Những yếu tố tác động đến việc kết hôn với người nước ngoài của phụ nữ nông thôn (Nghiên cứu những trường hợp lấy chồng là người Hàn Quốc và Đài Loan)

1. Lý do chọn đề tài Trong những năm gần đây, việc kết hôn với người nước ngoài nói chung và với người Đài Loan và Hàn quốc nói riêng đã trở thành hiện tượng không còn là mới mẻ ở nước ta đặc biệt là tại một số khu vực như: Hải Phòng, An Giang, Cần Thơ, Hiện tượng này đã trở thành một đề tài nóng bỏng trên các phương tiện truyền thông đại chúng, báo chí, các diễn đàn bởi những vấn đề ẩn chứa trong nó. Thời gian gần đây, báo chí trong và ngoài nước đã phanh phui rất nhiều vụ xâm hại nghiêm trọng đến thân thể của các cô dâu Việt lấy chồng ngoại quốc. Từ những cô dâu Việt trên đất nước Đài Loan bị sát hại như cô dâu Trần Thị Hồng Thắm hay trở về Việt Nam trong tình trạng người không ra người như Trần Thị Bích My, Cao Thị Hồng Nương đến những cái chết thương tâm của những cô dâu Việt trên đất Hàn như Huỳnh Mai, Kim Đồng chính là những hình ảnh bề nổi của phận Việt làm dâu nơi đất khách. Họ không thể và không có khả năng để chạy trốn khỏi những nguy cơ có thể tổn hại đến sức khỏe, thậm chí là chính mạng sống của mình. Tất cả những vấn đề hậu hôn nhân với người nước ngoài đều do các cô dâu tự chịu trách nhiệm. Nhiều cuộc hôn nhân không những không hạnh phúc mà những người phụ nữ phải đối mặt với nguy cơ trở thành nô lệ tình dục, bị đe dọa về nhân phẩm và cả tính mạng. Với nhiều vấn đề như vậy nhưng tại sao tình trạng những phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài chẳng những phổ biến trong thời điểm hiện tại mà còn có xu hướng gia tăng, chưa thể dừng lại? Từ năm 2006 đến nay khu vực Tây Nam Bộ có 70.000 phụ nữ lấy chồng nước ngoài, nhưng chỉ có gần 16.500 lao động nữ xuất khẩu. Con số này được Bộ LĐ-TB&XH đưa ra tại hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm 2009 của Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ về tình hình uất khẩu lao động và phụ nữ lấy chồng nước ngoài. Theo đó, con số xuất khẩu lao động của cả vùng ĐBSCL ít hơn số lao động xuất khẩu của một tỉnh miền Trung như Thanh Hóa hoặc Hà Tĩnh . nhưng số phụ nữ xuất ngoại lấy chồng ở ĐBSCL nhiều gấp 4 lần số phụ nữ đi xuất khẩu lao động (chủ yếu là ở Hàn Quốc và Đài Loan). Theo số liệu khảo sát của Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ, hiện đã có khoảng 90 ngàn cô dâu Việt tại Đài Loan - chiếm 70% cô dâu nước ngoài tại đây. Trung bình cứ 80 gia đình Đài Loan thì có 1 cô dâu Việt. Vậy điều gì đã dẫn tới hiện tượng được xem là “nóng bỏng” này hiện nay? Và để đánh giá một cách tổng quát về vấn đề này, đề tài “Những yếu tố tác động đến việc kết hôn với người nước ngoài của phụ nữ nông thôn” (Nghiên cứu những trường hợp lấy chồng là người Hàn Quốc và Đài Loan) nhằm đi sâu phân tích những tác động , những nguyên nhân chủ quan và khách quan tác động đến quá trình kết hôn với người nước ngoài của phụ nữ nông thôn Việt Nam để thấy được thực trạng tại sao nhiều người phụ nữ nông thôn lấy chồng nước ngoài như vậy. Việc đưa ra bức tranh tổng thể về các nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là một việc hết sức cần thiết để từ đó có những nhận định cụ thể và đúng đắn đối Hiện tượng kết hôn với người nước ngoài của những phụ nữ nông thôn

pdf28 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7108 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những yếu tố tác động đến việc kết hôn với người nước ngoài của phụ nữ nông thôn (Nghiên cứu những trường hợp lấy chồng là người Hàn Quốc và Đài Loan), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm gần đây, việc kết hôn với người nước ngoài nói chung và với người Đài Loan và Hàn quốc nói riêng đã trở thành hiện tượng không còn là mới mẻ ở nước ta đặc biệt là tại một số khu vực như: Hải Phòng, An Giang, Cần Thơ,… Hiện tượng này đã trở thành một đề tài nóng bỏng trên các phương tiện truyền thông đại chúng, báo chí, các diễn đàn… bởi những vấn đề ẩn chứa trong nó. Thời gian gần đây, báo chí trong và ngoài nước đã phanh phui rất nhiều vụ xâm hại nghiêm trọng đến thân thể của các cô dâu Việt lấy chồng ngoại quốc. Từ những cô dâu Việt trên đất nước Đài Loan bị sát hại như cô dâu Trần Thị Hồng Thắm hay trở về Việt Nam trong tình trạng người không ra người như Trần Thị Bích My, Cao Thị Hồng Nương… đến những cái chết thương tâm của những cô dâu Việt trên đất Hàn như Huỳnh Mai, Kim Đồng chính là những hình ảnh bề nổi của phận Việt làm dâu nơi đất khách. Họ không thể và không có khả năng để chạy trốn khỏi những nguy cơ có thể tổn hại đến sức khỏe, thậm chí là chính mạng sống của mình. Tất cả những vấn đề hậu hôn nhân với người nước ngoài đều do các cô dâu tự chịu trách nhiệm. Nhiều cuộc hôn nhân không những không hạnh phúc mà những người phụ nữ phải đối mặt với nguy cơ trở thành nô lệ tình dục, bị đe dọa về nhân phẩm và cả tính mạng. Với nhiều vấn đề như vậy nhưng tại sao tình trạng những phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài chẳng những phổ biến trong thời điểm hiện tại mà còn có xu hướng gia tăng, chưa thể dừng lại? Từ năm 2006 đến nay khu vực Tây Nam Bộ có 70.000 phụ nữ lấy chồng nước ngoài, nhưng chỉ có gần 16.500 lao động nữ xuất khẩu. Con số này được Bộ LĐ-TB&XH đưa ra tại hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm 2009 của Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ về tình hình uất khẩu lao động và phụ nữ lấy chồng nước ngoài. Theo đó, 1con số xuất khẩu lao động của cả vùng ĐBSCL ít hơn số lao động xuất khẩu của một tỉnh miền Trung như Thanh Hóa hoặc Hà Tĩnh... nhưng số phụ nữ xuất ngoại lấy chồng ở ĐBSCL nhiều gấp 4 lần số phụ nữ đi xuất khẩu lao động (chủ yếu là ở Hàn Quốc và Đài Loan). Theo số liệu khảo sát của Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ, hiện đã có khoảng 90 ngàn cô dâu Việt tại Đài Loan - chiếm 70% cô dâu nước ngoài tại đây. Trung bình cứ 80 gia đình Đài Loan thì có 1 cô dâu Việt. Vậy điều gì đã dẫn tới hiện tượng được xem là “nóng bỏng” này hiện nay? Và để đánh giá một cách tổng quát về vấn đề này, đề tài “Những yếu tố tác động đến việc kết hôn với người nước ngoài của phụ nữ nông thôn” (Nghiên cứu những trường hợp lấy chồng là người Hàn Quốc và Đài Loan) nhằm đi sâu phân tích những tác động , những nguyên nhân chủ quan và khách quan tác động đến quá trình kết hôn với người nước ngoài của phụ nữ nông thôn Việt Nam để thấy được thực trạng tại sao nhiều người phụ nữ nông thôn lấy chồng nước ngoài như vậy. Việc đưa ra bức tranh tổng thể về các nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là một việc hết sức cần thiết để từ đó có những nhận định cụ thể và đúng đắn đối Hiện tượng kết hôn với người nước ngoài của những phụ nữ nông thôn 2. Một số khái niệm được sử dụng 2.1 Kết hôn Theo điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. 