Nguồn vốn của doanh nghiệp, phân tích thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 4 . NỘI DUNG 5 ChươngI. Những vấn đề lý luận về nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp và việc sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN . 5 I. Nguồn vốn đầu tư của DN . 1. Khái niệm và bản chất của nguồn vốn đầu tư 5 2. Các nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp 7 II. Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Vấn đề huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN 10 1. Nguồn vốn đầu tư của DNNN . 10 2. Huy động vốn đầu tư tại DNNN 12 3. Sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN . 17 Chương II . Thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN Việt Nam giai đoạn 2001-2007 . 20 I. Thực trạng hoạt động DNNN trong giai đoạn 2001-2007 20 II. Thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN giai đoạn 2001-2007 22 1. Thực trạng huy động vốn đầu tư phát triển của DNNN giai đoạn 2001-2007 22 2. Thực trạng sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN giai đoạn 2001-2007 . 28 III. Kết quả và các tồn tại trong hoạt động huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN 32 1. Kết quả hoạt động huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN . 32 2. Các vấn đề còn tồn tại trong hoạt động huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN 37 3. Nguyên nhân của các tồn tại trên 39 Ch­¬ng III: Mét sè gi¶i ph¸p nh»m t¨ng c­êng huy ®éng vèn vµ n©ng cao hiÖu qu¶ sö dông vèn ®Çu t­ vµ ph¸t triÓn cña DNNN 42 I. Xu hướng phát triển và nhu cầu đầu tư tại DNNN đến năm 2010 42 II Mét sè gi¶i ph¸p nh»m tăng cường huy ®éng vèn vµ nâng cao hiệu quả sử dông vèn ®Çu t­ ph¸t triÓn cña DNNN 44 1. Các giải pháp vĩ mô . 44 2. Giải pháp vi mô . 47 KẾT LUẬN 52 TÀI LIỆU THAM KHẢO . 53 LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tài chính DN có một vị trí quan trọng đặc biệt, chi phối tất cả các khâu của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của một DN, trong đó nguồn vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới các bước của quá trình sản xuất kinh doanh. Vậy nguồn vốn của DN là gì ? Và nguồn vốn của DN có đặc điểm như thế nào? Một vấn đề được đặt ra đó là trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt hiện nay tìm cách để huy động vốn đã khó, nhưng tìm cách sử dụng các phương tiện tài chính hữu ích cao nhất lại là vấn đề khó hơn. Trong giai đoạn phát triển kinh tế ở nước ta, việc thu hút vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh chưa cao, lượng vốn đầu tư vào cho DN còn hạn hẹp. Để có thể thu hút các nguồn vốn đầu tư phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, trước hết các DN cần phải sử dụng có hiệu quả nhất là nguồn vốn kinh doanh của mình. Thế nhưng trong các DN, đặc biệt là DNNN vẫn còn tiếp tục sử dụng lãng phí nguồn vốn, hiệu quả sử dụng vốn thấp . Vậy thực trạng quá trình huy động và sử dụng vốn của DNNN trong giai đoạn vừa qua như thế nào? Và nguyên nhân nào làm cho DNNN hoạt động kém hiệu quả trong những năm vừa qua. Và những giải pháp nào mà Nhà nước nói chung cũng như DNNN nói riêng cần thực hiện để huy động và sử dụng đồng vốn có hiệu quả hơn, trở thành một DN vững mạnh định hướng hoạt động cho các thành phần kinh tế khác? Đây là một trong những bài toán khó đã, đang đặt ra đối với DNNN. Và với những vấn đề đặt ra ở trên nhóm em xin trình bày những ý kiến của mình về đề tài: “ Nguồn vốn của doanh nghiệp. Phân tích thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2007”

doc54 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7450 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nguồn vốn của doanh nghiệp, phân tích thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iều DN khác, phân tán vào nhiều lĩnh vực kể cả không thuộc lĩnh vực ngành nghề chủ yếu. Đáng chú ý, một số tập đoàn, TCT đã dành một lượng vốn khá lớn đầu tư vào ngân hàng, bảo hiểm hoặc mua bán cổ phiếu trên thị trường. Theo báo cáo của 70 tập đoàn, TCT thì có tới 28 đơn vị hoạt động đầu tư chứng khoán, thành lập công ty chứng khoán, đầu tư vào công ty quản lý quỹ, ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm với giá trị đầu tư là 23.344 tỷ đồng, chiếm 8,7% vốn chủ sở hữu và 20% tổng số vốn đầu tư ra ngoài. Cụ thể, Tập đoàn Dầu khí đầu tư 5.780 tỷ đồng, trong đó ngân hàng 1.100 tỷ đồng, công ty chứng khoán 76,5 tỷ đồng, công ty tài chính 4.005 tỷ đồng, công ty bảo hiểm 570 tỷ đồng, quỹ đầu tư 29 tỷ đồng; Tập đoàn công nghiệp Tàu thuỷ Việt nam đầu tư 1.894 tỷ đồng, trong đó lĩnh vực ngân hàng 344 tỷ đồng, bảo hiểm 1.462 tỷ đồng (Bảo Việt), quỹ đầu tư 88 tỷ đồng... Bên cạnh đó, tình trạng DNNN thành lập quá nhiều công ty con, công ty liên kết hoạt động trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác hẳn với lĩnh vực sản xuất kinh doanh trước đây ngày càng phổ biến. Có thể dẫn chứng như: Tổng công ty Thuốc lá; Giấy; Dệt may; Công nghiệp Tàu thuỷ đầu tư vào rượu bia, công nghiệp thực phẩm; Tổng công ty Xây dựng công nghiệp đầu tư vào thuỷ điện, nhiệt điện; Tổng công ty Rượu bia nước giải khát Sài Gòn đầu tư vào thuỷ điện, dầu khí, du lịch … ( Nguồn: ) Một chuyên gia kinh tế hàng đầu Việt Nam lý giải rằng, xu hướng đa ngành, đa lĩnh vực xuất phát từ một thực tế: các tập đoàn đang thay đổi chiến lược kinh doanh theo các ngành nghề nóng, thu lại lợi nhuận cao trong ngắn hạn. Các lĩnh vực đó hoàn toàn không thuộc sở trường của mình nhưng có thể đem lại lợi nhuận cao như bất động sản, chứng khoán, bảo hiểm và ngân hàng. Thậm chí có DN còn bán bớt cổ phần tại các đơn vị kinh doanh mang lại nguồn thu nhập chủ chốt cho mình, để rút vốn đầu tư và xây dựng cao ốc văn phòng cho thuê, khách sạn…Đầu tư tràn lan, chạy theo lợi nhuận trước mắt. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí bên lề Quốc hội, ông Vũ Viết Ngoạn, Phó Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế Quốc hội cho rằng “ Thực tế hiện nay, nhiều DN nhẽ ra phải tập trung nguồn lực, tài chính, con người cho hoạt động chính để phát huy lợi thế cạnh tranh, nhưng họ lại nhìn những lợi ích trước mắt, tập trung đầu tư vào các lĩnh vực khác ngoài lĩnh vực chính của họ. Điều đó dẫn đền nguồn lực phân tán, hiệu quả không cao”. Rất nhiều tập đoàn kinh tế hiện nay bỏ nhiều tiền ra thành lập các ngân hàng, các công ty cổ phần chứng khoán, các khu nghỉ dưỡng, trung tâm thương mại… để hưởng lợi nhanh mà không tập trung vào phát triển ngành nghề , lĩnh vực chính của mình. Họ cũng viện cớ học tập kinh nghiệm các tập đoàn kinh tế nước ngoài về việc đa dạng hóa đầu tư, mở mang ngành nghề… nhưng thực tế không hẳn là như vậy. Mọi hoạt động của họ đều chạy theo lợi ích ngắn hạn mà không tính hết đến rủi ro lâu dài dẫn đến làm thất thoát nhiều tỷ đồng của Nhà nước. Vào cuối năm 2006 đầu năm 2007 khi TTCK đang trong cơn sốt, rất nhiều công ty chứng khoán đã được thành