Lý luận chung - Mối quan hệ giữa Nhà nước và Đảng cộng sản trong hệ thống chính trị

I. LỜI MỞ ĐẦU. II. NỘI DUNG. A/ Khái quát chung. 1. Hệ thống chính trị XHCN. 2. Vai trò, vị trí của nhà nước trong hệ thống chính trị XHCN. 3. Vai trò, vị trí của ĐCS trong hệ thống chính trị XHCN. B/ Mối quan hệ giữa nhà nước và ĐCS trong hệ thống chính trị XHCN. 1. ĐCS là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. 2. Nhà nước có sự tác động trở lại ĐCS. C/ Liên hệ thực tiễn ở VN. 1. Thực trạng quan hệ giữa ĐCS và nhà nước ta hiện nay: \ Quan hệ giữa ĐCS và nhà nước trước thời kì đổi mới \ Quan hệ giữa ĐCS và nhà nước trong thời kì đổi mới 2. Vấn đề: phải đổi mới quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ta hiện nay. III. KẾT LUẬN.

doc7 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 13972 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lý luận chung - Mối quan hệ giữa Nhà nước và Đảng cộng sản trong hệ thống chính trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A/ LỜI MỞ ĐẦU. Đảng Cộng Sản (ĐCS) và nhà nước (NN) XHCN là những khái niệm không còn xa lạ với chúng ta. Trong hệ thống chính trị (HTCT) XHCN thì ĐCS lãnh đạo NN còn NN tổ chức và hoạt động theo đường lối chính sách của ĐCS, có nhiệm vụ đưa đường lối và chính sách của Đảng vào thực tiễn .Mối quan hệ giữa NN và ĐCS được thể hiện ở vai trò của cả hai bên đối với nhau. Bài nghiên cứu của chúng tôi dưới đây đặt mối quan hệ giữa ĐCS và NN lên làm trọng tâm nhằm làm rõ: Sự lãnh đạo của Đảng với NN và những tác động (ảnh hưởng) của NN với ĐCS để từ đó đưa ra cái nhìn đúng đắn về thực trạng mối quan hệ này ở Việt Nam. B/ NỘI DUNG. I/ KHÁI QUÁT CHUNG. 1 - Hệ thống chính trị XHCN: Trong xã hội có rất nhiều những thiết chế chính trị - xã hội (CT-XH), giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau, cùng tồn tại và hoạt động nhằm đảm bảo sự tồn tại, phát triển của toàn xã hội và bảo vệ lợi ích cũng như thực hiện mục đích của giai cấp thống trị trong xã hội. Liên minh các thể chế đó chính là hệ thống chính trị (HTCT). Mỗi xã hội đều có HTCT riêng. Theo đó, HTCT XHCN chính là liên minh các thiết chế CT-XH được thành lập và hoạt động trong mối liên hệ chặt chẽ mà vai trò lãnh đạo thuộc về đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm thực hiện triệt để quyền lực nhân dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. HTCT XHCN bao gồm ĐCS, NN XHCN, các tổ chức CT-XH và các đoàn thể quần chúng khác. Sự ra đời của HTCT XHCN dựa trên cơ sở xóa bỏ HTCT của xã hội cũ. Tiến hành cách mạng XHCH, nhân dân lao động phải đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp bóc lột đồng thời xóa bỏ những yếu tố phản dân chủ của HTCT cũ (các đảng phái phản động, các hoạt động chống phá nhà nước XHCN,…). Sự hình thành và phát triển của HTCT XHCN là một quá trình lịch sử lâu dài với những bước thăng trầm khác nhau nhưng luôn giữ vững mục tiêu là xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và không có sự phân cực đối kháng giữa gjàu và nghèo, giữa vô sản và hữu sản. 2 - Vai trò của nhà nước trong HTCT XHCN: Trong hệ HTCT XHCN, NN giữ vị trí và vai trò hết sức quan trọng. Về vị trí, NN XHCN ở vị trí trung tâm của hệ thống chính trị, là nơi hội tụ của đời sống CT-XH. NN XHCN có quan hệ với tất cả các tổ chức khác trong HTCT, thu hút các tổ chức đó về phía mình, còn các tổ chức đó là lực lượng hỗ trợ cho NN. Vai trò của NN XHCN là một thiết chế mang tính quyết định trong HTCT. Nó quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của HTCT; nó