2.2 Hôn nhân - Điều 8, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 định nghĩa: Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn - Theo Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia): 2Hôn nhân một cách chung nhất có thể được xác định như một sự xếp đặt của mỗi một xã hội để điều chỉnh mối quan hệ sinh lý giữa đàn ông và đàn bà. Nó là một hình thức xã hội luôn luôn thay đổi trong suốt quá trình phát triển của mối quan hệ giữa họ, nhờ đó xã hội xếp đặt và cho phép họ sống chung với nhau, quy định quyền lợi và nghĩa vụ của họ. Hôn nhân là sự kết hợp của các cá nhân về mặt tình cảm, xã hội, và hoặc tôn giáo một cách hợp pháp. Hôn nhân có thể là kết quả của tình yêu. Hôn nhân là một mối quan hệ cơ bản trong gia đình ở hầu hết xã hội. Về mặt xã hội, lễ cưới thường là sự kiện đánh dấu sự chính thức của hôn nhân. Về mặt luật pháp, đó là việc đăng ký kết hôn. 2.3 Nông thôn - Theo Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia): Nông thôn là danh từ để chỉ những vùng đất trên lãnh thổ, ở đó, người dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp. - Một định nghĩa khác cũng cho rằng: Nông thôn là những vùng dân cư chủ yếu sinh sống bằng nông nghiệp và những nghề khác có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới sản xuất nông nghiệp. 3. Các lý thuyết Xã hội học 3.1 Lý thuyết hành vi Cơ sở của lý thuyết này dựa trên lý luận về quá trình hình thành phản xạ có điều kiện. Trong đó, hành vi con người được hiểu là tập hợp của nhiều hành động, việc làm cụ thể, liên kết với nhau một cách hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng bởi 2 nhóm yếu tố: • Các yếu tố bên trong: Tích cách, di truyền,... • Các yếu tố bên ngoài: Văn hóa, xã hội, kinh tế,... Chính vì thế, để lý giải những nguyên nhân dẫn tới một hành vi cụ thể, ta cần tìm hiểu xem cá nhân đó đã chịu tác động từ các yếu tố nào. Cụ thể trong đề tài 3này, chúng ta sẽ đi tìm hiểu một số nguyên nhân xuất phát từ kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng tới quyết định tiến đến hôn nhân với người nước ngoài (cụ thể là người Đài Loan và Hàn Quốc) của phụ nữ nông thôn hiện nay, tìm hiểu để đi tới làm rõ tại sao trong khoảng thời gian gần đây, tỷ lệ phụ nữ nông thôn kết hôn với người nước ngoài lại gia tăng một cách đáng kể. 3.2 Lý thuyết chức năng Các tác giả của thuyết này nhấn mạnh tính liên kết chặt chẽ của các bộ phận cấu thành nên một chỉnh thể mà mỗi bộ phận đều có chức năng nhất định góp phần bảo đảm sự tồn tại của chỉnh thể đó với tư cách là một cấu trúc tương đối ổn định , bền vững. Nói cách khác, theo quan điểm của thuyết chức năng, xã hội là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tạo thành có mối liên hệ với nhau và mỗi bộ phận thực hiện một hay một số chức năng nhất định để đảm bảo hệ thống xã hội tồn tại phát triển ổn định. Theo đó, mỗi thành viên trong gia đình, xã hội,… phải làm đúng vị trí, vai trò của mình. Người phụ nữ thường được gán cho những trách nhiệm, bổn phận đối với việc chăm sóc cho gia đình còn người đàn ông tham gia vào guồng máy sản xuất, tạo kinh tế. Văn hóa truyền thống Việt Nam cho rằng phụ nữ nên lấy chồng và lo lắng việc nhà, chuyện vươn lên trên xã hội nên để người đàn ông thực hiện, tư tưởng này vẫn còn ngự trị trong xã hội ngày nay, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Do đó, như một số ý kiến cũng đã nhận định rằng ở nông thôn, cha mẹ luôn muốn gả con gái mình vào một gia đình khá giả, thay vì tìm cách xây dựng cho con gái một thực lực vững chắc để con có thể chọn chồng theo ý muốn. Từ đó, đề tài này đi sâu tìm hiểu xem liệu đây có phải là một trong số các yếu tố tác động đến quyết định kết hôn với người nước ngoài của phụ nữ nông thôn hay không. 43.2 Xã hội hóa Quá trình xã hội hóa được hiểu là quá trình các cá nhân tiếp thu, học hỏi nền văn hóa xã hội mà cá nhân đó sinh ra và lớn lên, tức là lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội, học những gì phải làm, những gì không được làm, học các chuẩn mực giá trị để thích ứng được với xã hội. Quá trình này có vai trò rất quan trọng trong việc biến một cá nhân từ một thực thể tự nhiên thành con người xã hội, góp phần quan trọng trong việc hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách con người. Qúa trình xã hội hóa cá nhân bao gồm những nội dung như sau: - Giúp cá nhân tiếp thu kinh nghiệm xã hội - Giúp cá nhân nắm vững các chuẩn mực, giá trị xã hội - Giúp cho cá nhân tiếp thu những chuẩn mực - Giúp các cá nhân chuẩn bị đảm nhiệm các vai trò xã hội Khi nghiên cứu về vấn đề phụ nữ nông thôn kết hôn với người nước ngoài, cách tiếp cận xã hội học về xã hội hóa cho phép chúng ta tìm hiểu những nội dung về định kiến giới, những chuẩn mực được xã hội quy định cho nữ giới trong gia đình (ví dụ như: phải có hiếu với cha mẹ, chịu khó, chịu khổ, lo cho các em,...) từ đó xét xem quyết định này của họ có chịu ảnh hưởng của những chuẩn mực, giá trị ấy không và nếu có thì đi phân tích xem hệ giá trị xã hội đã tác động như thế nào đến hành vi ấy. 3.3 Lý thuyết sự lựa chọn hợp lý Tiền đề của lý thuyết này là: con người luôn hành động có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn lực một cách duy lý nhằm đạt được kết quả tối đa. Con người là chủ thể ra quyết định một cách hợp lý trong điều kiện khan hiếm nguồn lực trên cơ sở xem xét, đánh giá lợi ích kinh tế của từng cách lựa chọn. Theo đó, cá nhân đứng trước mỗi sự lựa chọn luôn có sự cân nhắc giữa được và mất. Cụ thể trong nghiên cứu này, việc áp dụng lý thuyết sự lựa chọn hợp lý cho phép tìm hiểu những cái mà phụ nữ nông thôn cho là cái ”được”, họ nghĩ họ sẽ có 5những gì khi quyết định kết hôn với người Đài Loan hay Hàn Quốc, họ lựa chọn việc kết hôn này dựa trên cơ sở gì (tình cảm hay cái gì khác?). 4. