cán bộ tín dụng cần phải quan tâm. Do trên thực tế, nhiều khách hàng đã không trung thực, cố ý làm trái, lập dự án ảo, để lừa dối Ngân hàng để vay vốn đã không cung cấp thông tin đúng sự thật cho Ngân hàng. Chính vì vậy, dù khách hàng có đủ điều kiện để vay vốn, tài sản thế chấp có giá trị cao nhưng mục đích vay vốn của khách hàng không rõ ràng thì ngân hàng không thể giải quyết cho vay. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng cũng cần phải xem xét kế hoạch sử dụng tiền vay, nguồn trả nợ cũng như kế hoạch trả nợ của khách hàng có khả thi hay không. Để đánh giá các rủi ro không trả được nợ của người vay thì điều kiện để đảm bảo tiền vay được coi là điều kiện quan trọng nhất trong các quy định về điều kiện vay vốn. Tuy nhiên, trên thực tế không nên tuyệt đối hóa vai trò của tài sản thế chấp vì mục đích hoạt động cho vay của Ngân hàng không phải là cho vay để phát mãi tài sản thế chấp mà giúp khách hàng có vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp, mang lại hiệu quả kinh tế cho khách hàng, phát triển kinh tế - xã hội và cho chính bản thân Ngân hàng. Thực tế đã cho thấy rằng, thu nợ bằng xiết nợ tài sản hiện nay đang là gánh nặng khó xử lý đối với Ngân hàng. Do đó, tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh khi phát mãi phải dễ bán, giá trị thực tế thu được phải bù đắp đủ nợ vay gốc, lãi và các loại phí theo quy định. Mặc khác, cán bộ tín dụng cần phải tuân thủ các giới hạn cho vay nhằm giới hạn mức độ cho vay đối với khách hàng: Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp các khoản vay từ nguồn vốn uỷ thác. Trường hợp nhu cầu vốn của khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức thì các tổ chức tín dụng phải cho vay hợp vốn để hạn chế rủi ro. 5.2.3. Chủ động phân tán rủi ro để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro Trong nền kinh tế thị trường rủi ro trong hoạt động tín dụng là tất yếu. Đặc biệt, đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn thì tồn tại rủi ro từ nguyên nhân giá cả hàng hóa nông sản luôn biến động, vừa do thiên tai, dịch bệnh dẫn đến hậu quả nặng nề. Tuy nhiên, mức độ rủi ro ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng còn phụ thuộc vào khả năng ngăn ngừa rủi ro và biện pháp khắc phục của mỗi Ngân hàng. Một trong những giải pháp có tính chủ động và ngăn ngừa tích cực những rủi ro có thể xảy ra đối với Ngân hàng như: Không nên tập trung vốn cho vay vào một ngành kinh tế, chi nhánh Ngân hàng Huyện cần thực hiện cho vay đối với nhiều ngành nghề, ngoài nông nghiệp là chủ lực, đa dạng hóa các loại hình tín dụng, thúc đẩy các đối tượng vay vốn mới có hiệu quả như: cho vay phục vụ đời sống cán bộ - công nhân viên, đầu tư vào mô hình kinh tế tổng hợp,… Mở rộng quy mô cho vay trung, dài hạn nhằm tạo sự cân đối đồng bộ trong đầu tư, tạo sự phát triển lâu dài trong nông nghiệp, phục vụ phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật theo định hướng phát triển kinh tế – xã hội của Huyện. Từ đó, tạo đòn bẩy kích thích khu vực sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tăng diện tích cây trồng, tăng năng suất lao động, sản lượng sản phẩm – dịch vụ làm ra, giúp người vay có nền tảng cơ bản, đảm