Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp, phân tích tình hình đầu tư của hệ thống doanh nghiệp nhà nước

Chương 1:Lý luận chung về đầu tư phát triển trong Doanh nghiệp I-Khái quát về đầu tư phát triển trong DN 1-Đầu tư phát triển là gì? Khái niệm: * Đầu tư phát triển (ĐTPT): §TPT là bộ phận cơ bản của đầu tư , là việc sử dụng vốn trong hiện tại vào hoạt động nào đó , là việc đánh đổi lợi ích trước mắt lấy lợi ích lâu dài nhằm tạo ra những tài sản mới , năng lực sản xuất mới và vì mục tiêu phát triển. * Đầu tư phát triển trong Doanh nghiệp §Çu t­ ph¸t triÓn trong doanh nghiệp là hoạt động sử dụng vốn cùng các nguồn lực khác trong hiện tại nhằm duy trì sự hoạt động và làm tăng thªm tài sản của DN, tạo thªm việc làm và nâng cao đời sống các thành viên trong DN. 2.Tầm quan trọng của hoạt động đầu tư phát triển trong DN Đầu tư là một phần không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của DN. Bất kì một lĩnh vực nào trong DN cũng cần phải đầu tư cả về vật chất, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực và khoa học công nghệ. Tầm quan trọng của đầu tư trong DN được thể hiện: - Đầu tư tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận: Các DN luôn đặt mục tiêu lợi nhuận để xác định quy mô đầu tư của DN mình. Không chỉ là mong muốn có lợi nhuận mà họ còn mong muốn tiền của họ không ngừng tăng lên tức là quy mô lợi nhuận ngày càng được mở rộng. Hoạt động đầu tư của mỗi DN chính là hoạt động nhằm thực hiện chiến lược sản xuất kinh doanh của DN đó với mục tiêu đạt được lợi nhuận mà DN đề ra. Khi lợi nhuận càng cao thì lợi ích càng lớn và ngược lại.Doanh thu có lớn hay không lại phụ thuộc vào quá trình đầu tư của DN. Nếu đầu tư mang lại hiệu quả cao thì doanh thu sẽ nhiều .Như vậy đầu tư đã tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận. - Tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh của DN: Ngày càng nhiều DN gia nhập vào thị trường, vì thế DN muốn tồn tại và đứng vững càng cần phải đầu tư vào các lĩnh vực thế mạnh nhằm nâng cao sức cạnh tranh. - Đầu tư tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm : Đời sống ngày càng được nâng cao thì nhu cầu về sản phẩm chất lượng cao càng tăng. Vì thế DN càng cần phải đổi mới mẫu mã và chất lượng sản phẩm để cạnh tranh với các DN khác, nhất là khi hàng nhập ngoại đang tràn lan trên thị trường. - Đầu tư góp phần đổi mới công nghệ, trình độ khoa học kĩ thuật trong sản xuất sản phẩm của DN: Với trình độ khoa học phát triển như vũ bão hiện nay thì việc đầu tư vào công nghệ là điều cần thiết để tránh rơi vào tình trạng lạc hậu, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đầu tư cho khoa học công nghệ, kĩ thuật cũng góp phần cho sự phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Đầu tư góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: DN đầu tư vào nhiều hoạt động nhằm tạo sự phát triển cũng không thể quên đàu tư cho phát triển nguồn nhân lực. Bởi máy móc không thể thay thế con người. Con người là chủ đạo. Con người tạo máy móc, công nghệ. Đầu tư cho nguồn nhân lực là một trong những điều kiện đầu tiên cho sự phát triển của DN. 3. Nguồn vốn đầu tư phát triển trong Doanh nghiệp Các DN khi thực hiện các hoạt động đầu tư thì điều kiện tiên quyết là nguồn vốn. Các nguồn vốn đầu tư phát triển của DN bao gồm - Vốn ban đầu: vốn chủ SH, vốn cổ đông đối với các Cty cổ phần - Vốn từ các quỹ trong DN: quỹ khấu hao, quỹ đầu tư phát triển - Lợi nhuận chưa phân phối - Vốn vay từ các Ngân hàng thương mại - Vốn tín dụng thương mại - Tín dụng thuê mua - Các nguồn vốn