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, tiến hành phân tích những tài liệu liên quan đến vấn đề này đồng thời tiến hành những phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm. B. PHẦN NỘI DUNG Khi xem xét các yếu tố liên quan đến một vấn đề nào đó thì bao giờ người nghiên cứu cũng cần phải đặt cái nhìn bao quát về nhiều phía, trên nhiều khía cạnh để có thể rút ra được những kết luận đầy đủ nhất. Khi đứng trước một sự việc, hiện tượng nào đó, mỗi người lại có những cách giải thích, lý giải cho riêng mình. Đối với việc phụ nữ nông thôn kết hôn với người nước ngoài mà cụ thể là với người Đài Loan/Hàn Quốc cũng vậy, đã có rất nhiều nguyên nhân được đưa ra, mỗi nguyên nhân ấy đều có những ý nghĩa nhất định nhưng tổng kết lại, một số yếu tố được nhắc đi nhắc lại trong rất nhiều tài liệu liên quan bao gồm: I. Các yếu tố khách quan 1. Các yếu tố kinh tế, nghèo đói Các yếu tố kinh tế có xu hướng liên quan đến tất cả các khía cạnh của đời sống con người. Xã hội ngày càng phát triển, điều kiện sống của con người ngày càng được cải thiện và nâng cao. Tuy nhiên, để hưởng thụ những điều ấy thì không phải ai cũng có thể, nhất là ở trong xã hội mà kinh tế chi phối rất nhiều thứ như xã hội hiện nay. Rất nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra được những mặt trái của nền kinh tế thị trường, trong đó có vấn đề về khoảng cách giàu nghèo: những người giàu thì càng giàu lên mà những người nghào thì càng khó có cơ hội vươn lên thoát nghèo. Cho nên ở đây, việc lấy chồng nước ngoài được xem như một biện pháp cải thiện kinh tế gia đình. Đây là một yếu tố rất quan trọng dẫn tới quyết định kết hôn của phụ nữ nông thôn. 6Nhiều công trình nghiên cứu việc lấy chồng nước ngoài ở Việt Nam đã cho thấy: kinh tế gia đình khó khăn là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến điều này. Theo khảo sát mới đây của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hậu Giang tại 6 xã thuộc huyện Phụng Hiệp, nơi có đông chị em kết hôn với người nước ngoài cho thấy: nhiều chị em kết hôn không xuất phát từ tình yêu mà vì mục đích kinh tế. Cũng tại một huyện khác của tỉnh Hậu Giang, huyện Vị Thủy, UBND xã Vĩnh Trung cho biết: hiện toàn xã có 202 phụ nữ lấy chồng Đài Loan, 2 phụ nữ lấy chồng Hàn Quốc. Các cô gái lấy chồng nước ngoài do hoàn cảnh khó khăn, thất nghiệp, do ca mẹ ép buộc chiếm tới gần 80%, số còn lại tự lựa chọn kết hôn với người nước ngoài nhưng cũng đều xuất phát từ ý muốn đổi đời, muốn có tiền nhiều để được hưởng cuộc sống giàu sang, sung sướng. Đề tài ”Nguyên nhân của phụ nữ đồng bằng sông Cửu Long kết hôn với người Đài Loan” của tác giả Trần Thị Kim Xuyến (Khoa Xã hội học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM, 2005) khi nghiên cứu các tỉnh được coi là ”điểm nóng” của hiện tượng kết hôn với người Đài Loan ở Đồng bằng sông Cửu Long (đó là Cần Thơ, An Giang, Tiền Giang, Hậu Giang và Vĩnh Long) đã chỉ ra: theo sự đánh giá của cha mẹ cô gái kết hôn với người Đài Loan về tình hình mức sống hộ gia đình của mình so với những người xung quanh, phần lớn gia đình họ thuộc loại nghèo (41,1%) hoặc rất nghèo (19,8%) (Bảng 1). Bảng 1. Mức sống các hộ - gia đình có con gái lấy chồng Đài Loan ở thời điểm trước khi con gái lấy chồng (tính theo địa bàn khảo sát) Rất nghèo Nghèo Trung bình Tương đối Khá giả Khó trả lời Tổng 9 29 38 9 4 89Vĩnh Long 10,1% 32,6% 42,7% 10,1% 4,5% 100% An 29 49 27 2 2 109 7Giang 26,6% 45% 24,8% 1,8% 1,8% 100% 33 89 35 9 1 167Cần Thơ 19,8% 53,3% 21,0% 5,4% 0,6% 100% 39 52 51 6 1 1 150Đồng Tháp 26,0% 34,7% 34,0% 4,0% 0,7% 0,7% 100% 7 16 19 12 2 56Tiền Giang 12,5% 28,6% 33,9% 21,4% 3,6% 100% 9 26 21 5 1 2 64Hậu Giang 14,1% 40,6% 32,8% 7,8% 1,6% 3,1% 100% 126 216 191 43 10 4 635Tổng 19,8% 41,1% 30,1% 6,8% 1,6% 0,6% 100% Có rất nhiều nguyên nhân để lý giải cho hiện tượng kết hôn với người nước ngoài của phụ nữ nông thôn, nhưng chung quy lại, vì kinh tế khó khăn, vì muốn có tiền được xem là nguyên nhân phổ biến nhất. Để có tiền, mặc dù ý thức được rằng đây là một cách mạo hiểm, không có gì là chắc chắn nhưng họ vẫn chấp nhận. ”Hồi đó, mọi người nói lấy chồng Đài Loan ở xa bị bán, không biết đường về.. lúc đó chưa đi làm sao biết... Với lại lúc đó hơi nghèo, mình lấy chồng ở đây không giúp cha mẹ được... ừ thì nói thật ra là vì tiền, không phải một mình em mà ai cũng vậy. Mục đích đi qua Đài Loan là vì muốn có tiền... vì trước ba em đi cây, làm chủ gỗ, chở mối lúa gạo, đường mía rồi đổ nợ, làm ăn thua lỗ, nợ quá nhiều... Mẹ làm ruộng thôi, lúc trước làm năm công, thiếu nợ nên bán hết...Ngày nào cũng bị đòi nợ nên quyết định đi. Chết ở đâu cũng chết nên không thấy sợ nữa, hơi liều mạng. Số mình chết ở đâu cũng vậy, thôi kệ, thí đại, thử thời, phải thì làm giàu không phải thì chết chứ có gì đâu nên di thôi. Mình lấy chồng là vì để có được tiền, vậy 8đó, khổ quá mà”. (PVS, nữ, 22 tuổi, xã Tân Lộc – huyện Thốt Nốt, Thành phố Cần Thơ). ”Nói chung thì chồng tôi nó không già hơn tui lắm, lớn hơn chừng 6 – 7 tuổi thôi à, nói chung là nó cũng không có xấu gì hết trơn, thấy cũng hợp, như hồi nảy tui nói với chị vậy đó, thằng nào cũng như thằng nấy à, kệ nó, chỉ tổ có tiền thôi à, vì mình lấy chồng Đài Loan là mình cần tiền mà” (PVS, nữ, thị xã Gò Công – tỉnh Tiền Giang). Các cuộc thảo luận nhóm đã tranh luận rất sôi nổi và đưa ra nhiều nguyên nhân của việc lấy chồng Đài Loan, nhưng nổi bật hơn cả vẫn là lý do kinh tế gia đình. Họ cho rằng, nhiều gia đình ở địa phương nghèo từ đời này sang đời khác, nhưng cũng có nhiều người gặp rủi ro nên trở nên nghèo. Cái nghèo được thể hiện như: không có ruộng, học vấn thấp, không có việc làm, nợ nần chồng chất... Đồng thời, họ cho rằng, lấy chồng Đài Loan có một khoản tiền kha khá sẽ giúp giải quyết nhiều việc khó khăn trước mắt. Nhìn chung, hầu hết các nhóm đều khẳng định rằng kinh tế là nguyên nhân chính yếu nhất trực tiếp dẫn đến hiện trạng lấy chồng Đài Loan (Trần Thị Kim Xuyến, Nguyên nhân của phụ nữ đồng bằng sông Cửu Long kết hôn với người Đài Loan, Tạp chí Xã hội học số 1 (89) 2005). ”Theo tôi thì tình hình lấy chồng Đài Loan có thể nói là không giảm vì sự phát triển kinh tế - xã hội ở ấp này hổng khéo là tụt hậu. Kinh tế chung không ổn thì kéo theo gia đình cũng vậy đó. Có lẽ cơ hội thoát nghèo qua con đường gả Đài Loan thì cũng còn rất lớn, không phải là nhỏ. Thí dụ, gia đình người ta ngồi tính từ đây đến vài ba năm nữa muốn cất một cái nhà thì cũng không thể cất được, bốn năm chục triệu thì bây giờ hy sinh một đứa để cất cái nhà chứ còn hoàn toàn rất khó... Nó do kinh tế - xã hội” (TLN