lập vì những khoản lợi to lớn và nhãn tiền thôi thúc họ bỏ tiền ra đầu tư. Chẳng hạn, khi Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn Cao su VN (VRG) được Thủ tướng CP phê duyệt 30/10/2006 thì ngay sau đó 14/11/2006 VRG đã thông qua chủ trương thành lập Công ty cổ phần chứng khoán Cao su, trong đó tài chính cao su đóng góp 51% vốn điều lệ (20,4 tỷ VND). Trong thời gian này nhiều công ty chứng khoán khác cũng ra đời như: “Chứng khoán dầu khí”; “Chứng khoán tàu thủy”, Chứng khóan Bảo Việt (Chứng khoán Gia Quyền) với cổ đông lớn nhất là Vinatex (22% cổ phần). EVN cũng là một trong những TĐKTNN đi đầu trong lĩnh vực đầu tư vào ngân hàng, chứng khoán…( Nguồn: toquoc.gov.vn ). Mong muốn của Nhà nước khi quyết định hình thành các tập đoàn là trông đợi Việt Nam có những DN lớn, kinh doanh hiệu quả, phát triển mạnh, là những “quả đấm thép” cạnh tranh với các tập đoàn nước ngoài, công ty đa quốc gia. Trong chiến lược phát triển, các tập đoàn có thể đa dạng hóa lĩnh vực hoạt động kinh doanh liên quan đến ngành nghề cốt lõi của mình. Các tập đoàn cũng có thể chọn lựa thêm nhiều lĩnh vực khác để chia sẻ rủi ro. Tuy nhiên, nguyên tắc đa dạng hóa những lĩnh vực hoạt động hỗ trợ cho ngành nghề kinh doanh cốt lõi dường như không có mấy tập đoàn thực hiện. Khi các tập đoàn kinh doanh đa ngành như vậy có thể gặp phải các rủi ro. Thứ nhất, khi tập đoàn đi vào những ngành không có thế mạnh, đang cạnh tranh quyết liệt thì không đảm bảo là họ sẽ thành công? Rủi ro thứ hai và cũng nguy hiểm hơn, họ sẽ xao nhãng việc đầu tư vào ngành cốt lõi, những lĩnh vực này không được củng cố trong khi sức ép cạnh tranh tăng cao. Tập đoàn kinh tế nhà nước là DN được giao trọng trách nắm những ngành huyết mạnh của nền kinh tế, có vị trí thống lĩnh trong những ngành đó. Trong trường hợp DN đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, không những gây tổn hại cho bản thân DN mà còn nguy hiểm cho cả nền kinh tế. Thứ ba, bản thân tập đoàn và cả Nhà nước có thể không kiểm soát được những DN bỏ vốn vào. Bản thân các tập đoàn của Việt Nam chưa có tên tuổi nào cạnh tranh ngang ngửa với DN các nước trong khu vực, chưa nói gì đến quốc tế. Báo cáo 200 DN lớn của Việt Nam mới đây do UNDP công bố cho thấy, ở Việt Nam thì các tập đoàn là lớn nhưng so với các nước trong khu vực thì quy mô như vậy chỉ là DN vừa và nhỏ. Dầu khí hay Điện lực có dự án đầu tư ra nước ngoài nhưng chủ yếu là những nơi Việt Nam có quan hệ chính trị tốt, chứ đấu thầu cạnh tranh quốc tế để giành dự án thì chưa có ai cả. III. Kết quả và các tồn tại trong hoạt động huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN. 1. Kết quả hoạt động huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN. 1.1 Quy mô vốn ngày càng cao. Trong quá trình phát triển, DN đã có sự sắp xếp, phân bố lại theo đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và nhà nước. DNNN liên tục giảm về số lượng, năm 2000 là 5759 DN, đến 2003 là 4845 DN, năm 2005 là 4086 DN và cuối năm 2006 còn 3720 DN. Nhưng quy mô của DN nhà nước ngày càng lớn lên. Vốn bình quân một DN năm 2001 là 153 tỷ đồng, năm 2006 là 475 tỷ đồng. Bảng 5: Vốn của DNNN. Năm Tổng số ( tỷ đồng) Vốn chủ sở hữu( tỷ đồng) Tỷ lệ vốn chủ sở hữu (%) 2001 2002 2003 2004 2005 2006 781705 858560 932943 1128484 1338225 1601109 221655 234846 226533 306752 317221 380291 28,36 27,35 24,28 27,18 23,70 23,75 Nguồn: tổng cục thống kê. Bảng 6: DNNN chia theo quy mô nguồn vốn. Năm Tổng số DNNN Chia theo quy mô nguồn vốn Dưới 0.5 tỷ đồng Từ 0.5 tỷ đến dưới 1 tỷ đồng Từ 1 tỷ đến dưới 5 tỷ đồng Từ 5 tỷ đến dưới 10 tỷ đồng Từ 10 tỷ đến dưới 50 tỷ đồng Từ 50 tỷ đồng đến dưới 200 tỷ đồng Từ 200 tỷ đồng đến dưới 500 tỷ đồng Từ 500 tỷ đồng trở lên 2001 2002 2003 2004 2005 2006 5355 5363 4845 4596 4086 3720 113 73 64 35 26 31 100 86 50 31 27 25 1009 856 630 509 397 319 818 748 602 516 423 365 1948 2001 1815 1663 1405 1195 1061 1194 1217 1238 1121 1066 204 284 328 401 429 411 102 121 139 203 258 308 Nguồn: tổng cục thống kê. DNNN có quy mô lớn hơn DN ngoài quốc doanh và DN có vốn đầu tư nước ngoài nhưng mức vốn sản xuất kinh doanh phổ biến từ 10 đến dưới 200 tỷ đồng một DN và trang bị tài sản cố định cho lao động cũng ở mức từ 150 đến dưới 300 triệu đồng một lao động. Mặc dù quy mô vốn kinh doanh bình quân một DNNN cao hơn khu vực DN dân doanh và DN có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng tỷ trọng số vốn của DNNN trong tổng số vốn của các DN bị giảm mạnh trong khi của DN dân doanh lại tăng lên và của DN khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm ít hơn. 1.2 Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp. Chất lượng và hiệu quả hoạt động của DNNN ngày càng tốt hơn nhưng hiệu quả sử dụng vốn còn thấp, tỷ suất lợi nhuận của vốn mới đạt 3.52% năm 2006, tăng hơn một chút so với năm 2005 ( 3.21%). Tuy DNNN có quy mô lớn nhất, vốn đầu tư cũng nhiều nhất nhưng hiệu quả kinh doanh lại không phải là cao nhất, chưa tương xứng với đầu tư của nhà nước và lượng vốn bỏ ra. Tỷ suất lợi nhuận / vốn kinh doanh của DNNN chỉ bằng 1/3 so với DN có vốn đầu tư nước ngoài và tỷ lệ nộp vào ngân sách cũng chưa cao. Bảng 7: Hiệu quả sử dụng vốn của DNNN so với DN ngoài quốc doanh và DN có vốn đầu tư nước ngoài Loại hình DN Năm Tỷ suất lợi nhuận ( % ) Trên vốn sản xuất kinh doanh Trên doanh thu Toàn bộ DN trong nền kinh tế 2001 2002 2003 2004 2005 2006 3.777 4.320 4.535 4.85 4.35 4.94 5.046 5.134 5.368 5.99 5.23 6.12 DNNN 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2.453 2.900 2.768 3.15 3.21 3.52 4.176 4.179 4.154 5.27 5.40 6.22 DN ngoài quốc doanh 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2.277 2.311 2.146 1.62 1.49 2.01 1.343 1.504 1.492 1.25 1.21 1.74 DN có vốn đầu tư nước ngoài 2001 2002 2003 2004 2005 2006 8.740 9.991 11.598 13.04 11.25 13.15 13.019 13.612 14.602 15.37 11.82 14.19 Bảng 8: Kết quả kinh doanh của DNNN so với DN ngoài quốc doanh và DN có vốn đầu tư nước ngoài. Loại hình DN Năm Doanh thu thuần bình quân 1 lao động ( triệu đồng ) Tỷ lệ nộp ngân sách so với doanh thu ( % ) Toàn bộ DN trong nền kinh tế 2001 2002 2003 2004 2005 2006 238 260 281 303 356 409 9,23 9,04 7,56 8,10 7,28 7,00 DNNN 2001 2002 2003 2004 2005 2006 228 275 300 323 421 525 10,85 9,27 7,87 7,76 7,88 7,29 DN ngoài quốc doanh 2001 2002 2003 2004 2005 2006 206 214 237 260 289 339 2,7 3,25 3,4 3,51 3,49 2,98 DN có vốn đầu tư nước ngoài 2001 2002 2003 2004 2005 2006 368 327 341 365 411 420 14,82 17,75 16,52 12,74 14,12 13,76 Nguồn: tổng cục thống kê. Thực tế cho thấy tình trạng sử dụng vốn kém hiệu quả, vòng quay của đồng vốn còn thấp, tỷ suất lợi nhuận trên vốn của DNNN còn thấp như năm 2005 là 3.21%, năm 2006 là 3.52 % ( trong khi đó với các DN có vốn đầu tư nước ngoài năm 2005 là 11.25%, năm 2006 là 13.15%) và như vậy sẽ không đáp ứng được cho quá trình tích lũy tái sản xuất, có nhiều DN thua lỗ, hoạt