khác tùy trong từng loại hình DN 4. Những nội dung cơ bản cña §TPT trong doanh nghiÖp: 4.1) Đầu tư vào tài sản cố định, đổi mới máy móc thiết bị ở doanh nghiệp Đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị của DN được xem là đầu tư dài hạn và việc đầu tư này có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của DN trong tương lai. Có thể phân biệt nội dung của đầu tư vào TSCĐ theo 2 góc độ. - Đầu tư vào TSCĐ qua mua sắm trực tiếp. Đó chính là việc DN bỏ vốn mua lại các cơ sở dã có sẵn để tiếp tục sử dụng và phát huy hiệu quả của nó. Hình thức này chủ yếu được sử dụng ở các nước phát triển thông qua sát nhập và thôn tính. Với hình thức này thì DN sẽ chỉ phải bỏ ra một khoản vốn vừa phải ( ít hơn so với đầu tư mới ) như vậy DN có thể tiết kiệm được một khoản chi phí và dành nó cho các hoạt động khác. - Đầu tư vào xây dựng cơ bản. Đây là việc rất quan trọng hay nói cách khác, để tiến hành được các hoạt động sản xuất kinh doanh thì DN bắt buộc phải có một lượng vốn để đầu tư xây dựng cơ bản, không chỉ DN mà bất kì tổ chức nào muốn tồn tại và hoạt động phải đầu tư xây dựng cơ bản. Ta xét trên 2 góc độ: - Đầu tư xây dựng hệ thông nhà xưởng, công trình. Đối với một DN mà nói thì đây là yếu tố căn bản ban đầu có thể tiến hành sản xuất kinh doanh. Trước hết ta xem xét DN kinh doanh trên lĩnh vực công nghiệp: để tiến hành sản xuất ra sản phẩm thì phải có nơi, địa điểm (nhà xưởng ) để chứa các dụng cụ hàng hoá, máy móc thiết bị để giao dịch. Đối với DN xây dựng thì đây vừa là công việc vừa là sản phẩm của họ và họ sẽ chuyển giao bán lại cho ngưới khác Vậy tóm lại đầu tư cho việc xây dựng nhà xưởng, trụ sở, cơ quan là đầu tư bắt buộc ban đầu, bất kì một DN nào củng phải bỏ ra một khoản vốn để tiến hành xây dựng cơ sở vật chất ban đầu. Hơn nữa khi mở rộng sản xuất kinh doanh thì đầu tư thêm vào xây dựng cơ bản là điều hiển nhiên. - Đầu tư vào máy móc thiết bị. Có nhà xưởng rồi, muốn sản xuất ra các sản phẩm phải mua sắm thiết bị, hay nói cách khác DN muốn mở rộng thêm sản xuất cần mua thêm máy móc thiết bị, sau một thời gian sử dụng máy móc thiết bị bị hỏng, khấu hao hết. Máy móc bị hao mòn hữu hình thì đều phải tiến hành bỏ chi phí để sửa chữa mua sắm mới. Tất cả những nội dung đó đều được hiểu là đầu tư vào máy móc thiết bị. Như vậy bất cứ giai đoạn nào DN cũng cần hình thành một khoản quĩ để chi dùng cho việc mua sắm, sửa chữa, thay đổi máy móc thiết bị. Khoản qũi này có thể được gọi là quĩ khấu hao hoặc dự phòng. Các DN kinh doanh trên lĩnh vực khác nhau thì sử dụng các loại máy móc thiết bị khác nhau, nhưng dù hoạt dộng trên bất kì lĩnh vực sản xuất nào thì đầu tư vào máy móc thiết bị là điều kiện cơ bản của quá trình sản xuất. Đầu tư xây dựng cơ bản khác như: đầu tư xây dựng các công trình tạm, các công trình sản xuất phụ để tạo nguồn vật liệu và kết cấu phu kiện phục vụ ngay cho sản xuất xây dựng Việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị,các DN cần xem xét các vấn đề sau: - Vòng đời của máy móc thiết bị và công nghệ. - Phân tích môi trường kinh doanh. - Phân tích môi trường ngành và nội bộ ngành. - Phân tích thực trạng nội bộ doanh nghiệp - Phân tích nhóm nhân tố liên quan đến nguồn nhân lực - Phân tích vị thế của doanh nghiệp trên thị trường: - Xem xét các điều kiện về cơ sở hạ tầng hiện có hoặc có các biện pháp bổ sung thích hợp với máy móc thiếp bị và công nghệ dự kiến sẽ lựa chọn. -Phân tích các yếu tố liên quan đến máy móc thiết bị và công nghệ phân tích các chỉ tiêu thể hiện hiệu quả đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ.