trung niên, xã Vị Trung, huyện Vị thủy, tỉnh Hậu Giang). Thông thường, việc kết hôn là một việc hết sức lớn lao trong cuộc đời mỗi con người. Vì vậy, khi đứng trước ngưỡng cửa của hôn nhân, mỗi người đều có 9những suy nghĩ thật sự nghiêm túc, xem xét mọi vấn đề vì nó liên quan đến hạnh phúc của cả đời mình. Tuy nhiên, khi một cô gái kết hôn với một người nước ngoài thì với nhiều người, họ chỉ coi việc này chẳng khác gì so với việc đi xuất khẩu lao động. Có lẽ vì cả hai việc này đều giống nhau ở mục đích, cùng là đi ”làm kinh tế”. Cho nên, hình thức nào có lợi hơn thì sẽ được mọi người chấp nhận. ”Để tôi nói cho nghe nè, nghề thì không có ha, phải làm nông mà ruộng thì không có, làm mướn thì bữa có bữa không. Có lấy chồng thì chồng cũng nghèo, không nuôi nổi con mình, lấy đâu mà lo cho cha mẹ. Mấy đứa có ba cái chữ được một chút muốn đi xuất khẩu lao động gì đó thì phải đóng tiền thế chân đến ba, bốn chục triệu lận, làm sao có mà đóng? Lấy chồng Đài Loan không mất tiền mà còn được tiên nữa, tiền sau đám cưới trước kia nhiều hơn, giờ còn không bao nhiêu nhưng sau này nó gửi hoặc nó mang về” (TLN trung niên, xã Tân Lộc, huyện Thốt Nốt, Thành phố Cần Thơ). Nhiều gia đình, nhiều chị em không cần tìm hiểu hoặc không có điều kiện tìm hiểu vị "hôn thê" của mình là người như thế nào, bao nhiêu tuổi, làm nghề gì... sẵn sàng kết hôn với những người bị tật nguyền, những người lớn tuổi hơn cả cha mình, chỉ cần có tiền gửi về cho gia đình là được. (Ngọc Thiện, 2005, Lấy chồng nước ngoài - Bi kịch ở “thiên đường”, Tiền Phong). Trên thực tế, có không hề ít các gia đình có con gái lấy chồng nước ngoài đều khá giả lên, rất nhiều người đều khẳng định rằng những thay đổi tích cực về cuộc sống của gia đình những người có con gái kết hôn kiểu này là một điều không thể phủ nhận được. Điều này phù hợp với những quan sát của tác giả Nguyên Huân (Báo Nông nghiệp Việt Nam) trong bài viết ”Về nơi nghìn người lấy chồng ngoại” (2010) khi nói về xã Tú Sơn, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng – nơi đã chứng kiến rất nhiều cuộc hôn nhân giữa những cô gái ở đây với những chú rể Hàn Quốc hay Đài Loan. 10 ”... màu đỏ rực của hoa phượng đã được thay thế bằng màu đỏ tươi của những viên gạch tuy-len ốp tường hiển hiện ở hầu hết các căn nhà, con đường, ngõ ngách của huyện miền biển này. Trong lòng chúng tôi mừng thầm vì đinh ninh bà con ngư dân nơi đây ăn nên làm ra lắm nên nhà cửa mới lộng lẫy khang trang như vậy. Song, khi hỏi người dân vùng biển này về cái sự giàu có ấy họ chỉ gượng ghịu cười trả lời qua loa rằng "nhà Uôn, nhà Đài đó". Thấy mặt chúng tôi ngơ ngác, bà bán quán cóc đầu làng không ngần ngại xổ toẹt: “Thì những cái nhà lộng lẫy đó là do có con gái đi lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan gửi tiền về xây chứ có gì đâu mà phải giấu mới giếm. Uôn ở đây là tiền Hàn Quốc còn Đài nghĩa là Đài tệ (tiền của Đài Loan), đơn giản vậy thôi”. Chúng tôi vào thăm nhà anh Hùng khi anh đang hoàn thiện nốt ngôi nhà to nhất nhì thôn 3, xã Tú Sơn. Anh Hùng có hai cô con gái sinh đôi thi trượt đại học năm ngoái đều đã lấy chồng ngoại cách đây không lâu. Tỉ tê hỏi chuyện tôi được anh cho biết, tiền xây nhà hết hơn 500 triệu đồng do hai cô con gái, một lấy chồng Hàn Quốc một lấy chồng Đài Loan gửi về... ... có cả trăm ngàn lý do để những cô gái kia sẵn sàng lên xe hoa với những chàng trai không hề quen biết. Tuy nhiên, đa số các cô gái chấp nhận lấy chồng xa xứ mục đích chính vẫn không gì khác ngoài gánh nặng cơm áo, gạo tiền. ... Nói gì thì nói nhưng phải khẳng định một số xã của huyện Kiến Thụy giàu lên không thể không kể đến những đồng tiền ngoại hối do các cô gái lấy chồng nước ngoài gửi về. Điều này được ông Chủ tịch xã Tú Sơn Bùi Nhân Tông lấy dẫn chứng cụ thể như sau: Trước đây thôn 5 thuộc diện nghèo nhất xã Tú Sơn, nhưng sau có gần 100 cô gái đi lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan mà kinh tế của thôn giờ vươn lên vị trí đầu tiên của xã, vậy không phải tiền của họ gửi về thì con ai vào đây được nữa?”. 11 Chính vì những lợi ích kinh tế do cuộc hôn nhân này mang lại mà phần lớn phụ nữ nông thôn khi được tìm hiểu đều đưa ra lý do này như một sự khẳng định rằng đó là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất. 2. Thái độ của cộng đồng và gia đình Thái độ của những người xung quanh cũng như trong gia đình có ảnh hưởng không hề nhỏ tới quyết định của các cô gái muốn lấy chồng nước ngoài. Và trước sự phổ biến, công khai của hiện tượng này thì một giả thuyết được đưa ra là xã hội có thái độ chấp nhận việc kết hôn với người nước ngoài của các cô gái nông thôn. Khi phân tích tài liệu về vấn đề này, có một điều có thể nhân thấy là có những luồng dư luận, ý kiến trái ngược nhau đối với việc kết hôn với người nước ngoài. Có những ý kiến phản đối việc phụ nữ nông thôn kết hôn với người nước ngoài vì họ cho rằng đó thực chất là buôn bán phụ nữ: ”Có cả một dịch vụ buôn bán phụ nữ Việt Nam cho người nước ngoài diễn ra và vẫn còn tiếp tục diễn ra rộn rịp, phát đạt, vui vẻ, không hề giấu diếm, một ngành buôn người thật sự” (Nguyên Ngọc, 2006). Tác giả Nguyên Huân (Báo Nông nghiệp Việt Nam, 2010) trong bài viết ”Về nơi nghìn người lấy chồng ngoại” đã đề cập khá rõ ràng sự không đồng tình với việc lấy chồng nước ngoài của các cô gái địa phương họ: ”Chúng tôi tìm đến thôn 3, làng Quần Mục vì biết đây là một trong những nơi có nhiều người đi lấy chồng ngoại nhất nhì xã Đại Hợp (Kiến Thụy – Hải Phòng), thì được ông Trưởng thôn Đào Trọng Khuôn chia sẻ, có một sự thật buồn rười rượi ở các gia đình có con đi lấy chồng ngoại quốc là họ rất mặc cảm, xấu hổ vì bị dân làng thường xuyên móc máy. Gia đình nào có con đi lấy chồng Hàn Quốc hay Đài Loan mà xây nhà cao cửa rộng là lập tức ngôi nhà đó được gọi là "nhà Uôn, nhà Đài" ngay. Chính vì vậy những ông bố, bà mẹ nào có con sang sông với người xa xứ rất sợ phải đi ăn 12 cỗ bởi đó là lúc họ dễ trở thành trung tâm cho những câu nói mát, nói kháy của người đời”. Tuy nhiên, bên cạnh việc phản đối thì những ý kiến đồng tình về việc này cũng không phải là ít. Trong nhiều cuộc thảo luận nhóm được tiến hành, những người tham gia cho rằng trường hợp đầu tiên có người ở địa phương lấy chông nước ngoài đã gây ra một dư luận xôn xao trong bà con làng xóm. Các nhà có con lấy chồng Đài Loan ban đầu thường phải chịu sự dòm ngó chê cười của những người xung