động kém hiệu quả. Theo xếp loại DNNN của Bộ Tài chính, trong tổng số DNNN được xếp hạng, thì chỉ có 44,4% xếp loại A, 39,5% xếp loại B, 16,1% xếp loại C. Số DN kinh doanh thua lỗ chiếm 19,5%, với tổng số lỗ của các DNNN phát sinh năm 2005 là 1.919 tỉ đồng; tổng số lỗ lũy kế tính đến cuối năm 2005 là 654 tỉ đồng. Trong đó Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 5 là 430 tỉ đồng, Tổng công ty Dâu tằm tơ là 220 tỉ đồng. Nhiều DNNN khác cũng lỗ lớn, như Tổng công ty xi măng, Tổng công ty cà phê, Tổng công ty mía đường I, Tổng công ty xây dựng đường thủy, Tổng công ty xây dựng Thăng Long, Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 6... Trong các đơn vị trên, đơn vị thua lỗ lũy kế nhiều nhất lên đến 1.352 tỉ đồng, gấp gần 13 lần số vốn bình quân một DNNN. Theo Bộ Tài chính, tổng tài sản của DNNN đạt 747,4 nghìn tỉ đồng. Trong tổng tài sản "đo đếm được" thì nợ phải thu chiếm 22,2%, số nợ đến hạn lên đến 449,2 nghìn tỉ đồng, trong đó vay ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng chiếm 76%, số còn lại là nợ các khoản phải nộp ngân sách nhà nước, chiếm dụng vốn của DN khác, vay của người lao động trong DN. Hệ số nợ phải trả tính trên vốn nhà nước của không ít DNNN, đặc biệt là những DN hoạt động trong lĩnh vực xây dựng công trình giao thông rất cao, lên tới 5 lần, thậm chí có đơn vị lên tới 30-35 lần, chẳng những làm cho khả năng thanh toán nợ kém mà còn dẫn đến rủi ro. Theo số liệu của Ngân hàng Phát triển Việt Nam, năm 2007 các dự án xây dựng công trình giao thông phải trả nợ 1.416 tỉ đồng vốn vay tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước (cả gốc, lãi đến hạn hoặc được khoanh đã đến hạn trả nợ). Theo số liệu của Tổng cục thống kê cho thấy tổng số lãi của DNNN năm 2005 là 53533 tỷ đồng, năm 2006 là 67182 tỷ đồng và tổng số lỗ của DNNN năm 2005 là 4656 tỷ đồng, năm 2006 là 4897 tỷ đồng, trong khi đó DN có vốn đầu tư nước ngoài tổng số lãi năm 2005 là 67744 tỷ đồng, năm 2006 là 98498 tỷ đồng, tổng số lỗ là 8376 tỷ đồng năm 2005, và 12336 tỷ đồng năm 2006. Các DNNN chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng dư nợ tín dụng và đầu tư xã hội cụ thể là hơn 50% vốn đầu tư nhà nước, 70% tổng dư nợ quốc gia và hơn 80% tổng dư nợ tín dụng. Bảng 9: Số DNNN làm ăn có lãi và số DNNN lỗ. Năm DN có lãi DN lỗ So với tổng số DN ( % ) Số DN ( DN ) Tổng mức lãi (tỷ đồng ) Lãi bình quân một DN (triệu đồng ) Số DN ( DN ) Tổng mức lỗ (tỷ đồng ) Lỗ bình quân một DN (triệu đồng ) Số DN lãi Số DN lỗ 2001 2002 2003 2004 2005 2006 4249 4449 3847 3727 3253 3066 23557 29130 30956 43920 53533 67182 5544 6548 8047 11784 16457 21912 894 787 838 739 701 531 -3411 -3171 -2764 -5638 -4656 -4897 -3815 -4030 -3298 -7629 -6642 -9222 79,35 82,96 79,40 81.09 79,61 82,42 16,69 14,67 17,30 16,08 17,16 14,27 Nguồn: Tổng cục thống kê. 2. Các vấn đề còn tồn tại trong hoạt động huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN. 2.1 Nhiều DN huy động vốn quá lớn, dư nợ nhiều. Nhà nước chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ hoạt động huy động vốn của DNNN nên có nhiều công ty nhà nước huy động vốn quá lớn, dư nợ phải trả lớn gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu. Các DN đã lợi dụng sự ưu đãi của mình huy động vốn tràn lan, gây thất thoát lớn và lãng phí. DNNN huy động vốn từ lợi thế được ưu đãi của các tập đoàn kinh tế nhà nước (TĐKTNN) với lãi suất cơ bản 8,5%/năm và tối đa không quá 150 mức lãi cơ bản đó. Điều đó lý giải tại sao có nhiều TĐKTNN có số vốn vay vượt rất xa số vốn chủ sở hữu của họ. Thống kê ban đầu cho thấy, các DN đã huy động vốn gần hơn 20 lần số vốn tự có của mình. Đặc biệt có TCT như CIESCO 5 đã huy động vốn gấp 42 lần số vốn tự có. Và nếu như các DN này hoạt động không hiệu quả với nguồn vốn huy động được thì sẽ xảy ra tổn thất vô cùng lớn với xã hội. Cho đến nay, ở nước ta vẫn chưa có quy định cụ thể nào khống chế lượng vốn huy động của các công ty. Phần lớn các DNNN khi vay không có tài sản để đảm bảo, hoặc nếu có thì hồ sơ pháp lý chưa đầy đủ. Do không xác định về điều kiện và mức khống chế nên có nhiều tổng công ty, TĐKT nhà nước có nợ phải trả lớn gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu, dẫn đến khả năng thanh toán không được đảm bảo. Hệ số nợ phải trả tính trên vốn nhà nước của không ít DNNN, đặc biệt là những DN hoạt động trong lĩnh vực xây dựng công trình giao thông rất cao, lên tới 5 lần, thậm chí có đơn vị lên tới 30-35 lần, chẳng những làm cho khả năng thanh toán nợ kém mà còn dẫn đến rủi ro. Điển hình, trong thời gian qua đã có một số tổng công ty, công ty nhà nước lâm vào tình trạng này như: TCT Xây dựng Công trình giao thông I có số nợ gấp 36,7 lần vốn chủ sở hữu, TCT Xây dựng miền Trung gấp 35 lần, TCT Xây dựng Công trình giao thông 5 gấp 32,7 lần, tập đoàn công nghiệp tàu thủy gấp 17,2 lần. Theo báo cáo kiểm toán 4 tổng công ty lớn là: tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), Tổng Công ty Truyền thông đa phương tiện (VTC), Tổng Công ty Khánh Việt, và Tổng Công ty Địa ốc Sài Gòn. , tổng nợ phải trả của các DN trên là khá lớn. Cụ thể, với Vinaline tổng nợ phải trả lên tới 17.071 tỷ đồng, gầp 2,3 lần vốn chủ sở hữu. VTC sẽ phải thanh toán nợ 369 tỷ đồng, gấp 1,83 lần vốn chủ sở hữu. Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của Địa ốc Sài Gòn và Khánh Việt thấp hơn, lần lượt là 0,76 và 0,17 lần. 2.2 Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Cơ cấu đầu tư còn chưa hợp lý, chưa tập trung vào đầu tư nguồn nhân lực, đa số trình độ lao động là phổ thông hoặc được đào tạo không chính quy vì vậy khi đưa tiến bộ công nghệ vào sản xuất hoặc ngành công nghệ cao thì đội ngũ lao động hiện tại không đủ trình độ để đáp ứng yêu cầu, tình trạng thiếu kỹ thuật tay nghề cao ngày càng trầm trọng. Theo số liệu Tổng cục thống kê năng suất lao động của DNNN còn thấp năm 2004 là 303 triệu đồng /người, năm 2005 là 356 trđ/người, năm 2006 là 409 trđ/người. DN cũng chưa chịu đổi mới trang thiết bị kĩ thuật, đầu tư mua sắm thêm các trang thiết bị. Nhiều máy móc, thiết bị của DNNN đã lạc hậu từ 10 đến 30 năm, trong đó có không ít tài sản chờ thanh lý; nhiều máy móc, thiết bị tuy được đầu tư hiện đại nhưng không huy động hết công suất ( nhiều DN có hiệu suất sử dụng tài sản cố định chỉ đạt 50-60% ) hoặc tổng vốn đầu tư lớn dẫn đến chi phí khấu hao, chi phí lãi vay trong giá thành sản phẩm cao. Trình độ công nghệ của DNNN còn lạc hậu; một số DN còn sử dụng công nghệ cũ, tiêu hao nhiên liệu, năng lượng cao. Nhiều DNNN năng suất lao động và hiệu quả hoạt động còn thấp, sức cạnh tranh chưa đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế; còn khoảng 15% số DN làm ăn thua lỗ. Ở nước ta có rất nhiều tập đoàn kinh tế nhà nước được hình thành, nhưng một vấn đề quan trọng là tính hiệu quả của các tập đoàn kinh tế khi mở rộng cơ cấu đầu tư sang các lĩnh vực khác không