quyết định bản chất, đặc trưng và vai trò của HTCT. NN XHCN là biểu hiện tập trung nhất của quyền lực nhân dân và là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện quyền lực nhân dân. NN có thể cho phép thành lập cũng như làm mất đi một thành tố nào đó trong HTCT và nó có thể điều hòa mối quan hệ giữa các lực lượng chính trị trong xã hội. Sở dĩ NN giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng như vậy là vì một số ưu thế so với các tổ chức khác trong HTCT XHCN: phạm vi tác động của quyền lực NN rộng lớn nhất, cơ sở xã hội rộng khắp nhất, tiềm lực kinh tế lớn mạnh nhất, có bộ máy cưỡng chế chuyên nghiệp và nắm trong tay chủ quyền quốc gia. 3 - Vai trò của Đảng cộng sản trong HTCT XHCN: Bên cạnh đó, không thể không kể đến một nhân tố quan trọng nhất trong HTCT XHCN, đó chính là ĐCS. Theo tư tưởng của Mác – Ănghen, ĐCS là bộ phận “kiên quyết nhất”, cổ vũ tất cả bộ phận khác của giai cấp vô sản. Đảng là bộ phận tiên tiến ưu tú nhất – đội tiền phong của giai cấp công nhân. Mang tinh thần cách mạng triệt để, đi đầu trong các cuộc đấu tranh, ĐCS lôi cuốn cả giai cấp mình và thông qua giai cấp mình lôi cuốn đông đảo quần chúng lao động vào cuộc đấu tranh chống giai cấp bóc lột. ĐCS luôn thể hiện trình độ lí luận cao bằng việc vạch ra cương lĩnh, sách lược đúng đắn để dẫn dắt giai cấp mình. Mục tiêu của ĐCS là luôn bảo về lợi ích cho giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân trong mọi hoạt động. Trên cơ sở ấy, có thể nhận thấy ĐCS đóng vai trò chủ chốt, là người tổ chức và lãnh đạo toàn bộ HTCT. Điều đó đã xác lập nên địa vị đặc biệt của ĐCS trong HTCT: địa vị đôc quyền lãnh đạo toàn bộ HTCT XHCN. Đây chính là một tất yếu mang tính lịch sử, khách quan. Đơn cử, trong các cuộc cách mạng vô sản vào bất kì giai đoạn lịch sử nào, ĐCS luôn đứng ở vị trí trung tâm của phong trào, trực tiếp lãnh đạo giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân tiến hành đấu tranh giành độc lập, tự do và quyền lợi cũng như đưa đất nước từng bước vượt qua những khó khăn trong công cuộc xây dựng đất nước thời kì đầu. Trong thời kì đổi mới, với những chính sách và chủ trương đúng đắn, ĐCS đưa đất nước ngày một phát triển và tiến lên theo con đường định hướng XHCN. Tóm lại, hoàn toàn có thể khẳng định rằng ĐCS và NN XHCN là hai nhân tố đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong HTCT XHCN nói chung và HTCT ở Việt Nam nói riêng. II/ QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VỚI ĐCS TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XHCN. Trong HTCT XHCN, ĐCS và NN có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng mục tiêu cơ bản lâu dài thì giống nhau đó là độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội, tiến tới cộng sản chủ nghĩa mà trước mắt là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Giữa NN và ĐCS có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau, trong đó, Đảng đóng vai trò là tổ chức lãnh đạo NN, còn NN được tổ chức và hoạt động theo đường lối, chính sách của Đảng. ĐCS vạch ra đường lối đối nội, đối ngoại và các chính sách để NN thể chế hóa thành PL và tổ chức thực hiện PL ấy. NN là công cụ có hiệu lực nhất có thể đưa đường lối, chính sách của Đảng vào trong đời sống xã hội .NN còn là tổ chức quyền lực chính trị có trách nhiệm bảo vệ Đảng, tạo mọi điều kiện cho Đảng hoạt động có hiệu quả .