quanh. Họ bàn tán cho rằng các gia đình này ”gả bán”. Tuy nhiên, khi chứng kiến sự thay đổi trông thấy của các gia đình này, nhiều người đã thay đổi thái độ, sau đó, chính họ cũng gả con cho ngườ Đài Loan (Trần Thị Kim Xuyến, 2005, Nguyên nhân của phụ nữ đồng bằng sông Cửu Long kết hôn với người Đài Loan). ”Lúc mới phát sinh chuyện đi lấy chồng Đài Loan thì người ta bàn tán xì xầm nhiều nhưng bây giờ nó giảm dần rồi. Ví dụ như nhà nào đó có con gái đi lấy chồng Đài Loan, thì người ta cũng chỉ nói ”nhà đó có con gái gả đi lấy chồng Đài Loan”, vậy thôi, người ta it có xì xầm nữa. Không phải như lúc trước người ta mang ra nói đủ thứ chuyện, bàn tán người đó sao, chú rể ra sao, cô dâu như thế nào, bây giờ thì hết rồi, dường như mọi người thấy chuyện đó là bình thường” (TLN nữ thanh niên, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang). ”Em lấy chồng Đài Loan từ năm 1994, hồi đó ở cồn này chỉ 2 người lấy chồng con giống như bán con đi để ăn, nhưng bây giờ nhà đó có 2 đứa đều lấy chồng Đài Loan” (PVS cô gái tái hôn với người Đài Loan, xã Tân Lộc – Thốt Nốt – Cần Thơ). Theo thời gian, hiện tượng này cũng không còn gì để bàn tán nhiều nữa, người ta coi đây là một điều hết sức bình thường. Và do đó, trong nhiều cuộc thảo luận, người ta nhận thấy rằng thái độ chung nhất của mọi người đối với các cô gái lấy chồng nước ngoài là sự cảm thông, chấp nhận vì cho rằng các cô gái đó cũng 13 chỉ là vì gia đình khó khăn, các cô muốn báo hiếu cha mẹ. Và vì sự hy sinh đó mà các cô gái nhận được nhiều sự đồng tình, ủng hộ từ phía những người xung quanh. ”Thứ nhất sự thông cảm giành cho gia cảnh gia đình cô gái, thứ hai là dành cho bản thân cô, vì báo hiếu cha mẹ mà sẵn sàng đón nhận những hậu quả khó lường trước được. Cuộc sống ở quê của các cô quá lam lũ thì chí ít đối với sự đổi đời có thể đạt tới cũng đủ khiến cho các cô chấp nhận rồi” (TLN, nữ thanh niên tại Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ). Một ý kiến khác cũng tương tự: ”Thấy đồng tình nhiều hơn phản đối... kiểu như thấy hy sinh được... thì người ta mừng nhiều hơn ... Như đi thì giúp đỡ cho cha mẹ, mình thấy vậy thì mình mừng” (TLN, nữ thanh niên tại Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ) ”Tán thành ủng hộ thì chắc không có nhưng mà có trường hợp có người lấy thì chắc là người ta cũng không phản đối gì? Có những gia đình do hoàn cảnh nghèo mà có người lấy thì có người người ta nói mừng cũng có người chê trách, hoặc cũng mừng vì cho gia đình đó đỡ khổ. Tùy từng người, người ta nhìn vào đó người ta nói” (TLN, nam thanh niên, thị xã Gò Công – tỉnh Tiền Giang). Ngoài ra, những thông tin qua bảng hỏi các bậc cha mẹ cũng cho thấy thái độ đồng tình của các thành viên khác trong gia đình. Số người trong gia đình phản đối cuộc hôn nhân với người nước ngoài không đáng kể so với người không phản đối (10,4% so với 89,3%) (Trần Thị Kim Xuyến, 2005) Bảng 5. Bảng 2. Người trong gia đình phản đối cuộc hôn nhân với người Đài Loan tính theo địa bàn khảo sát. Địa bàn khảo sát Vĩnh Long An Giang Cần Thơ Đồng Tháp Tiền Giang Hậu Giang Tổng Có 6 10 19 14 6 11 66 14 6,7% 9,2% 11,4% 9,3% 10,7% 17,2% 10,4% 82 99 148 135 50 53 567Không 92,1% 90,8% 88,6% 90% 89,3% 82,8% 89,3% 1 0 0 1 0 0 2Khó trả lời 1,1% 0% 0% 0,7% 0% 0% 0,3% 89 109 167 150 56 64 635Tổng 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% Nhìn chung, tuy rằng vẫn có những ý kiến không đồng tình với việc lấy chồng nước ngoài của các cô gái nông thôn nhưng nhiều bài viết, nghiên cứu đã cho thấy rằng thái độ cảm thông vẫn là điểm dễ nhận thấy nhất. 3. Do trào lưu xã hội Một yếu tố khác cũng có tác động không nhỏ tới việc lấy chồng nước ngoài là sự lây lan hiện tượng này trong cộng đồng. Thông qua những mối quan hệ gia đình, bạn bè, hàng xóm mà các cô gái có được thông tin về việc lấy chồng nước ngoài. Người này thấy người kia đi được, một thời gian thấy gửi tiền về, rồi truyền tai nhau, giới thiệu cho nhau lâu dần trở thành phong trào. Phong trào lấy chồng Đài Loan dần dần lan rộng, phổ biến đến nỗi trong tất cả các buổi tiệc tùng, các cuộc trò chuyện... người ta đều bàn tán đến việc ông này, bà kia có con gả chồng Đài Loan thu về hàng chục triệu đồng, ai sinh được con gái là có phúc vì gả cho người nước ngoài sẽ có nhiều tiền nuôi gia đình... (Ngọc Thiện, 2005, Lấy chồng nước ngoài - Bi kịch ở “thiên đường”, Tiền Phong). Cho nên từ đây, những cái tên như ”đảo Đài Loan”, ”xã Hàn Quốc”... là những minh chứng cho sự lây lan hiện tượng này trong một cộng đồng làng, xã... Khi được hỏi ”Đàn ông, con trai bên Hàn Quốc, Đài Loan có gì hấp dẫn thế mà con gái quê mình lấy họ đến như vậy?”, ông Hoàng Xuân Tiến, Phó Chủ tịch UBND xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy – một xã đã có rất nhiều cô gái lấy chồng 15 nước ngoài của thành phố Hải Phòng, cho biết: Khoảng những năm 1998 - 2000, có một nhóm ngư dân ở Hải Phòng hành nghề đánh cá do thường xuyên qua lại nên quen rất nhiều người bên Đài Loan và biết bên đó cuộc sống rất sung sướng nhưng rất thiếu con gái, vậy là họ về mai mối cho những cô gái quá lứa lỡ thì ở quê sang bên đó lấy chồng. Bên cạnh đó, một số người phụ nữ đi xuất khẩu lao động Đài Loan rồi lấy chồng ở lại bên đó luôn. Dần dà cô em dẫn cô chị, cô dì đưa cô cháu tạo nên phong trào lấy chồng Đài Loan. Việc lấy chồng Hàn Quốc cũng tương tự, ban đầu cũng chỉ có một vài cô gái mạnh dạn đi xuất khẩu lao động rồi lấy chồng và định cư bên đó dẫn mối tạo nên phong trào lấy chồng Hàn. Tuy nhiên, theo lời ông Tiến đó chỉ là thời điểm ban đầu. Phong trào lấy chồng ngoại quốc chỉ thực sự trở nên sôi nổi khi những dòng ngoại tệ được rót về làng để rồi những tòa nhà cao tầng mà người ngư dân cả đời đánh cá bạc mặt cũng không có được mọc lên. Nhà này thấy nhà kia to quá nên cũng ao ước có được một căn biệt thự như vậy cho mở mày mở mặt với thiên hạ nên ép con gái đi lấy chồng nước ngoài. (Nguyên Huân, 2010, Về nơi nghìn người lấy chồng ngoại, Báo Nông nghiệp Việt Nam). Trong đề tài ”Nguyên nhân của phụ nữ đồng bằng sông Cửu Long kết hôn với người Đài Loan” của tác giả Trần Thị Kim Xuyến (Khoa Xã hội học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM, 2005), các cô gái tham gia trả lời phỏng vấn cho biết họ biết thông tin về vấn đề này và quen với các chú rể Đài Loan qua những người đã lấy chồng Đài Loan (28,6%), những người thân trong gia đình (10,2%), người trong họ hàng (14,3%), hoặc hàng xóm (4,1%). Bảng 6. Bảng 3. Người giới thiệu hôn nhân với người Đài Loan. Tỷ lệ % Người đã lấy chồng ĐL dẫn về giới thiệu 28,6 Bạn bè 12,2 16 Người thân trong gia đình 10,2 Qua bà con họ hàng 14,3 Qua hàng xóm 4,1 Người môi giới, thi tuyển 28,6 Không ai giới thiệu 2,0 Tổng 100 Chính vì vậy mới nảy sinh hiện tượng vùng thì có số phụ nữ lấy chồng nước ngoài cao đột biến, vùng thì lại không đáng kể. Điều này càng khẳng định vai trò của yếu tố trào lưu xã hội là không hề nhỏ đối với hiện tượng này. 4. Một số nguyên nhân từ phía nam giới Việc kết hôn với người nước ngoài của các cô gái nông thôn đã gây ra những tác động nhất định đối với nam giới ở những nơi này vì họ có nguy cơ không lấy được vợ hay không có vợ để mà lấy. Nếu chỉ đánh giá một chiều như thế thì có thể thấy nam giới cũng là người phải chịu thiệt thòi và xét trên khía cạnh nào đó thì đây cũng được xem như là những ”nạn nhân” của hiện tượng này. Tuy nhiên, nếu xét theo chiều tác động ngược lại thì nhiều ý kiến lại cho rằng quyết định lấy chồng nước ngoài của những phụ nữ nông thôn cũng bắt nguồn từ những nguyên nhân thuộc về phía nam giới, vì họ ”suốt ngày say xỉn và đánh vợ con”. Các cô cho rằng: ”tự mình thấy mấy đứa con gái ở đây có chồng say xỉn hoài à, bởi vậy nhìn thấy sợ, mới tự nguyện đi lấy chồng xa. Mấy đứa bạn tui nói sống ở bển tốt hơn bên này, sướng hơn bên này nhiều lắm. Mà thiệt đời sống ở bển tốt hơn bên này nhiều” (PVS, nữ, huyện Bình Minh – tỉnh Vĩnh Long). Các ý kiến khác cũng tương tự: ”Thật ra mình thấy cuộc sống ở đây cực quá, vật chất không thoải mái còn bị đánh đập, mà con trai thất nghiệp, rồi nghiện ngập, AIDS, lấy về nhiều khi mang nợ vào thân, sợ lắm” (PVS, nữ, xã Tân Lộc, huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ). 17 ”Các cô gái lấy chồng Đài Loan đó là vì họ cho rằng lấy chồng ở đâu cũng vậy, tất cả đều có số phận, nếu khổ thì lấy chồng Việt Nam cũng khổ, hết say xỉn, bài bạc rồi lại đánh đập vợ con, lấy chồng nước ngoài may ra đồng tiền nước ngoài có giá hơn ở Việt Nam có cơ hội thay đổi được cuộc đời làm thuê làm mướn” (TLN thanh niên huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). ”Thì tui thấy lấy chồng Việt khổ quá, thì đồng ý là không phải ai cũng khổ. Nhưng lấy về rồi cãi vả nhau tui mệt lắm. Mấy cha cứ nhậu nhẹt rồ về đập phá, chửi lộn, thì lúc lấy chồng ai lại không lấy người thương mình, người mình thương. Nhưng khi lấy về người ta có chăm lo cho mình nổi không, tiền bạc mà không có thì trước sau gì mà không cãi nhau. Đồng ý là trước khi cưới có thương nhau đó, người ta cũng hứa hẹn này nọ đó, nhưng ai biết được về sau nó như thế nào. Người mà có công ăn việc làm ngon lành, có học ngon lành rồi giàu có này nọ thì ai mà thèm lấy mình chứ” (PVS nữ sắp LCĐL tại Sở Tư pháp tỉnh Đồng Nai). Những ý kiến trên chỉ là một số trong rất nhiều suy nghĩ cho rằng đàn ông ở địa phương của những cô gái lấy chồng nước ngoài ấy không biết chăm sóc vợ con, lại có thói quen uống rượu rồi say xỉn, đánh đập vợ con. Nhiều người đều nhấn mạnh vấn đề bạo lực gia đình ở khu vực mình. Trong khi đó, những thông tin mà họ nghe được về các chú rể nước ngoài lại khác hẳn so với những nam giới ở đây. ”Hồi nãy tôi nghe nói, có người muốn cho gia đình mình giàu lên, họ muốn giàu nhanh nên họ lấy người Đài Loan. Nhưng thực tế thì phải thừa nhận thanh niên mình đối xử không tốt bằng người Đài Loan. Chồng Đài Loan thì khi say xỉn về nhà không đánh vợ như mình” (TLN thanh niên, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). ”... còn lấy chồng bên kia ít bị đánh đập, cuộc sống vật chất thoải mái có thể giúp ba má ở nhà không phải lo về kinh tế nhiều. Chị có nhiều bạn lấy chồng ở Đài Loan, nghe kể lại thấy bà con quanh đây có con lấy chồng ở bên cũng sung sướng hạnh phúc” (PVS, nữ, xã Tân Lộc – Thốt Nốt – Cần Thơ). 18 ”Cũng như mấy người hàng xóm người ta nói vậy nè... đi về bên cuộc sống khỏe khoắn vậy đó, chồng không có đánh, không có chửi mắng vậy đó. Chồng thương mình, lo lắng cho mình dữ lắm nếu mà bệnh nặng anh đưa đi bệnh viện còn nếu mà nhức đầu anh đòi đưa mình đi bác sỹ... ba mẹ bên đó dễ dữ lắm” (PVS, nữ LCĐL, xã Tân Lộc – Thốt Nốt – Cần Thơ). Chính những thông tin như vậy đã làm cho họ có sự so sánh và từ đó thêm đặt niềm tin vào quyết định lấy chồng nước ngoài của mình. II. Nguyên nhân chủ quan 1. Muốn báo hiếu cha mẹ Hiếu kính Cha Mẹ là một truyền thống rất tốt đẹp và lâu đời của dân tộc Việt Nam chúng ta. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, cho đến ngày nay. Nhiều ca dao, tục ngữ phản ảnh sinh động truyền thống đó: "Công Cha như núi Thái Sơn Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ Mẹ kính Cha, Cho trọn chữ hiếu mới là đạo con." Trong nền văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam ta, người xưa luôn xếp chữ Hiếu lên hàng đầu trong trăm đức hạnh của con người. Phật giáo cũng dạy rằng: “Hiếu thuận hoàn sinh hiếu thuận tử, ngỗ nghịch hoàn sinh ngỗ nghịch nhi…” (tức là người nào có hiếu với cha mẹ mình thì sau này, con cái họ cũng sẽ có hiếu với họ và ngược lại). Sống trong nền văn hóa như vậy, ít nhiều người Việt Nam nói chung và đặc biệt là người dân khu vực nông thôn nói riêng – nơi mà còn in đậm dấu ấn của những giá trị truyền thống, đã được tiếp thu từ nhỏ và trở thành chuẩn mực. Đây được xem như kết quả của quá trình xã hội hóa cá nhân ngay từ khi còn nhỏ. Cho nên, việc kết hôn với người nước ngoài của phụ nữ nông thôn nhằm tìm cơ hội báo 19 hiếu cha mẹ, nhất là ở những gia đình khó khăn được xem là một nguyên nhân nữa không kém phần quan trọng. Nhận xét này cũng phù hợp với kết quả của rất nhiều cuộc nghiên cứu. Tất cả các cuộc thảo luận nhóm trong các trường hợp các cô giá lấy chồng Đài Loan, chỉ một phần nhỏ là do cha mẹ ép còn phần lớn thì vẫn là do tự nguyện của các cô gái. Theo họ, những cô gái lấy chồng Đài Loan là một sự hy sinh để có tiền giúp đỡ cha mẹ bớt khổ, những đứa em được tiếp tục học hành. Đó là kết quả của quan niệm báo hiếu cho cha mẹ, các nhóm trung niên và nhóm người cao tuổi đều cho rằng hành động báo hiếu như vậy rất đáng được đề cao. Những câu nói được lặp lại nhiều lần trong các cuộc thảo luận nhóm là ”là con gái thì phải thương cha mẹ thôi” hoặc ”con giá nó làm vậy là có hiếu, mình phải thông cảm cho nó chứ” (Trần Thị Kim Xuyến, Nguyên nhân của phụ nữ đồng bằng sông Cửu Long kết hôn với người