bảo cho họ sử dụng vốn an toàn, hiệu quả, giảm thiểu được rủi ro. 5.2.4. Kỹ thuật cho vay và thu nợ Nhằm tránh rủi ro có thể xảy ra, khi cho vay Ngân hàng không nên tập trung vốn vào một khách hàng, đặc biệt là đối một số khách hàng có uy tín, có quan hệ giao dịch lâu dài, mà phải trải đều ra để mọi khách hàng có nhu cầu vay vốn đều được vay. Để tránh đồng tiền không bị đóng băng, làm tăng doanh thu và lợi nhuận thì Ngân hàng phải có những biện pháp thực sự phù hợp giữa việc huy động vốn và sử dụng vốn nhằm mang lại hiệu quả kinh doanh ngày càng cao. Để tránh thu nhập theo mùa vụ thì không nên kinh doanh một chiều không chỉ phải cho các hộ sản xuất vay mà còn phải mở rộng cho nhiều khách hàng mới thuộc mọi thành phần kinh tế. Lựa chọn kỹ khách hàng trên cơ sở phân tích tình hình sản xuất và khả năng tài chính của khách hàng. Một vấn đề quan trọng hơn nữa là trong và sau khi cho vay, cán bộ tín dụng Ngân hàng cần thường xuyên tổ chức kiểm tra việc sử dụng vốn vay, đặc biệt là những khoản vay lớn và những khách hàng mới giao dịch lần đầu. Trang bị thêm máy móc thiết bị, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. Thu hồi nợ là vấn đề cần thiết của Ngân hàng. Bởi vì Ngân hàng chủ yếu cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp. Một ngành nghề mà thu nhập của khách hàng phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, giá cả nông sản rất nhạy cảm với những biến động của thị trường. Vì vậy, Ngân hàng có thể áp dụng một số biện pháp sau để nâng cao khả năng thu hồi nợ: Cán bộ tín dụng nên thường xuyên theo dõi nợ đến hạn để tiến hành nhắc nhở, đôn đốc khách hàng trả nợ đúng hạn. Có kế hoạch và biện pháp cụ thể để thu hồi nợ còn đọng kể cả các khoản nợ đã xử lý. Cụ Thể: đối với các khoản nợ quá hạn hoặc nợ khó đòi tuỳ tình hình cụ thể mà Ngân hàng áp dụng nhiều biện pháp khác nhau. Chẳng hạn Ngân hàng xét thấy khoản nợ quá hạn có khả năng thu hồi được và khách hàng có thiện chí trả nợ nhưng hiện tại chưa có khả năng và cần thêm vốn. Khi đó Ngân hàng có thể cho vay thêm và khoản vay này không vượt quá chu kỳ sản xuất để tạo điều kiện cho khách hàng thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình. 5.2.5. Tăng cường công tác mua bảo hiểm tiền gửi Hiện nay dù chi nhánh NHNo & PTNT Huyện Mỏ Cày chưa có chính sách bảo hiểm tiền gửi cho khách hàng. Nhưng trong những năm tới thì chi nhánh Ngân hàng nên có chính sách mua bảo hiểm cho tài sản hình thành vốn vay hoặc mua bảo hiểm cho tài sản làm đảm bảo tín dụng. Đặc biệt chi nhánh Ngân hàng cần quan tâm hơn về việc mua bảo hiểm tiền gửi cho khách hàng vì đây là điều kiện để có thể thu hút được nhiều hình thức gửi tiền hơn. Đồng thời cũng tạo được lòng tin với khách hàng để khách hàng tin tưởng mà gửi tiền thay vì phải giữ lại trong nhà. Từ đó sẽ làm cho nguồn huy động vốn của Ngân hàng ngày càng đa dạng và phong phú, đáp ứng được nhu cầu thiếu vốn của những thành phần đang có nhu cầu sản xuất, tái sản xuất. 5.2.6. Thực hiện tốt việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng Tất cả các quốc gia đều có quy định cho các NHTM phải trích dự phòng rủi ro để có thể dùng bù đắp các khoản cho vay bị rủi ro. Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro ở mỗi nước có sự khác nhau, trong điều kiện cạnh tranh của kinh tế thị trường việc dự phòng rủi ro là rất cần thiết. Chi nhánh Ngân hàng cần phải xây dựng các kế hoạch dự phòng, phải nêu rõ các cơ chế để đảm bảo tính liên tục và kịp thời của các luồng thông tin, cung cấp cho ban lãnh đạo Ngân hàng các thông tin chính xác để đưa ra quyết định nhanh. Bên cạnh đó, kế hoạch dự phòng bao gồm cả việc duy trì mối quan hệ khách hàng vay vốn, các đối tác kinh doanh với Ngân hàng. Khi tình hình càng trở nên xấu hơn, Ngân hàng phải quyết định bán cái gì và giữ lại cái gì. Kế hoạch dự phòng phải vạch ra các chiến lược tài trợ vốn để có thể đáp ứng nhanh nguồn vốn cho vay, giúp cho Ngân hàng không bị thất thoát hoặc mất khách hàng. 5.2.7. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan, chính quyền địa phương trong công tác thu hồi và xử lý nợ quá hạn Cần phát huy tốt vai trò hổ trợ cho Ngân hàng trong việc cung cấp thông tin về khách hàng, ký duyệt hồ sơ vay vốn cho khách hàng giúp cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng được thuận lợi hơn. Đối với những vụ kiện khách hàng có nợ quá hạn nên giúp đỡ nhiệt tình không thu phí. Cần quan tâm hơn nữa trong việc xử lý nợ và tổ chức thành lập trung tâm phát mại tài sản cầm cố, thế chấp để Ngân hàng thu hồi vốn để tái đầu tư. Trong những năm qua, vấn đề chăn nuôi không có hiệu quả làm ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Đây là vấn đề cần được chính quyền địa phương quan tâm nhiều hơn nữa, Nhà nước cần hỗ trợ Ngân hàng cho vay, đặc biệt là vay ưu đãi để người dân có vốn tái sản xuất nâng cao đời sống kinh tế của người dân Tỉnh nhà. Nên có những hình thức hạn chế đối với cán bộ xã, phường ký xác nhận với hộ vay vốn không chặt chẽ, không đúng đối tượng gây ảnh hưởng đến hoạt động của Ngân hàng. Đối với các hộ nông dân hoặc người đại diện ở xã, ấp, Ngân hàng nên áp dụng trích một khoản tiền hoa hồng cho họ để họ tích cực, tận tình giúp đở cán bộ tín dụng hoàn thành nhiệm vụ. CHƯƠNG 6 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 6.1. KẾT LUẬN Kinh tế Tỉnh Bến Tre nói chung, kinh tế Huyện Mỏ Cày nói riêng đang trên đà tăng trưởng vì thế đòi hỏi nhu cầu vốn ngày càng cao, nhưng khi làm kinh tế thì nguồn vốn tự có không thể đáp ứng đủ nhu cầu, do đó họ đã tìm đến Ngân hàng. Từ khi thành lập và đi vào hoạt động chi nhánh NHNo & PTNT Huyện Mỏ Cày đã đáp ứng được phần nào nhu cầu của người dân. Nếu như trước kia, chi nhánh Ngân hàng chỉ tập trung cho vay đối với hộ nông dân (kinh tế Huyện chủ yếu là kinh tế nông nghiệp) thì hiện nay chi nhánh đã chú trọng mọi đối tượng cũng như mọi thành phần kinh tế và đã thực hiện được trách nhiệm của mình đối với nền kinh tế Huyện nhà. Tuy nhiên, trong cho vay thì ít hay nhiều cũng có rủi ro xảy ra. Chi nhánh NHNo & PTNT Huyện Mỏ Cày đang gặp phải những khó khăn do rủi ro trong hoạt động tín dụng mang đến, rủi ro tín dụng là một vấn đề không hề mới nhưng nó lại làm cho các cơ quan chức năng cũng như các nhà quản trị Ngân hàng luôn phải quan tâm và trăn trở. Bởi lẽ, hậu quả của nó sẽ để lại những tổn thất nặng nề, không thể lường trước đuợc cho Ngân hàng cũng như nền kinh tế. Rủi ro tín