Đảng luôn luôn kiểm tra hoạt động của bộ máy NN, chỉ đạo công cuộc cải cách, hoàn thiện bộ máy NN và trong cuộc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong bộ máy NN. Như vậy, có thể thấy trong mối quan hệ giữa ĐCS và NN thì Đảng giữ vai trò lãnh đạo nhưng ngược lại NN cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với Đảng. 1 – Sự lãnh đạo của Đảng đối với NN. Trước hết phải khẳng định rằng sự lãnh đạo của Đảng là một tất yếu khách quan phù hợp với quy luật của chủ nghĩa xã hội .Sự lãnh đạo của Đảng được quy định trong hiến pháp và PL cơ bản của nhà nước XHCN .Sự lãnh đạo của Đảng không phải là điều kiện khác biệt, bởi vì trong xã hội hiện đại, hầu hết mọi Đảng phái chính trị đều huy động mọi khả năng để giành, giữ và sử dụng chính quyền NN. Sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị XHCN là sự lãnh đạo toàn diện từ công tác tổ chức đến mọi hoạt động của bộ máy NN bằng những hình thức khác nhau Điều khẳng định sự lãnh đạo của ĐCS là một yếu tố khách quan phù hợp với quy luật phát triển của chủ nghĩa xã hội và là sự lãnh đạo toàn diện có thể thấy qua thực tế phát triển xây dựng Đảng của ĐCS Việt Nam. ĐCS Việt Nam ngay từ khi ra đời đã đảm nhận sứ mệnh là người lãnh đạo duy nhất cách mạng nước ta, là người đại biểu trung thành cho lợi ích cao nhất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Cương lĩnh, chiến lược của Đảng được xây dựng dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước đã đem lại những thắng lợi vĩ đại liên tiếp, giải phóng dân tộc đem lại cuộc sống tự do cho dân tộc .Sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện cụ thể qua việc Đảng đề ra đường lối chính sách về tổ chức và hoạt động của bộ máy NN.Việc chủ trương phát triển các mặt của đời sống xã hội trên cơ sở đó NN thể chế hóa các đường lối, chính sách của Đảng thành PL làm cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của mình. Tức là, NN nâng ý chí của ĐCS lên thành PL và tổ chức thực hiện PL ấy. Từ đấy có thể thấy đường lối chính sách của Đảng chính là nội dung, cơ sở chính trị của PL. Suy rộng ra có nghĩa là: Nếu PL càng hoàn thiện bao nhiêu thì đường lối của Đảng càng đúng đắn và được tổ chức thực hiện tốt bấy nhiêu và sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội càng được tăng cường .Ngược lại, nếu PL ban hành trái với đường lối, chính sách của Đảng thì sẽ không có sức thuyết phục, không thể đi vào cuộc sống và tổ chức triển khai trên thực tế. Đảng lãnh đạo xã hội thông qua NN bằng hệ thống PL do NN ban hành. Trong các vấn đề quan trọng của đất nước, Đảng đều có ý kiến định hướng, chỉ đạo, ví dụ như các vấn đề đối nội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia…Các ý kiến chỉ đạo của ĐCS là rất quan trọng vì vi phạm PL cũng đồng nghĩa làm trái với ý chí của ĐCS, có thể gây thiệt hại về người, của và uy tín của ĐCS .Như vậy có thể thấy PL là phương tiện, công cụ hiệu lực nhất mà ĐCS sử dụng để lãnh đạo xã hội. Trong quá trình lãnh đạo của mình, Đảng luôn lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để giới thiệu với NN, bố trí sắp xếp vào các chức vụ trong bộ máy NN. Bản thân ĐCS cũng luôn chăm lo xây dựng Đảng về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng rèn luyện đội ngũ cán bộ Đảng viên để nâng cao chất lượng đội ngũ của mình, đồng thời để giới thiệu vào bộ máy NN. Ở Việt Nam, trong bộ máy NN, các vị trí, chức vụ quan trọng đều do các Đảng viên của ĐCS nắm giữ. Qua đó, Đảng có thể thường xuyên theo dõi, kiểm tra, chỉ đạo các cơ quan NN theo đúng đường lối, chủ trương chính sách của mình. Bên cạnh sự hoạt động các cơ quan hành chính NN luôn luôn có các tổ chức của ĐCS hoạt động song song để lãnh đạo việc tổ chức và