Đài Loan, Tạp chí Xã hội học số 1 (89) 2005). Trong khi đó, con cái nhìn chung đều có phẩm chất của văn hoá truyền thống Việt Nam là yêu thương, hiếu thảo với cha mẹ. Thấy cha mẹ nghèo, muốn giúp đỡ nên nhiều cô gái chọn cách lấy chồng ngoại để có tiền giúp bố mẹ, để bố mẹ mở mày mở mặt với chòm xóm. Nhiều người trót đi lấy chồng ngoại nay phải trở về cũng thật thà tâm sự rằng, không hiểu ngôn ngữ, phong tục tập quán của nhau thì làm gì có tình yêu. Nhưng vì cuộc sống quá khó khăn, bố mẹ lại già cả ốm yếu nên các cô đành tặc lưỡi gửi thân phận yếu ớt mỏng manh của mình sang xứ người với hi vọng sẽ có được một khoản tiền gửi về cho bố mẹ xây lại cái nhà cái cửa cho hẳn hoi để sống lúc tuổi già, chứ thật sự trong thâm tâm họ không ai muốn lấy chồng xa xôi cách trở làm gì cho tủi thân (Nguyên Huân, 2010, Về nơi nghìn người lấy chồng ngoại, Báo Nông nghiệp Việt Nam). ”Em nghĩ còn mơ ước đi qua bên đó nữa nhưng không theo đoàn, tính làm hợp đồng các công ty đưa người đi làm, mình còn lượng ước cũng như quyết định được. Muốn đi lấy chồng nhưng làm thủ tục lâu. Nhưng mình không thích sống ở 20 Việ Nam.... ở Việt Nam không có nghề nào kiếm nhiều tiền, chỉ lo được chồng con chứ không lo cho mẹ được, qua đó nhiều tiền... Định đi một thời gian lo cho cha mẹ đầy đủ như người ta rồi sẽ về Việt Nam ở”. (PVS, nữ 25 tuổi kết hôn với người Đài Loan khôngthành, huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ). Trong các nghiên cứu, có rất nhiều ý kiến đồng tình với quan điểm cho rằng: ”Theo mình, người con gái lấy chồng Đài Loan là tại hoàn cảnh túng thiếu, để báo hiếu cho gia đình chứ ai muốn đành đoạn rời xa quê hương mình đâu” (TLN, nữ thanh niên, xã Tân Lộc – huyện Thốt Nốt – thành phố Cần Thơ). ”Vì lấy chồng Đài Loan sẽ có tiền gửi về giúp đỡ cha mẹ thoát nợ nần. Em thấy nhiều người giúp gia đình là vì người ta nghèo như thiếu tiền, thiếu nợ nên con họ đi lấy chồng Đài Loan để trả tiền cho cha mẹ” (TLN, nữ thanh niên, huyện Vị Thủy – tỉnh Hậu Giang). ”Nói chung thấy ba mẹ tui cực khổ, tui mới lấy chồng Đài Loan, thấy lấy thawnhf chồng nào cũng như thằng nấy, kệ lấy trả hiếu, nếu hên thì hạnh phúc không thì cũng trả hiếu được” (PVS, nữ, Hậu Giang). Tất cả những lý do được đưa ra như trên đều thấy trong đó liên quan đến yếu tố kinh tế, Tuy nhiên, nếu chỉ xem xét đến nguyên nhân vì gia đình khó khăn không thôi thì không thể có cái nhìn sâu rộng về vấn đề này. Bởi khó khăn là gia đình bố mẹ của các cô gái đó khó khăn, còn nếu họ đi lấy chồng rồi thì sẽ sống một cuộc sống khác. Nhưng truyền thống Việt Nam là con người vốn sống với nhau bằng tình cảm, mà lại là chính người sinh thành, nuôi nấng mình nên mong muốn được báo hiếu càng lớn lao. Và đây được coi là một trong những nguyên nhân khá phổ biến. ”Có một số lượng lớn các cô gái tuổi đời mới mười tám đôi mươi chấp nhận lấy một người chồng không tình yêu chỉ vì muốn báo hiếu cha mẹ” (Nguyên Huân, 2010, Về nơi nghìn người lấy chồng ngoại, Báo Nông nghiệp Việt Nam). Có thể thấy rằng, trong số các lý do được đưa ra để giải thích cho việc chấp nhận lấy chồng nước ngoài của các cô gái nông thôn cũng có sự cho phối của yếu 21 tố văn hóa, đó là quan niệm vì cha mẹ, vì người thân, chấp nhận hy sinh cho họ còn bản thân mình thì sao cũng được. 2. Trình độ học vấn 2.1 Trình độ học vấn của bố mẹ có con lấy chồng nước ngoài Trình độ học vấn là một trong những yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến nhiều lĩnh vực của đời sống. Trình độ học vấn thấp không chỉ là nguyên nhân của tình trạng kinh tế khó khăn dẫn đến mong muốn được thay đổi cuộc sống bằng việc kết hôn với người nước ngoài mà có lẽ còn cản trở khả năng tiếp nhận những thông tin liên quan đến vấn đề này, từ đó mà nhận thức cũng chưa được đầy đủ. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng nhìn chung, trình độ học vấn của những cha mẹ có con lấy chồng nước ngoài đều khá thấp. Theo tác giả Trần Thị Kim Xuyến (Khoa Xã hội học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM, 2005) khi nghiên cứu về ”Nguyên nhân của phụ nữ đồng bằng sông Cửu Long kết hôn với người Đài Loan”, từ kết quả phân tích học vấn của 635 người trả lời là cha (283 người) và mẹ (350 người) của các cô gái cho thấy học vấn của những người chủ gia đình ở nơi này rất thấp. Đa phần có trình độ cấp 1 (58,9%), và một số ít học cấp 2 ( 21,7%), những người có trình độ học vấn cấp 3 và cao hơn nữa không đáng kể. Đặc biệt vẫn còn 59 người (chiếm 9,3%) không biết chữ hoặc tái mù chữ (Bảng 2). Bảng 4. Trình độ học vấn của cha/mẹ các cô gái có con kết hôn với người Đài Loan Tần suất Phần trăm Mù chữ 59 9,3% Cấp 1 374 58,9% Cấp 2 138 21,7% Cấp 3 61 9,6% Trình độ học vấn CĐ – ĐH 1 0,2% 22 Không trả lời 2 0,3% Tổng 635 100% Đại đa số các gia đình đều cho rằng họ trông đợi vào sự giúp đỡ về kinh tế của cô con gái thông qua việc kết hôn với người Đài Loan (81,4%). Đặc biệt, sự kỳ vọng vào cuộc hôn nhân của con gái tỷ lệ nghịch với trình độ học vấn của các bậc cha mẹ. Những người có trình độ học vấn càng thấp, tỷ lệ bày tỏ sự hy vọng vào hôn nhân của con cái càng cao. Ngược lại những bậc cha mẹ có trình độ học vấn càng cao, tỷ lệ kỳ vọng vào con cái trong việc cải thiện kinh tế cho gia đình càng thấp (Bảng 3). Bảng 5. Kỳ vọng vào sự giúp đỡ kinh tế của con gái thông qua hôn nhân Việt Nam – Đài Loan tính theo trình độ học vấn của bố (mẹ) cô gái. Trình độ học vấn người trả lời Mù chữ Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 CĐ - ĐH Không trả lời Tổng N 47 317 110 41 0 2 517Có % 79,7% 84,8% 79,7% 62,2% 0% 100% 81,4% N 10 46 21 19 1 0 97Không % 16,9% 12,3% 15,2% 31,1% 100% 0% 15,3% N 2 11 7 1 0 0 21Khó trả lời % 3,4% 2,9% 5,1% 1,6% 0% 0% 3,3% N 59 374 138 61 1 2 635Tổng % 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% Những người chủ gia đình có trình độ học vấn thấp ít có cơ hội về nghề nghiệp, họ thường phải lao động nông nghiệp, phải làm thuê, do vậy, thu nhập đã 23 thấp lại không ổn định. Tuy nhiên, nhiều người cũng nhận định rằng, không phải mọi gia đình hạn chế về kinh tế đều dễ dàng chấp nhận cho con giá lấy chồng nước ngoài. Họ cho rằng những người có học vấn thấp mới dễ dàng như vậy. ”A! Cái nhà kia ở dưới kênh có người con gái mà hổng chịu gả cho Đài Loan đó, gia đình cũng chỉ tạm thôi chứ không giàu. Mấy đứa đó sợ lắm, nó đi làm thành phố... Có nhiều đứa nó không đồng tình, cha mẹ ép mà nó cũng không chịu... nói chung ưng Đài Loan cũng cái dạng ít học thức đó...” (TLN, trung niên, xã Tân Lộc – huyện Thốt Nốt – thành phố Cần Thơ). Nhiều gia đình coi việc con cái đi lấy chồng Đài Loan cũng giống như việc các cô lên tỉnh hay lên thành phố để đi làm: ”nếu thấy ổn thì ở lại lâu dài, nếu thấy khó khăn, không sống được thì về”. Tóm lại, học vấn ảnh hưởng đến rất nhiều thứ như nhận thức, thu nhập... nên đây cũng được coi là một nguyên nhân quan trọng khi nghiên cứu về vấn đề phụ nữ nông thôn kết hôn với người nước ngoài. 