phải sở trường. Tổng đầu tư của Nhà nước thường tập trung cho các tập đoàn nhưng hầu như các tập đoàn hoạt động không hiệu quả lại đang tìm cách bành trướng sang các lĩnh vực khác kiếm được nhiều lợi nhuận hơn như ngân hàng, bưu chính viễn thông, bất động sản ….Như điện thiếu, ngành điện không lo tập trung cho việc chính mà chỉ lo tăng giá điện ( kêu là thiếu vốn trầm trọng ) trong khi đó họ lại có tiền đầu tư vào các ngành khác như : ngân hàng, bưu chính…Trong khi các tập đoàn trên thê giới đang có xu hướng tập trung nguồn lực để phát triển thành các tập đoàn quốc gia có thể mạnh về một lĩnh vực vượt trội cụ thể như Microsoft nổi tiếng về công nghệ phần mềm, Walmart kinh doanh chuỗi siêu thị bán lẻ…..thì các tập đoàn của Việt Nam với công nghệ, vốn, trình độ quản lý, nhân lực ….. còn khiêm tốn thì lại không tập trung vào các lĩnh vực có thế mạnh và chuyên ngành lĩnh vực thuộc sở trường của mình mà lại chủ trương kinh doanh đa ngành. Đa phần các tập đoàn đầu tư vào các lĩnh vực ngân hàng, bất động sản, chứng khoán…..Những lĩnh vực đó không thuộc sở trường của họ có thể đem lại nhiều lợi nhuận cao nhưng đồng thời chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn trong rủi ro của nền kinh tế, và cũng có thể sẽ gây ra sự lãng phí trong việc sử dụng đồng vốn của mình. 2.3.Vòng quay vốn lưu động thấp. Vòng quay vốn của các DNNN còn thấp, theo số liệu của Tổng cục thống kê hệ số quay vòng vốn chủ sở hữu DNNN năm 2001 là 2.2, năm 2003 là 2.9, năm 2004 là 2.6. Nguồn vốn lưu động định mức do Nhà nước cấp lần đầu để đảm bảo điều kiện bình thường khi thành lập doanh nghiệp nhà nước trong quá trình sản xuất kinh doanh do sản xuất không tiêu thụ được gây ra tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau. 2.4. Việc giám sát, quản lý hoạt động đầu tư còn nhiều bất cập. Việc quản lý, giám sát các hoạt động đầu tư của DN còn kém. Không chỉ đứng trên góc độ quản lý của nhà nước trong việc sử dụng vốn đầu tư của DN cũng như quản lý các dự án đã và đang đầu tư của DN mà ngay việc quản lý hoạt động đầu tư của DN cũng còn nhiều điều đáng phải bàn. DN đầu tư tràn lan, nhiều dự án phải đình hoãn do thiếu vốn. Nhiều dự án thì bị rút ruột nên thiếu vốn hoặc hoàn thành nhưng với chất lượng kém. Đó là do việc quản lý lỏng lẻo của nhà nước và cũng do trình độ quản lý kém. 3 Nguyên nhân của các tồn tại trên. 3.1 Nguyên nhân khách quan. Nguyên nhân thứ nhất có thể nói đến là trong DNNN, sở hữu DN là toàn dân. Nhà nước ( Chính phủ ) đại diện cho toàn dân quản lý phần vốn, tài sản này. Chính phủ giao cho hội đồng quản trị hay giám đốc ( đối với DN không có hội đồng quản trị ) quản lý, sử dụng. Nhìn chung, những người điều hành DNNN chịu rất nhiều ràng buộc khi bố trí, sắp xếp nhân sự, tổ chức hoạt động kinh doanh phần vốn của nhà nước. Theo Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003, người điều hành DN phải tổ chức DN hoạt động kinh doanh có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn nhà nước, nhưng trên thực tế mọi hoạt động của DNNN đều tuân thủ quy trình hành chính trong tất cả các việc từ mua sắm hay đầu tư cái gì cũng đều phải lên kế hoạch, làm tờ trình, xin được phê duyệt, gọi thầu, đầu thầu….. Nếu chỉ cần bỏ qua một trong các bước có thể bị truy cứu về tội “ cố ý làm trái”. Trong khi đó sự vận hành của thương trường đòi hỏi sự tranh thủ thời gian, nắm bắt cơ hội, có như thế mới có thể chiến thắng trong cạnh tranh. Thứ hai là Nhà nước can thiệp quá nhiều vào hoạt động của DN trong quá trình cấp vốn, sử dụng vốn, đầu tư. Cơ chế bộ chủ quản, tỉnh chủ quản – đã trở thành cơ chế không phù hợp trong nền kinh tế thị trường, bởi trong kinh tế thị trường “cấp trên” của DN là pháp luật, Nhà nước chủ yếu tạo hành lang pháp lý cho các DN hoạt động, cạnh tranh bình đẳng, tránh tình trạng “con đẻ” ( những DN do mình chủ quản ), “con nuôi” ( DNNN cùng chuyên ngành nhưng thuộc bộ ngành khác hoặc thuộc địa phương quản lý ). DNNN tuy thuộc sở hữu nhà nước nhưng vai trò, trách nhiệm của chủ sở hữu và người quản lý lại không được xác định rõ ràng, trong khi DN thuộc các bộ chủ quản thì lại cũng không có cơ quan nào phải chịu trách nhiệm cuối cùng về hoạt động của DN. Với quy định như vậy, khi hoạt động thực tế thì “lý do khách quan” thường được chấp nhận nhất nếu DN hoạt động không hiệu quả. Mặt khác, trong luật phá sản DN quy định DN hoạt động kinh doanh bị thua lỗ liên tục sẽ bị làm thủ tục phá sản. Nhưng trong thực tế hầu như chưa có DN nào bị lỗ liên tục hai năm mà phải phá sản, thậm chí nhiều DN thua lỗ quá nhiều nhưng vẫn không thể làm thủ tục phá sản được. Như vậy đã không tạo cho DNNN tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho hoạt động của mình, không tạo ra được tính năng động và cuối cùng là dẫn đến hoạt động kém hiệu quả. Thứ ba, các DNNN ở nước ta được hưởng rất nhiều chính sách ưu đãi, hầu như trông chờ vào tín dụng của Nhà nước, vào tín dụng ưu đãi, vào vốn vay của các ngân hàng thương mại quốc doanh….mà thiếu cách nhìn mới về nguồn vốn huy động nhất là nguồn vốn trong dân : như huy động qua trái phiếu….. Trong khi đó các DN tư nhân hoạt động có hiệu quả hơn so với DNNN thì hầu như lại không có sự trợ cấp hay ưu đãi nào. Chẳng hạn như Chính phủ có các nguồn vốn ODA, nhưng nguồn vốn này hầu như chỉ được giao cho khu vực kinh tế quốc doanh, dù rằng hiệu quả sử dụng nguồn vốn thấp và có rất nhiều lãng phí, thất thoát khi tổ chức thực hiện. Vì thế mà các DNNN dường như mất đi tính năng động, tính cạnh tranh của thị trường. Thí dụ như muốn sản phẩm mình có thị trường tiêu thụ tốt thì luôn luôn phải có các giải pháp nâng cao chất lượng, tiết kiệm chi phí để giảm giá thành. Chính động lực này sẽ thúc đẩy DN phát triển và đạt hiệu quả kinh doanh tốt. Nhưng đối với các DNNN nếu để tự lo liệu họ sẽ có thể giảm giá thành ngay, và nâng cao chất lượng cạnh tranh với các DN khác và phát triển hoặc không sẽ lẹt đẹt, khó tồn tại. 3.2 Nguyên nhân chủ quan . Trong các nguyên nhân chủ yếu làm cho DNNN yếu kém có nguyên nhân do nhiều máy móc, thiết bị của DNNN đã lạc hậu từ 10 đến 30 năm, trong đó không ít tài sản chờ thanh lý; nhiều máy móc, thiết bị tuy được đầu tư hiện đại nhưng không huy động hết công suất ( nhiều DN có hiệu suất sử dụng tài sản cố định chỉ đạt 50-60% ), sử dụng nguyên liệu cao hơn định mức, lãng phí trong quá trình sản xuất, sản phẩm hư hỏng nhiều, chi phí tiền lương tăng và do nhu cầu mở rộng sản xuất nên nhiều đơn vị có vốn vay chiếm tới 90% tổng vốn, dẫn đến chi phí khấu hao, chi phí tiền trả lãi vay chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm. Một nguyên nhân nữa làm cho DNNN hoạt động kém hiệu quả là lãng phí của DNNN. Không ai lại lãng phí trong tài sản của mình nhưng tài sản nhà nước thì hoàn toàn có thể, chỉ cần họ không sai luật hay không bị luật pháp truy cứu. Vì thế DNNN không tập trung được nguồn vốn để đầu tư trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, hay cho nguồn nhân lực…đầu tư còn quá dàn trải không đồng đều, gây ra sự lãng phí mà hiệu quả của việc đầu tư không cao, kém hiệu quả. Qua thực trạng sử dụng vốn của DNNN chúng ta đã thấy một số những vấn đề còn bất cập trong quá trình hoạt động của DNNN. Vậy để nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng đồng vốn có hiệu quả, để DNNN trở thành thành phần kinh tế dẫn đầu và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác nhóm chúng em xin đưa ra một số kiến nghị về giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN. Ch­¬ng III: Mét sè gi¶i ph¸p nh»m t¨ng c­êng huy ®éng vèn vµ n©ng cao hiÖu qu¶ sö dông vèn ®Çu t­ vµ ph¸t triÓn cña DNNN. 1. Xu hướng phát triển và nhu cầu đầu tư tại DNNN đến năm 2010. Thực tế những năm vừa qua, Nhà nước ta đã tiến hành cải tổ mạnh mẽ DNNN bằng cách tiến hành cổ phần hóa, sắp xếp lại các DN, giao, bán, khoán, cho thuê để nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém của DNNN phát sinh do được Nhà nước bảo hộ và ưu đãi quá nhiều. Xu hướng phát triển của khối DNNN nói chung là tiếp tục tiến hành cổ phần hóa. Đối với các DN đã cổ phần hóa thì nhanh chóng tiến hành niêm yết trên thị trường để nhằm huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu. Chñ tr­¬ng ®æi míi cña ChÝnh phñ lµ tõ nay ®Õn n¨m 2010 sÏ tiÕp tôc ®Èy m¹nh s¾p xÕp, cæ phÇn ho¸, ®æi míi tæ chøc qu¶n lý cña DNNN, thÝ ®iÓm CPH c¸c tËp ®oµn kinh tÕ. Sau 2010, hÇu hÕt c¸c tËp ®oµn kinh tÕ sÏ CPH ®Ó trë thµnh c¸c tËp ®oµn ®a së h÷u, ®a ngµnh nghÒ, víi sù tham gia cña cæ ®«ng chiÕn l­îc lµ c¸c ®èi t¸c trong vµ ngoµi n­íc. Môc tiªu lµ cæ phÇn ho¸ ®­îc h¬n 1500 DN vµo n¨m 2010. §Õn cuèi n¨m 2010, c¶ n­íc chØ cßn 554 DN co 100% vèn nhµ n­íc, trong ®ã cã 26 tËp ®oµn, tæng c«ng ty cã quy m« lín; 178 DN ho¹t ®éng trong lÜnh vùc an ninh, quèc phßng, s¶n xuÊt cung øng s¶n phÈm, dÞch vô thiÕt yÕu; 200 n«ng l©m tr­êng; 150 DN thµnh viªn c¸c tËp ®oµn, tæng c«ng ty Nhµ n­íc. Nh­ vËy ®Õn cuèi n¨m 2010, c¶ n­íc cßn 745 DN, trong ®ã chuyÓn sang c«ng ty tr¸ch nhiÖm h÷u h¹n 1 thµnh viªn 517, c«ng ty n«ng nghiÖp cßn 105 vµ 125 c«ng ty l©m nghiÖp. Bªn c¹nh ®ã, chØ cßn l¹i kho¶ng 60 T§, c«ng ty do nhµ n­íc chi phèi. Tr­íc m¾t chóng ta ch­a tiÕn hµnh cæ phÇn hãa c¸c n«ng, l©m tr­êng quèc doanh ®Ó tiÕp tôc hoµn thiÖn c¬ chÕ liªn quan ®Õn quyÒn sö dông ®Êt; thÝ ®iÓm CPH c¸c DN c«ng Ých. §èi víi danh môc c¸c DN cæ phÇn ho¸ ®· n»m trong kÕ ho¹ch, phã thñ t­íng yªu cÇu c¸c bé, nghµnh ®Þa ph­¬ng tiÕp tôc chØ ®¹o gi÷ nguyªn tiÕn ®é, g¾n CPH víi ®Êu gi¸ trªn sµn giao dÞch chøng kho¸n ®Ó c«ng khai, minh b¹ch ho¸, lùa chän thêi ®iÓm thÝch hîp ®Ó b¸n tiÕp. C«ng ty §Çu t­ kinh doanh vèn nhµ n­íc (SCIC) còng gi÷ tèi ®a 50-60 tæng c«ng ty ®¹i diÖn chñ së h÷u nhµ n­íc, cßn l¹i sÏ tiÕn hµnh CPH. Nước ta đã gia nhập WTO, xu hướng nổi bật trong sự phát triển của DNNN là tính chất quốc tế hóa bao phủ ngày càng đậm nét và xuyên suốt các quá trình sản xuất - kinh doanh của DN, từ việc tiếp cận các yếu tố “đầu vào” (nguyên liệu, công nghệ, nguồn vốn, thiết bị máy móc, kể cả nhân lực...), đến quá trình tổ chức quản lý bên trong doanh nghiệp (cơ  cấu tổ chức, công nghệ quản lý, các tiêu chuẩn chất lượng...), cũng như việc thực hiện “đầu ra” cho các hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp (thị trường, đối tác và các luật lệ, thể chế quốc tế)... Tư  duy  toàn cầu, thị trường toàn cầu và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu sẽ ngày càng chi phối tư duy, thị trường và định hướng chiến lược phát triển của DN. Bản thân các DNNN cũng không thể trông chờ, phụ thuộc mãi vào Nhà nước nên những năm gần đây khối DNNN đã cố gắng rất nhiều. Xu hướng phát triển của DNNN đó là sắp xếp, tổ chức lại bộ máy DN sao cho bớt cồng kềnh, phát huy được hết năng lực của các thành phần, các phòng ban của DN. Và điều quan trọng nhất để giúp DNNN đứng vững được trên thương trường đó là DNNN phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tăng khả năng cạnh tranh của DN. Hiện nay, hiệu quả sản xuất mạng lại không phải do yếu tố vốn hay lao động, đất đai là chủ yếu mà nhân tố quan trọng nhất đó chính là thành phần TFP. Vì thế đổi mới công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học là xu hướng phát triển tất yếu của các DN nói chung và DNNN nói riêng. §æi míi c«ng nghÖ trong doanh nghiÖp chÝnh lµ nÒn t¶ng ®Ó n©ng cao n¨ng suÊt, chÊt l­îng, h¹ gi¸ thµnh s¶n phÈm; n©ng cao kh¶ n¨ng c¹nh tranh cña mçi doanh nghiÖp. Ph¸t triÓn lùc l­îng s¶n xuÊt theo ®Þnh h­íng c¬ cÊu hîp lý nh»m ®¹t ®­îc yªu cÇu vÒ qu¸ tr×nh CNH rót ng¾n, phèi hîp gi÷a lîi thÕ vÒ nh©n lùc dåi dµo, nguån tµi nguyªn, vµ b­íc “nh¶y vät c¬ cÊu” tËn dông nguån nh©n lùc trÝ tuÖ ViÖt Nam vµ lîi thÕ c«ng nghÖ thÕ giíi. Trong bèi c¶nh héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ, viÖc nghiªn cøu, tiÕp thu vµ øng dông c¸c thµnh tùu khoa häc vµ c«ng nghÖ, thiÕt bÞ lµ yÕu tè quyÕt ®Þnh trong viÖc n©ng cao søc c¹nh tranh cña doanh nghiÖp vµ nÒn kinh tÕ. ChÝnh v× thÕ, viÖc ®æi míi c«ng nghÖ khoa häc lµ mét trong nh÷ng néi dung träng t©m cña chiÕn l­îc ph¸t triÓn khoa häc c«ng nghÖ ë ViÖt Nam. Nh×n chung, viÖc ®æi míi c«ng nghÖ, thiÕt bÞ ë c¸c doanh nghiÖp trong n­íc míi chØ dõng l¹i ë viÖc ®i mua m¸y mãc, thiÕt bÞ míi vµ n¾m c¸c thao t¸c cÇn thiÕt ®Ó vËn hµnh chóng. PhÇn lín c¸c doanh nghiÖp ®Òu kh«ng cã nh÷ng nghiªn cøu chuyªn s©u ®Ó lµm chñ c¶i tiÕn vµ ph¸t triÓn c«ng nghÖ…ViÖc ®æi míi c«ng nghÖ ®ang vµ sÏ lµ vÊn ®Ò cÊp b¸ch cÇn gi¶i quyÕt ®Çu tiªn cña c¸c DN nãi chung vµ c¸c DNNN nãi riªng. Xu hướng phát triển của DNNN là mở rộng quy mô hoạt động, thêm nhiều dự án đầu tư lớn, đổi mới công nghệ. Để làm được điều đó DN phải có được nguồn vốn lớn. Như chúng ta cũng đã thấy, có rất nhiều dự án dang dở, hay phải dừng lại hoặc bị hủy bỏ ngay từ ban đầu do thiếu vốn. Với nhu cầu đầu tư lớn như vậy DNNN cần rất nhiều vốn. Đó là bài toán khó đối với DNNN nếu muốn phát triển. II Mét sè gi¶i ph¸p nh»m n©ng cao hiÖu qu¶ huy ®éng vèn vµ sö dông vèn ®Çu t­ ph¸t triÓn cña DNNN. 1. Các giải pháp vĩ mô. 1.1. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi khuyến khích nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN . Nhà nước cần có những đổi mới trong cơ chế, chính sách pháp luật, hình thành khung pháp lý đồng bộ, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng trong cơ chế thị trường cho DN thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó DNNN phát huy được đầy đủ quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh. Nhà nước cũng cần có những chính sách hỗ trợ nguồn vốn vào các DN vừa và nhỏ, tạo điều kiện cho các DN có điều kiện phát triển và tiếp tục thúc đẩy hoạt động của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn tạo nên những tiềm lực mạnh cho nền kinh tế. Thứ hai là tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng xây dựng, hiệu lực quản lý chiến lược, các quy định trong quản lý đầu tư xây dựng theo hướng phân cấp, giao quyền trách nhiệm cho chủ đầu tư để nâng cao hiệu quả đầu tư của DNNN. Nhà nước nên tập trung tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong việc thẩm định, phê duyệt dự án, thủ tục hành chính để đẩy nhanh tiến độ đầu tư của các DNNN. 1.2. Phát triển thị trường tài chính. Phát triển thị trường tài chính cũng là một trong các chính sách quan trọng. Trong bối cảnh hiện nay, muốn phát triển thị trường tài chính cần phải có các điều kiện sau: Thứ nhất, phải có một cơ chế lãi suất linh hoạt và chịu sự điều tiết của thị trường. Trên thị trường tài chính, lãi suất là phương tiện quan trọng nhất để điều tiết cung cầu tiền vốn.Cơ chế lãi suất linh hoạt, nhạy bén sẽ cung cấp cho người vay những thông tin tài chính kịp thời, chính xác để từ đó có những quyết sách phù hợp với thực tế, thúc đẩy lưu thông tiền vốn và tăng cạnh tranh thị trường. Trái lại, khi cơ chế lãi suất cứng nhắc sẽ làm mất tính linh hoạt trên thị trường và không kích thích sự phát triển các công cụ tài chính, hạn chế cung cầu vốn… Thứ hai, phải có các công cụ tài chính phong phú, đa dạng. Số lượng và hình thức các công cụ này sẽ quyết định phạm vi giao dịch và quy mô của thị trường tài chính. Với sự ra đời của thị trường chứng khoán, các công cụ tài chính ở Việt Nam đang dần được bổ sung và phát triển hoàn thiên. Thứ ba, xây dựng và đa dạng hóa các tổ chức tài chính ngân hàng, các công ty tài chính…những chủ thể chính tham gia thị trường trong môi trường cạnh tranh. Nâng cao năng lực hoạt động của các ng©n hµng th­¬ng m¹i, n©ng cao n¨ng lùc qu¶n trÞ, ®æi míi c«ng nghÖ, ph¸t triÓn m¹nh mÏ hÖ thèng chi nh¸nh vµ c¸c dÞch vô tiÖn Ých ng©n hµng. B¶o ®¶m an toµn trong ho¹t ®éng cña hÖ thèng ng©n hµng vµ c¸c tæ chøc tÝn dông, t¹o ®iÒu kiÖn thuËn lîi ®Ó thÞ tr­êng chøng kho¸n, c¸c quü ®Çu t­ c¸c ®Þnh chÕ tµi chÝnh ph¸t triÓn lµnh m¹nh. Việc xây dựng và phát triển các loại hình tổ chức tài chính sẽ khuyến khích sự đa dạng và cạnh tranh, thúc đẩy nhanh quá trình luân chuyển vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Thứ tư, phải xây dựng và phát triển mạng lưới thông tin. Thứ năm, cuối cùng để thị trường tài chính có thể phát triển đầy đủ thì kinh tế xã hội phải tương đối ổn định để các nhà đầu tư yên tâm và phải có một hệ thống pháp luật toàn diện bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Về phía nhà nước, thùc hiÖn chÝnh s¸ch tµi chÝnh tiÒn tÖ linh ho¹t víi sù gi¸m s¸t, ®iÒu tiÕt cña nhµ n­íc theo nguyªn t¾c thÞ tr­êng ®¶m b¶o môc tiªu æn ®Þnh c¬ chÕ thÞ tr­êng, æn ®Þnh gi¸ trÞ ®ång tiÒn, kiÓm so¸t ®ược l¹m ph¸t, thóc ®Èy t¨ng tr­ëng kinh tÕ. KÕt hîp chÆt chÏ chÝnh s¸ch tiÒn tÖ víi chÝnh s¸ch tµi kho¸ ®Ó æn ®Þnh vÜ m«, t¨ng dù tr÷ ngo¹i tÖ, khuyÕn khÝch thùc hµnh tiÕt kiÖm trong tiªu dïng tËp trung cho vèn đầu t­ ph¸t triÓn. HÖ thèng ng©n hµng nhµ n­íc ph¶i ®¶m b¶o huy ®éng ®­îc mäi nguån vèn trong n­íc, cung øng kÞp thêi vÒ nguån vèn cho c¸c DN, x©y dùng mét thÞ tr­êng vèn lµnh m¹nh. HÖ thèng tµi chÝnh nhµ n­íc cần cã mét chÝnh s¸ch thu hîp lý kiÓm so¸t c¸c nguån thu, ®¶m b¶o sù c«ng b»ng trong nép thuÕ; t¨ng c¸c nguån vèn cho ®Çu t­ ph¸t triÓn, ®Æc biÖt lµ ®Çu t­ ph¸t triÓn h¹ tÇng kinh tÕ x· héi. 1.3. Nhµ n­íc qu¶n lý vµ gi¸m s¸t ho¹t ®éng cña DNNN. Nhà nước cần siết lại quản lý, sắp đặt lại giám sát, đòi hỏi tối đa sự minh bạch của DNNN. Trước hết, nên giao trách nhiệm lớn cho các đơn vị: như Bộ tài chính để xem xét thêm hoạt động của DNNN như thế nào, kiểm soát chặt quyền tài chính của họ; SCIC tăng cường vai trò của mình, tăng cường sự quản lý. Hai là, kiểm toán nhà nước cần được giao quyền và năng lực đầy đủ để kiểm toán thường xuyên DNNN. Mật độ kiểm toán dày hơn. Kiểm toán để phát hiện sai phạm, không nhằm trừng trị mà phát hiện cái yếu, từ đó khắc phục vươn lên. Việc này vừa đảm bảo cái lợi về lâu dài cho năng lực cạnh tranh của tập đoàn, vừa giúp Nhà nước quản lý tốt hơn. Ba là, hệ thống ngân hàng, đặc biệt các ngân hàng thương mại quốc doanh cần kiểm soát vốn vay tốt hơn. Trong cho vay tín dụng, vẫn còn tình trạng, nể nang, ảnh hưởng này khác, cho DNNN vay nhưng chưa chặt chẽ trong xem xét tính khả thi dự án so với DN tư nhân hoặc DNNN nhỏ. Nếu ba nhóm đơn vị này làm việc chặt, hỗ trợ nhà nước sẽ rất tốt. Chưa kể các Bộ, ngành phải chịu trách nhiệm với các DN hoạt động trong lĩnh vực mà mình quản lý. Nhà nước cần tËp trung chØ ®¹o kiªn quyÕt h¬n trong viÖc thùc hiÖn s¾p xÕp, cæ phÇn ho¸ vµ ®æi míi DNNN ( kÓ c¶ s¾p xÕp l¹i c¸c n«ng l©m tr­êng) theo ®óng NghÞ quÕt cña §¶ng, ph¸p luËt cña nhµ n­íc, ch­¬ng tr×nh , kÕ ho¹ch ®ã ®­îc Thñ t­íng chÝnh phñ phª duyÖt. G¾n tr¸ch nhiÖm hµnh chÝnh cña l·nh ®¹o c¸c bé, ngµnh ®Þa ph­¬ng, l·nh ®¹o DN víi kÕt qu¶ s¾p xÕp cæ phÇn ho¸, ®æi míi DNNN. KiÖn toµn Ban chØ ®¹o ®æi míi vµ Ph¸t triÓn DN ®Ó thùc hiÖn ®ược nhiÖm vô míi, trùc tiÕp gióp thñ t­íng ChÝnh phñ chØ ®¹o thùc hiÖn CPH tæng c«ng ty nhµ n­íc vµ c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i nhµ n­íc; ®ång thêi gióp thñ t­íng ChÝnh phñ chØ ®¹o, ®«n ®èc vµ kiÓm tra c¸c bé, c¬ quan ngang bé, c¬ quan thuéc chÝnh phñ, UBND tØnh,thµnh phè trùc thuéc trung ­¬ng vµ c¸c tæng c«ng ty nhµ n­íc thùc hiÖn viÖc s¾p xÕp, CPH vµ ®æi míi DNNN. Ban chØ ®¹o §æi míi vµ Ph¸t triÓn DN ë c¸c bé, ngµnh, tØnh thµnh phè trùc thuéc trung ­¬ng ph¶i cã ®ñ n¨ng lùc, thÈm quyÒn, cã bé phËn chuyªn tr¸ch do mét ®ång chÝ l·nh ®¹o lµm Tr­ëng ban ®Ó thùc hiÖn tèt chøc n¨ng tham m­u, h­íng dÉn kiÓm tra, ®«n ®èc viÖc s¾p xÕp, CPH vµ ®æi míi DNNN 1.4. Hoµn thiÖn c¬ chÕ chÝnh s¸ch . Qu¸ tr×nh s¾p xÕp DNNN theo h­íng ®¬n gi¶n, gän nhÑ h¬n, gi¶m thñ tôc hµnh chÝnh , t¹o ®iÒu kiÖn ®Èy nhanh tiÕn tr×nh s¾p xÕp DNNN. §Æc biÖt lµ, quy tr×nh vÒ kiÓm kª tµi s¶n, x¸c nhËn nî, xö lý tµi chÝnh vµ ®Þnh gi¸ DN. Sö dông c¸c dÞch vô cña thÞ tr­êng tµi chÝnh vµ thÞ tr­êng bÊt ®éng s¶n ®Ó ®Þnh gi¸ doanh nghiÖp. Hoµn thiÖn c¸c quy ®Þnh liªn quan ®Õn b¸n ®Êu gi¸ cæ phÇn, ®a d¹ng ho¸ h×nh thøc ®Êu gi¸ ®Ó DN lùa chän phï hîp víi thùc tÕ cña DN khi ®¸u gi¸ cæ phÇn, thùc hiÖn c¸c biÖn ph¸p ng¨n chÆn t×nh tr¹ng th«ng thÇu trong qu¸ tr×nh ®Êu gi¸ cæ phÇn…C¸c c¬ chÕ chÝnh s¸ch söa ®æi cÇn n©ng cao tr¸ch nhiÖm cña c¸c c¬ quan liªn quan trong qu¸ tr×nh s¾p xÕp, cæ phÇn ho¸ DNNN, n©ng cao tÝnh c«ng khai minh b¹ch vµ thÞ tr­êng trong qu¸ tr×nh thùc hiÖn 2. Giải pháp vi mô. 2.1 Giải pháp cho việc huy động vốn của DNNN. 2.1.1. Tạo lập vốn chủ sở hữu. Nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn đặc biệt quan trọng. Muốn có được nguồn vốn này trước hết DN phải làm ăn có lãi. Nó được trích từ lợi nhuận sau khi nộp thuế cho Nhà nước (25%) và nguồn lợi nhuận không chia của DN. DN cũng cần phải có một nguồn lợi nhuận ổn định không chỉ tạo ra tiềm năng cho DN mà còn tạo điều kiện để thu hút các nguồn vốn đầu tư. Chẳng hạn như nếu DN muốn đi vay vốn các ngân hàng thương mại hoặc huy động vốn từ các nguồn khác thì bản thân các dự án muốn gọi vốn phải có từ 15% đến 30% vốn. Như vậy vấn đề đặt ra là DN cần phải đổi mới mình, nâng cao uy tín, và năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường để thu hút nguồn vốn đầu tư. Các DNNN nên tập trung vào những sản phẩm có thế mạnh của mình, nâng cao chất lượng sản phẩm, có tính cạnh tranh cao phù hợp với nhu cầu của thị trường không chỉ trong mà ngoài nước. Đổi mới công nghệ, tăng cường đào tạo, thu hút những công nhân có chuyên môn, trình độ tay nghề cao. Kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổng công ty nhà nước Thực hiện tài chính lành mạnh, để mở rộng sản xuất kinh doanh. Đầu tư có trọng tâm trọng điểm vào các dự án, thực hiện đúng tiến độ công trình. Đa dạng hóa các loại hình huy động vốn, nâng cao uy tín trên thương trường để tận dụng được mọi nguồn lực trong nước và nước ngoài. 