hoạt động của bộ máy NN một cách thường xuyên. Ví dụ: ở Việt Nam, từ cấp tỉnh đến cấp xã, bản, làng, buôn, ấp…đều có các chi bộ Đảng hoạt động. Ngoài ra trong các tổ chức CT-XH khác hầu như đều có các tổ chức của ĐCS hoạt động. Sự lãnh đạo của Đảng trong HTCT không thông qua việc áp đặt, bắt buộc hay cưỡng chế mà Đảng lãnh đạo thông qua việc tuyên truyền, giáo dục và nêu gương, lãnh đạo thông qua cương lĩnh, chiến lược, đường lối và biến nó thành hiện thực cuộc sống của toàn Đảng, toàn dân, Ví dụ: ĐCS Việt Nam từ khi ra đời, ngay trong cương lĩnh của mình đã đề ra nhiệm vụ, mục tiêu của mình phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân và phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam nên đã nhận được sự ủng hộ lớn lao của nhân dân lao động. Trong quá trình phát triển, sự hy sinh của các anh hùng liệt sĩ chính là những tấm gương để nhân dân cảm phục, tin tưởng Đảng hơn, từ đó vị thế, vai trò của Đảng trong HTCT, sự lãnh đạo của ĐCS đối với NN càng được nâng cao, lòng tin của người dân đối với Đảng càng được củng cố. à Ảnh hưởng của ĐCS trong hệ HTCT XHCN là rất lớn và toàn diện nhưng không vì thế mà ta có thể hiểu là tất cả .Bởi vì, sự lãnh đạo của Đảng chỉ mang tính chất chính trị, tức là vạch ra đường lối chính trị về đối nội, đối ngoại để NN thể chế hóa thành PL và tổ chức thực hiện PL ấy, chứ ĐCS không làm thay vai trò của NN. Sự hoạt động của NN trên ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp chính là nhằm biến đường lối chính sách của Đảng thành hiện thực, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Như vậy sự lãnh đạo của ĐCS không phải là tuyệt đối vì bên cạnh đó sự tác động ngược lại của NN cũng là rất lớn. 2 – Sự tác động trở lại của NN đối với ĐCS. Trong hệ thống chính trị XHCN , NN là một mắt xích đặc biệt quan trọng, là tổ chức quyền lực rộng lớn. NN được xem là trung tâm của HTCT và giữ vai trò quyết định trong đó. Tính chất rộng lớn của NN không những thể hiện trong phạm vi các lĩnh vực của đời sống xã hội do NN quản lí mà còn cả số lượng chủ thể chịu tác động của nó. Như vậy, trên thực tế không một cá nhân, tổ chức nào lại không chịu sự tác động của NN trong đó có ĐCS. Nhà nước ghi nhận sự lãnh đạo của ĐCS thông qua hiến pháp và PL. Hiến pháp của NN XHCN trực tiếp ghi nhận, thể hiện hóa vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền của ĐCS đối với NN và xã hội. Ví dụ: Tại điều 4, hiến pháp 1992 Việt Nam quy định : “ Đảng Cộng Sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, người dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Với mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật”. NN là tổ chức quyền lực chính trị duy nhất có quyền thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành PL, đồng thời kiểm nghiệm tính đúng đắn, sự phù hợp của những đường lối, chính sách của Đảng. Từ đó, NN đóng góp ý kiến với Đảng trong việc đề ra hoặc điều chỉnh đường lối, chính sách cho phù hợp. Thông qua việc thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước tổ chức và đảm bảo việc thực hiện PL trong xã hội .Nếu PL càng hoàn thiện thì đường lối của Đảng càng được thực hiện tốt. Ngược lại, nếu PL ban hành trái với đường lối, chính sách của Đảng thì sẽ không có sức thuyết phục, không thể đi vào cuộc sống và tổ chức triển khai trong thực tế. Nhà nước XHCN có cơ sở xã hội rất rộng rãi. Chính điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho NN thực hiện các chính sách của Đảng một cách nhanh nhất, rộng nhất và hiệu quả nhất, bởi vì cơ sở xã hội