dụng cũng phản ánh được phần nào kết quả hoạt động kinh doanh tại một Ngân hàng. Hoạt động Ngân hàng chỉ thực sự đạt hiệu quả cao khi nào Ngân hàng hạn chế được rủi ro ở mức thấp nhất, nhằm đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh, qua đó uy tín của chi nhánh Ngân hàng không ngừng được nâng cao. Như vậy, chỉ cần nhìn vào công tác phòng ngừa, hạn chế rủi ro tại một Ngân hàng ta có thể nhận xét đánh giá được một phần kết quả kinh doanh của Ngân hàng đó. 6.2. KIẾN NGHỊ 6.2.1. Đối với khách hàng và chính quyền địa phương Cần phải có sự hỗ trợ tài chính kịp thời và phù hợp cho hộ nông dân khi có dịch bệnh xảy ra. Khách hàng cần phải tuân thủ đúng với các thoả thuận đã ghi trên hợp đồng tín dụng, nếu do các nguyên nhân bất khả kháng xảy ra khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn thì phải xin Ngân hàng cho gia hạn nợ. Chính quyền địa phương cần tăng cường giúp đỡ Ngân hàng nắm được tình hình kinh tế địa phương của từng hộ vay. Khi xác nhận cần đúng sự thật và nhanh chóng giúp cho khách hàng và Ngân hàng đỡ tốn kém thời gian và chi phí. Các cấp chính quyền địa phương có thẩm quyền liên quan cần tận tâm giúp đỡ Ngân hàng trong việc đôn đốc khách hàng trả nợ và phát mãi tài sản thế chấp để thu nợ quá hạn. 6.2.2. Đối với Ngân hàng Tỉnh, Huyện Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ về việc áp dụng công nghệ hiện đại, mỗi nhân viên Ngân hàng cần có thời gian nhất định để thích ứng với công nghệ mới nên Ban lãnh đạo Ngân hàng cần có những biện pháp động viên, khuyến khích giúp đỡ, thậm chí cả đòi hỏi, từng nhân viên phải nỗ lực hết khả năng để sớm thích nghi. Luôn quan tâm tuyển dụng thu hút chất xám, chú trọng phát triển thể lực trẻ. Ngân hàng cần lập ra bộ phận nghiên cứu Marketing nhằm theo dõi diễn biến trên thị trường, nắm bắt kịp thời, chính xác thông tin bất lợi và có lợi cho Ngân hàng, để từ đó báo cáo ngay với cấp trên đưa ra hướng giải quyết tốt nhất. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Trang bị thêm máy vi tính để mỗi nhân viên có một máy làm việc riêng của mình không phải chờ đợi lâu. Ban lãnh đạo NHNo & PTNT phải có chính sách khen thưởng đối với cán bộ, nhân viên năng động và tích cực trong công việc để khuyến khích tiến trình làm việc của nhân viên, đặc biệt là cán bộ tín dụng. Tạo môi trường làm việc thoải mái, tích cực và hiệu quả để kích thích các thành viên đem hết công sức, trí tuệ cho thành quả chung của tổ chức. Phát triển hình thức thanh toán qua Ngân hàng: trả lương cho nhân viên qua thẻ tín dụng để chi nhánh Ngân hàng có thể làm phong phú hơn các dịch vụ của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Th.s Thái Văn Đại (2007). Giáo trình nghiệp vụ Ngân hàng thương mại. Tủ sách Đại học Cần Thơ (2007). 2. Cẩm nang tín dụng 2002. 3. Báo cáo tổng kết của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Mỏ Cày năm 2005, 2006, 2007. 4. Bảng kế hoạch thực hiện dự án đầu tư phát triển chăn nuôi, trồng trọt phòng kinh tế Huyện Mỏ Cày. 5. Tạp chí Ngân hàng 2005 – 2007. 6.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfPhân tích thực trạng và những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Huyện Mỏ Cày.pdf
Luận văn liên quan