2.1.2 Đa dạng hóa các hình thức huy động mới. 2.1.2.1. Huy động từ trái phiếu. Như ở phần thực trạng chúng ta có thể thấy việc vay vốn qua các kênh truyền thống của DNNN hiện nay đang dần hạn chế. Các DN đang tìm ra cho mình những hình thức huy động trong dân đó là thông qua việc phát hành trái phiếu. Đây có thể nói là hình thức huy động mang lại nguồn vốn lớn cho các DN. Hiện nay có hai loại hình trái phiếu đang được sử dụng nhiều trên thị trường tài chính thế giới đó là : trái phiếu phổ thông và trái phiếu chuyển đổi. Sự khác biệt của trái phiếu chuyển đổi so với trái phiếu thông thường đó là quyền chuyển đổi sang cổ phiếu theo một tỷ lệ cố định trong tương lai của trái chủ. Do đó, trái phiếu chuyển đổi có giá trị hơn trái phiếu thông thường. trái phiếu chuyển đổi được coi là một công cụ lưỡng tính do có tính chất của cả trái phiếu và cổ phiếu. Nếu như với trái phiếu thông thường DN khi đến thời gian đáo hạn thì DN phải trả cả vốn lẫn lãi, còn đối với trái phiếu chuyển đổi thì DN có thể lựa chọn không phải trả phần nợ gốc và lãi khi đáo hạn. Đồng thời DN vẫn giữ được phần vốn và có thể chuyển thành cổ phiếu. Như vậy ta có thể thấy hình thức huy động vốn qua trái phiếu chuyển đổi có rất nhiều ưu điểm và tạo ra nhiều thuận lợi cho các DN khi huy động vốn. Với hình thức huy động vốn trước kia thì khả năng huy động vốn của DN phụ thuộc rất nhiều vào việc đánh giá chủ quan của các tổ chức cho vay, và làm hạn chế nguồn vốn DN muốn huy động. Nhưng đối với hình thức phát hành trái phiếu này DN có thể huy động được một nguồn vốn lớn đặc biệt là đối với các DN có uy tín trên thị trường. Hình thức này giúp cho DN có thể chủ động hơn trong việc huy động vốn của mình. Chi phí của việc phát hành này cũng thấp hơn so với các nguồn huy động từ ngân hàng và cũng làm giảm rủi ro cho các DN. Hơn nữa DN cũng có thể nâng cao uy tín, quảng bá thương hiệu, nâng cao hình ảnh, vị thế của mình trong quần chúng. 2.1.2.2 Huy động thông qua phát hành cổ phiếu. Ngoài nguồn vốn huy động thông qua phát hành trái phiếu thì nguồn huy động vốn hiệu quả hiện nay đó là thông qua thị trường chứng khoán. Tại đây, DN có thể sẽ huy động cho mình một nguồn vốn lớn, dài hạn phục vục cho các kế hoạch đầu tư lâu dài. Để huy động vốn DN phát hành cổ phiếu trên thị trường cho các cổ đông tùy theo số tiền cần có. Nếu muốn phát hành ra công chúng trước thì phải làm thủ tục đăng ký với Sở giao dịch chứng khoán, được gọi là niêm yết chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Sau khi phát hành lần đầu ra công chúng nếu muốn tăng vốn DN có thể phát hành một đợt cổ phiếu mới (phân phối sơ cấp ) và do hội đồng quản trị quyết định Với nguồn vốn huy động qua cổ phiếu DN có thể linh hoạt hơn so với các nguồn huy động khác ( DN có thể huy động nguồn vốn lớn gấp 2,3 lần so với những nguồn khác). DN cũng không phải chịu sức ép trả tiền vốn, và không bị ảnh hưởng bởi hệ số tài chính cho lần vay nợ tiếp theo. Hơn nữa đây cũng là một cách thức huy động vốn thông qua cơ chế thị trường và tín hiệu của thị trường vì thế nó yêu cầu có tính minh bạch rất cao. Đây cũng chính là yếu tố thúc đẩy hiệu quả sử dụng vốn tốt hơn khuyến khích các DN hoạt động tốt hơn, góp phần quảng bá uy tín của mình. 2.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong DNNN. Cùng với việc sắp xếp, đổi mới nâng cao hiệu quả DNNN thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DNNN cũng là một trong những vấn đề quan trọng. Hiện nay vốn đầu tư cho các DNNN tại các ngân hàng thương mại đã chiếm một tỷ trọng lớn cho vay chiếm xấp xỉ trên dưới 50%. Trong quá trình cổ phần hóa DN hiện nay bên cạnh những DN được cổ phần hóa còn một số DN hoạt động yếu kém, không bảo toàn được nguồn vốn, còn phụ thuộc nhiều vào sự ưu đãi của nhà nước. Trong những năm vừa qua, phần lớn các DNNN sắp xếp lại theo hướng cổ phần hóa nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm đối với nền kinh tế, sản xuất kinh doanh đã có lãi, nhiều DN đã mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, khắc phục tình trạng lỗ lũy kế và có vốn tích lũy để tái sản xuất mở rộng. Về cơ cấu vốn trong doanh nghiệp bao gồm nhiều nguồn như nguồn vốn chủ sở hữu, vốn được bổ sung từ lợi nhuận hàng năm, các quỹ của xí nghiệp, vốn đi vay của các tổ chức tín dụng; vốn đi chiếm dụng của khách hàng. Mỗi loại vốn phản ánh tính chất và nguồn hình thành khác nhau. Thực tế hiện nay cần đi sâu xem xét công tác quản lý vốn của DN chủ yếu là các loại vốn trong thanh toán như công nợ phải thu; các khoản nợ phải trả trong đó có nợ vay ngân hàng. Bởi lẽ những khoản nợ này chiếm tỷ trọng lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu công tác quản lý tốt thì khả năng phát sinh những khoản nợ này chỉ tồn tại trong thời gian nhất định và ngược lại nếu công tác quản lý yếu kém (nợ từ các năm trước chuyển sang) thì công nợ sẽ tăng lên. Vấn đề đặt ra là không cho phép DN để khách hàng chiếm dụng vốn lâu ngày, chỉ được phép chiếm dụng trong thời hạn cho phép khoảng trong vòng 1 tháng (khoảng 30 ngày). Mô hình của các DN khi đã được sắp xếp lại và tiến hành cổ phần hóa được cấp có thẩm quyền phê duyệt là hai hướng đi lâu dài trong tương lai của mỗi DN. Để triển khai mô hình này đạt hiệu quả kinh tế cao đòi hỏi phải có nhiều yếu tố, chính sách tác động, trong đó đổi mới phương thức quản lý và điều hành của Giám đốc DN giữ vai trò quyết định. Vốn là một trong những yếu tố không thể thiếu được trong giai đoạn ban đầu khi tiến hành cổ phần hóa, xác định giá trị DN. Như vậy cái gốc của vấn đề vẫn là bắt nguồn từ sản xuất kinh doanh. Nếu sản xuất kinh doanh khá, sản phẩm cạnh tranh được với thị trường thì không những có lợi nhuận mà vốn cũng được quay vòng nhanh, ngược lại nếu sản xuất kinh doanh kém hiệu quả thì vốn sẽ bị ứ đọng. Để từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN cần tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DN. Thứ nhất nhà nước cần xóa bỏ các chính sách