quyết định phạm vi ảnh hưởng của một số tổ chức chính trị nào đó. Nhà nước XHCN có trong tay sức mạnh to lớn đặc biệt là sức mạnh cưỡng chế bởi vì trong tay NN có hệ thống PL do NN ban hành có tác dụng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Thêm vào đó, trong tay NN còn có hệ thống các lực lượng vũ trang, nhà tù, tòa án là những công cụ bảo đảm cho việc duy trì trật tự ổn định xã hội mà không có bất kỳ thiết chế chính trị nào trong hệ thống chính trị XHCN có được .Với sức mạnh to lớn đó, NN đảm bảo, bảo vệ cho ĐCS tổ chức, hoạt động và phát triển, phát huy vai trò lãnh đạo của mình. Ngoài ra NN còn có đầy đủ các phương tiện vật chất cần thiết vì NN là chủ sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, cho nên NN có khả năng đảm bảo nguồn tài chính, vật chất cần thiết không chỉ cho sự hoạt động của NN mà còn cho các tổ chức chính trị xã hội khác, trong đó có ĐCS. Đồng thời, với danh nghĩa là tổ chức quản lí toàn diện các mặt hoạt động của đời sống xã hội. NN thực hiện việc quản lí các tổ chức Đảng, thanh tra, giám sát việc tuân theo PL của các Đảng viên và các tổ chức Đảng, kiểm soát sự hoạt động của Đảng trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật. Theo điều 4, chương 1, hiến pháp 1992 Việt Nam quy định: “Mọi tổ chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ của hiến pháp”. Hoặc quy định số 19 – QĐ/TW của BCH Trung Ương Đảng về những điều lệ Đảng viên không được làm: Nói hoặc làm trái với cương lĩnh chính trị, điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Làm những việc mà PL không cho phép công dân, cán bộ, công chức làm. à Như vậy, NN là công cụ có hiệu lực nhất và quan trọng nhất để ĐCS đưa đường lối, chính sách vào cuộc sống, đồng thời NN là tổ chức quyền lực chính trị có trách nhiệm bảo vệ và đảm bảo cho sự hoạt động, phát triển của ĐCS.Qua đây, có thể thấy rằng giữa NN và ĐCS có mối quan hệ qua lại rất mật thiết với tư cách là 2 hạt nhân nòng cốt trong hệ thống chính trị XHCN. III/ LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM. 1 - Quan hệ giữa ĐCS và NN sau thời kì đổi mới: 1.1 Ưu điểm: - Sau giai đoạn khó khăn về kinh tế, ĐCS vẫn giữ vững được vai trò lãnh đạo với NN. Thông qua NN, nhân dân thực hiện vai trò làm chủ: tham gia quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và NN, đất nước đã thực sự thay da đổi thịt và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới. - Đảng không còn thay làm thay NN ở nhiều mặt, từ đó không chỉ nâng cao vai trò của NN trong quản lý mà còn giúp làm mới quan hệ giữa Đảng và NN thêm chặt chẽ và khăng khít hơn. 1.2 Hạn chế: - Sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi với tổ chức hoạt động của NN, vẫn còn tính trạng chồng chéo và buông lỏng quản lý nên vai trò lãnh đạo của Đảng vẫn chưa phát huy tốt. - Chưa phân rõ chức năng, quyền hạn giữa Đảng lãnh đạo với Nhà nước quản lý, bộ máy Đảng còn cồng kềnh. Tương tự là bộ máy hành chính còn nhiều tầng nhiều nấc làm cho việc quản lý chưa thật nhanh nhạy và có hiệu quả. 2 - Vấn đề đổi mới quan hệ ĐCS và nhà nước ở VN hiện nay: 2.1 Mục đích và nguyên tắc đổi mới: * Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước còn nhiều bất cập vì vậy nhu cầu đặt ra là cần đổi mới mối quan hệ giữa hai tổ chức này nhằm: Thực hiện tốt mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, độc lập, dân tộc và CNXH, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Đổi mới nhằm nâng cao sức mạnh, năng lực cầm quyền của ĐCS, bảo đảm ĐCS là hật nhân dẫn đầu của hệ thống chính