2.2 Trình độ học vấn của những người phụ nữ kết hôn với người nước ngoài Các nghiên cứu, tài liệu đều có chung một nhận xét đáng chú ý, đó là những cô gái lấy chồng Hàn Quốc hay Đài Loan thường có trình độ học vấn thấp. Các cô dâu thường ở độ tuổi 18 – 25, đa phần có trình độ học vấn cấp một, cấp hai, cá biệt có trường hợp mù chữ (Tiền Tường, 2006, Đua nhau lấy chồng Hàn Quốc, Báo Tiền Phong). Theo thống kê toàn quốc của Văn phòng Đại diện Kinh tế - Văn hóa Đài Bắc tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 2/4/2004, đa phần các cô gái ở bậc tiểu học và phổ thông cơ sở, chiếm 84,8% trong tổng số cô gái tham gia phỏng vấn kết hôn với người Đài Loan năm 2003 (Bảng 4). Bảng 6. Thống kê trình độ học vấn cô dâu Việt Nam tham gia phỏng vấn kết hôn năm 2003 Trình độ học Cô dâu Việt Nam 24 vấn Số lượng Tỷ lệ Mù chữ 0 0% Tiểu học 9632 84,8% PTCS 1355 11,93% PTTH 350 1,08% TH kỹ thuật 0 0% Đại học 21 0,18% Trên đại học 0 0% Tổng 11358 100% Một cuộc thăm dò mới đây do Viện Khoa Học Xã Hội thành phố Sài Gòn thực hiện cho thấy 8% phụ nữ Việt lấy chồng Đài Loan đều không biết chữ, và 40% mới chỉ học hết lớp một. Hàng loạt các ý kiến khác cũng cho rằng trình độ học vấn thấp là một trong những nguyên nhân dẫn tới hiện tượng này: - ”Theo tìm hiểu của chúng tôi, hầu hết các cô gái được “xem mắt” đều có trình độ học vấn thấp, hoàn cảnh gia đình khó khăn” (Minh Luận – P.Minh, 2009, Môi giới hôn nhân trái phép cho người nước ngoài: Xử lý hình sự mới đủ sức răn đe, Tuổi Trẻ) - ”Các cô gái lấy chồng Đài Loan đa số là gia đình nghèo, trình độ học vấn thấp, không có công ăn việc làm” (Phúc Minh, 2005, Lấy chồng nước ngoài qua giới thiệu: Một thực trạng đáng lo ngại, Báo Bà Rịa – Vũng Tàu). C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Các kết quả được rút ra trong quá trình phân tích các tài liệu liên quan đến vấn đề phụ nữ nông thôn kết hôn với người nước ngoài mà cụ thể ở đây là hai quốc 25 gia Hàn Quốc và Đài Loan cho thấy rằng lấy chồng nước ngoài là một hiện tượng tương đối phổ biến ở một số khu vực nông thôn Việt Nam. Có một số nguyên nhân quan trọng khiến cho hiện tượng này vẫn diễn ra và chưa có xu hướng dừng lại, đó là: - Kinh tế khó khăn, cuộc sống đói nghèo không đáp ứng được những nhu cầu của cuộc sống cùng với các tệ nạn xã hội xuất phát từ phía nam giới khiến cho những người phụ nữ phải tìm ra cho mình một con đường để thay đổi cuộc sống và việc lấy chồng nước ngoài được xem như là một biện pháp hữu hiệu nhất trong hoàn cảnh này. Kinh tế được xem như là nguyên nhân quan trọng hàng đầu dẫn tới hiện tượng này. - Nhận thức của người dân với những vấn đề liên quan đến việc kết hôn với người nước ngoài còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Sự hạn chế này phần lớn là xuất phát từ trình độ học vấn của họ còn thấp. - Những yếu tố thuộc về văn hóa, chuẩn mực của chữ hiếu... đã ăn sâu vào tiềm thức con người. Con người ngay từ khi còn nhỏ đã được giáo dục với những vai trò, giá trị được coi là thước đo của chuẩn mực. Có thể thấy rằng, trong các lý do quyết định kết hôn với người nước ngoài của các cô gái có sự chi phối của yếu tố văn hóa truyền thống, đó là quan niệm vì người thân, vì cộng đồng chứ không vì quyền lợi cá nhân. - Có sự thay đổi về thái độ đối với hiện tượng kết hôn với người nước ngoài, từ phản đối sang chấp nhận. Và chính thái độ chấp nhận của cộng đồng được xem như yếu tố thúc đẩy sự vững vàng trong quyết định đi đến kết hôn với người nước ngoài của các cô gái nông thôn. - Yếu tố lây lan, trào lưu xã hội càng góp phần thúc đẩy hiện tượng này trở nên phổ biến. 2. Khuyến nghị 26 Dựa vào những phân tích và kết quả nghiên cứu có thể đề xuất một số khuyến nghị như sau: - Kinh tế được xem là yếu tố quan trọng tác động lớn nhất tới việc đi đến quyết định lấy chồng nước ngoài của những người phụ nữ nông thôn. Dù xuất hiện trực tiếp hay gián tiếp thì đến cuối cùng mục đích của họ vẫn là cải thiện kinh tế cho gia đình cũng như cho bản thân. Cho nên, một trong những biện pháp quan trọng nhất vẫn là làm thế nào để nâng cao kinh tế cho người dân. Trong đó có thể bao gồm các biện pháp sau: + Tìm ra những biện pháp cụ thể nhằm tạo công ăn việc làm cho người dân nói chung và cho phụ nữ nông thôn nói riêng. + Có chính sách hỗ trợ, giúp đỡ những hộ gia đình khó khăn - Tạo mọi điều kiện nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, từ đó nâng cao trình độ học vấn cho người dân, nhất là thế hệ trẻ. - Cung cấp đầy đủ những thông tin liên quan đến việc kết hôn với người nước ngoài để những gia đình nào có người đi lấy chồng nước ngoài có cái nhìn sâu rộng và đầy đủ nhất về vấn đề này để từ đó có những hướng giải quyêt cho phù hợp. - Tuyên truyền, giáo dục người dân về một lối sống lành mạnh, tìm cách ngăn chặn các tệ nạn xã hội, hạn chế rồi tiến đến dần xóa bỏ tình trạng bạo lực gia đình. - Cần có những chính sách, biện pháp chặt chẽ để quản lý tình trạng này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Bá Thịnh, Dư luận xã hội về hôn nhân có yếu tố nước ngoài, Trường ĐH KHXH và NV, ĐHQG Hà Nội. 2. Nguyễn Thị Hồng, 2007, Cộng đồng nông thôn dồng bằng sông Cửu Long và hiện tượng phụ nữ kết hôn với người Đài Loan, Xã hội học số 2 (98) 2007. 27 3. Trần Thị Kim Xuyến, 2004, Tìm hiểu thực trạng phụ nữ kết hôn với người Đài Loan tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Viện Khoa học – Dân số - Gia đình – Trẻ em. 4. Phạm Thị Cẩm Duyên, 2009, Tiến đến giảm thiểu tình trạng lấy chồng ngoại quốc của phụ nữ nông thôn ở Đồng Tháp, Đại học An Giang. 5. Các trang báo điện tử: Vietbao.vn Nongnghiep.vn Baobariavungtau.com.vn Tuoitre.vn Phunu.hochiminhcity.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfNhững yếu tố tác động đến việc kết hôn với người nước ngoài của phụ nữ nông thôn (Nghiên cứu những trường hợp lấy chồng là người Hàn Quốc và Đài Loan).pdf