bảo hộ bất hợp lý như khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ cấp vốn tín dụng ưu đãi một cách tràn lan đối với hoạt động của các DNNN. Thực hiện đầu tư vốn thông qua các công ty đầu tư tài chính của Nhà nước. Bởi trong thực tế hiện nay vẫn còn nhiều vướng mắc về cơ chế chính sách trong quá trình thực hiện chưa được tháo gỡ khiến cho nhiều DNNN hoạt động kém hiệu quả, sử dụng vốn lãng phí…. Thứ hai là trong điều kiện nguồn vốn của ngân sách của Nhà nước còn nhiều khó khăn tốn chi phí trong nhu cầu chi tiêu cho quốc phòng an ninh, các nhu cầu phát triển kinh tế văn hóa xã hội khác, vì thế nguồn vốn dành cho DNNN cũng hạn chế. Việc vay vốn của DNNN đối với các ngân hàng thương mại cũng cần phải được xem xét lại. Bản thân các ngân hàng thương mại cũng là một doanh nghiệp nên nguồn vốn cho vay cũng là nguồn vốn huy động. Việc các DN vay mà không có khả năng trả nợ thì cũng tạo ra những khó khăn của ngân hàng. Vì vậy DNNN cần tự mình chủ động trong mọi hoạt động, nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, tận dụng mọi nguồn thu và nguồn huy động vốn từ nhiều nguồn . Thứ ba là đối với các DNNN đã, đang và sẽ sắp xếp cổ phần hóa, các ngân hàng thương mại chủ động tham gia xây dựng và phương án sắp xếp các DNNN với vai trò là chủ nợ, phù hợp với chính sách và giải pháp tiếp tục đổi mới với các DNNN. Đồng thời các ngân hàng thương mại cũng nên mở rộng đầu tư tín dụng để giúp các DN trong việc đổi mới công nghệ, mua sắm trang thiết bị….. để DN có sức cạnh tranh cao, phát triển nhanh phù hợp với tiến trình hội nhập với thế giới. Thứ tư là đối với vốn tín dụng ngân hàng nên tập trung vào các DN kinh doanh hiệu quả, có dự án khả thi và có khả năng trả nợ. Thứ năm là tăng cường thu hồi vốn nhanh, tăng cường đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Trên cơ sở đó tạo ra lợi nhuận cho các DN và nâng cao đời sống của người lao động. Thứ sáu là phát triển mạnh các DN vừa và nhỏ, khuyến khích đầu tư cho DN tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, cần phát triển mạnh mẽ với các mô hình DN tư nhân, mô hình này rất thích hợp với nền kinh tế thị trường của nước ta. (Nguồn : www.neu.edu.vn- thông tin kinh tế xã hội) Bên cạnh đó các DNNN phải đẩy mạnh cải cách phương thức quản trị, giám sát và sàng lọc các dự án một cách triệt  để, tiết giảm chi phí, cải tiến lề lối làm việc, tăng hiệu suất đầu tư... Vai trò người lãnh đạo DN cũng phải được đề cao, sử dụng chất xám một cách có hiệu quả thông qua việc trả thù lao xứng đáng đi đôi với trách nhiệm ràng buộc rõ ràng. Ðối với nguồn vốn tín dụng ngân hàng, tập trung các dự án thuộc diện ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô theo chỉ đạo của Chính phủ, tập trung có trọng tâm, trọng điểm, tránh đầu tư dàn trải, phối hợp chặt chẽ với ngân hàng trong việc xây dựng và thẩm định dự án, đón đầu các nguồn vốn ưu tiên cho các dự án có tính khả thi cao, tạo nền tảng phát triển bền vững các hoạt động của DN. KẾT LUẬN Qua phân tích ở trên chúng ta đã thấy được phần nào những mặt hạn chế của DNNN. Tình trạng hoạt động kém hiệu quả của DNNN đã kéo dài nhiều năm nhưng đến thời điểm hiện nay mới thực sự nhức nhối. Đó là khi nước ta ra nhập WTO, nền kinh tế mới bộc lộ rõ và hết những yếu kém của nó. Khi chúng ta rà soát lại những nguyên nhân làm kìm hãm nền kinh tế thì một trong những nguyên nhân quan trọng đó là tình trạng sử dụng vốn kém hiệu quả, dẫn tới kinh doanh không hiệu quả của DNNN. Gia nhập WTO, bước vào sân chơi toàn cầu, không chỉ khu vực DNNN nói riêng mà toàn DN nói chung đứng trước những thời cơ mới rất quan trọng. Đó là thị trường được mở rộng với 150 thành viên WTO chiếm 85% thương mại hàng hóa và 90% thương mại dịch vụ toàn cầu. DN có thêm nhiều cơ hội tiếp cận một cách bình đẳng công nghệ, vốn tín dụng và nhân lực từ bên ngoài. Điều đó rất có ý nghĩa đối với DN trong việc nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên nhiều ưu đãi hiện hành trái với các cam kết trong WTO để bảo hộ DNNN bị bãi bỏ, DNNN nước ta đang theo thói quen là được nhà nước bảo hộ và ưu đãi nhiều thứ, mặt khác DNNN vẫn còn nhiều yếu kém nên sẽ rất khó khăn cho DN. Gia nhập WTO hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới để cùng hợp tác và cạnh tranh bình đẳng trên một thị trường lớn toàn cầu….. DNNN phải tự mình phát huy nội lực, chủ động trong mọi hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Qua thực tế năm 2008 vừa qua, với sự khủng hoảng của nền kinh tế Mỹ, và khủng hoảng nói chung của kinh tế thế giới, nước ta cũng bị ảnh hưởng rất nhiều. Năm 2008 và các năm tiếp theo, khi nền kinh tế đang còn gặp khó khăn, DN sẽ rất khó trong việc huy động vốn bởi vì năm 2008 để kiềm chế lạm phát Nhà nước đã áp dụng quyết liệt chính sách tiền tệ thắt chặt, còn năm 2009 là điểm rơi của cả quá trình lạm phát vì những chính sách tiền tệ thắt chặt và tài khóa có độ trễ. Trong bối cảnh  khó khăn của thị trường tài chính tiền tệ trong nước và quốc tế, các doanh nghiệp nhà nước đang đứng trước muôn vàn khó khăn, thách thức, đòi hỏi phải năng động và đổi mới mạnh mẽ hình thức sở hữu, cách thức quản trị cũng như sử dụng hiệu quả đồng vốn nếu không sẽ bị đánh bật trong sân chơi này. Vì thời gian và năng lực hạn chế, việc nghiên cứu của nhóm chúng em mới chỉ dừng lại ở những nội dung, khía cạnh nêu trên. Rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để đề tài của chúng em hoàn chỉnh hơn. Tài liệu tham khảo: Giáo trình kinh tế đầu tư. PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương. Nhà xuất bản đại học Kinh tế quốc dân. Lý thuyết tài chính tiền tệ. TS. Nguyễn Hữu Tài. NXB đại học Kinh tế quốc dân. Huy động và sử dụng các nguồn vốn trong nước. Nguyễn Công Nghiệp. Cần làm gì để cải thiện các nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế. Viện nghiên cứu kinh tế, bộ tài chính. Những giải pháp huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn. Chính sách và biện pháp huy động các nguồn vốn. Bộ kế hoạch đầu tư. Sử dụng công cụ tài chính tiền tệ để huy động vốn cho đầu tư phát triển. Nguyễn Đình Tài. Chiến lược huy động vốn và các nguồn lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cổ phần hóa các DNNN ở Việt Nam. Cải cách DNNN. Viện quản lý kinh tế trung ương, cơ quan phát triển quốc tế Thụy Điển. Thực trạng DN Việt Nam qua các cuộc điều tra năm 2001-> 2007. Tổng cục thống kê. Tạp chí kinh tế phát triển. NXB đại học Kinh tế quốc dân. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế. Báo đầu tư. Bộ kế hoạch đầu tư. Luật doanh nghiệp và luật đầu tư. Và rất nhiều website khác: www.vneconomy.com.vn. www.vnexpress.net www.dantri.com.vn www.vietnamnet.vn www.toquoc.gov.vn www.neu.edu.vn www,vnep.org.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNguồn vốn của doanh nghiệp Phân tích thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.doc
Luận văn liên quan