trị. Bảo đảm nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị. * Từ đó rút ra một số nguyên tắc đổi mới như sau: Đảng lãnh đạo toàn bộ quá trình đổi mới hệ thống chính trị. Đổi mới cần kế thừa và phát huy những ưu điểm của mối quan hệ giữa Đảng và nhà nước. Thực hiện 1 cách đồng bộ và hệ thống trong công cuộc đổi mới hệ thống chính trị. Đảm bảo sự tham gia của các tầng lớp nhân dân và quá trình đổi mới. 2.2 Các giải pháp trong việc đổi mới quan hệ giữa Đảng và NN hiện nay: Như ta đã thấy, bên cạnh nhưng mặt tích cực của mối quan hệ giữa NN và ĐCS vẫn còn nhiều hạn chế. Trên cơ sở những khắc phụ hạn chế cần đổi mới một số điểm trong mối tương quan Đảng - NN trên các nội dung về tư tưởng cũng như nội dung lãnh đạo đổi mới nhận thức: Thống nhất nhận thức trong ĐCS về trọng trách của Đảng, về quan hệ giai cấp, dân tộc và nhân dân trong bản chất của Đảng. Đề cao chế độ trách nhiệm trong đời sống chính trị của Đảng và trong quan hệ hàng ngày với nhân dân, với Nhà nước của dân và các tổ chức do dân lập ra. * Đổi mới tổ chức cán bộ: Sắp xếp lại hệ thống tổ chức đặc biệt là hệ thống tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, làm cho mô hình tổ chức Đảng không song trùng với bản thân NN. Đảm bảo hệ thống tổ chức các cơ quan gọn nhẹ, linh hoạt, năng động đủ sức thực hiện nhiệm vụ. Đổi mới chính sách cán bộ nhằm thúc đẩy tổ chức và cán bộ theo hướng phát triển tích cực. Trong đó, trước hết là Đảng cần giới thiệu những Đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. * Đổi mới thể chế, cơ chế và quy chế hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị: Trước tiên cần giảm thiểu sự bao biện, chồng chéo cũng như làm thay công việc tổ chức khác trong hệ thống chính trị của Đảng. Sau đó cần dân chủ hóa hoạt động bầu cử trước hết là bầu cử trong Đảng, bảo đảm cơ chế bầu cử trong sạch, dân chủ. Thay đổi những quy định lỗi thời như việc bầu cử nội bộ trong đại hội. Thể chế hóa vai trò giám sát của các tổ chức CT-XH đối với các cơ quan NN và cán bộ, công chức NN. Đẩy mạnh các hoạt động tổng kết lý luận,thực hiện quá trình đổi mới quan hệ Đảng nhà nước. Thiết lập quan hệ gắn bộ mật thiết giữa Đảng và NN. Khắc phục tình trạng chồng chéo trong mối quan hệ Đảng và Nhà nước bằng cách xây dựng hệ thống PL hoàn chính nhằm phân rõ vai trò của Đảng và NN. Nâng cao dân trí cũng như xây dựng đội ngũ cản bộ Đảng viên có năng lực có tâm huyết. Đổi mới nội dung, phương pháp, cách thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững chắc, giảm bớt trung gian. C/ KẾT LUẬN Mối quan hệ giữa ĐCS và NN trong hệ thống chính trị XHCN là mối quan hệ rất phức tạp, nhưng rất thân thiết và khăng khít. Trong mối quan hệ đó, ĐCS giữ vai trò lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị, vạch ra đường lối, phương hướng, mục tiêu định hướng cho sự phát triển NN và lãnh đạo NN, còn NN là tổ chức quyền lực chính trị của nhân dân lao động, chịu trách nhiệm tổ chức hiện đường lối, chính sách của Đảng, thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng thành PL và đảm bảo việc tổ chưc thực hiện PL ấy. Cho nên, nhận thức được mặt tích cực, khắc phục những nhược điểm và có giải pháp đổi mới mối quan hệ mật thiết này là nhiệm vụ hàng đầu trong công cuộc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay nói riêng và quá trình lâu dài tiến lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta nói chung.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLý uận chung - Mối quan hệ giữa Nhà nước và ĐCS trong hệ thống chính trị.doc