doc48 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8287 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp, phân tích tình hình đầu tư của hệ thống doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ân có nhu cầu nhưng vốn ít thì hiển nhiên nguồn "cầu” về CN hạn chế cũng khó có điều kiện phát triển theo. Đó cũng là một lý do để thị trường công nghệ chậm phát triển như chúng ta vẫn thấy. Nhưng liệu chúng ta có phải “bó tay” trước thực trạng nêu trên? Trừ một số lĩnh vực như Bưu chính viễn thông, hàng không…hầu hết các DNNN có máy móc thiết bị đang dùng trong sản xuất khá lạc hậu, công nghệ hiện đại chưa dùng. Tỷ lệ công nghệ lạc hậu đang còn được sử dụng ở khu vực DNNN tuy còn ít hơn so với các khu vực kinh tế khác nhưng cũng đã chiếm tới 35%, công nghệ hiện đại mới chỉ đạt 11 6. Thực trạng đầu tư vào hoạt động Marketing trong DNNN 6.1. Những hạn chế của việc đầu tư vào hoạt động Marketing của DNNN Mặc dù các doanh nghiệp đã có nhận thức tốt hơn về thương hiệu nhưng họ đều đang đứng trước một bài toán khó khăn là không biết bắt đầu từ đâu để xây dựng thương hiệu. Ngay cả sau khi đã học qua những lớp tập huấn, những giám đốc phụ trách thương hiệu của doanh nghiệp cũng vẫn chưa biết phải làm như thế nào, bắt đầu từ đâu vì họ mới chỉ có được kiến thức lý thuyết. Nhìn từ phía cung dịch vụ, rất khó kiếm được một công ty tư vấn làm tốt về marketing hay xây dựng thương hiệu. - Các DN định giá sản phẩm quá thấp, vì mục tiêu của họ là cạnh tranh bằng giá rẻ, vì sản phẩm của họ không có gì khác biệt, phần lớn là sản phẩm “ăn theo”. Tuy nhiên, khi giá nguyên liệu đầu vào tăng, bắt buộc các doanh nghiệp phải tăng giá bán, và khi đó, họ đã vứt bỏ lợi thế cạnh tranh của mình. - Các DNNN chưa quan tâm tới việc xây dựng thương hiệu trên thị trường nước ngoài Theo kết quả nghiên cứu mới nhất về top 200 DNVN của UNDP thì phần lớn các DNVN được hỏi đều cho rằng tạo dựng thương hiệu ở nước ngoài là việc làm tốn kém và khó khăn. Hầu hết các DNVN thâm nhập thị trường quốc tế thông qua các tập đoàn phân phối toàn cầu dưới thương hiệu của họ. Bài học rõ ràng nhất là công cuộc đầu tư cho ngành dầu khí quốc gia. Việt Nam và Malaysia cùng một xuất phát điểm khi đầu tư cho nền công nghiệp khí từ những năm 1974-1975, nhưng đến nay, Petronas đã được biết đến như một tập đoàn dầu khí quốc tế, có hoạt động kinh doanh với 31 quốc gia khác trên thế giới, có nhiều công trình thăm dò khai thác dầu khí ở nước ngoài, trở thành thương hiệu biểu tượng cho Malaysia đối với các quốc gia khác. Còn Petro VN mặc dù cũng đã có những cố gắng nhưng vẫn nhỏ bé và thương hiệu vẫn không vượt ra được ngoài vùng lãnh thổ - Các DNNN còn thờ ơ với việc bảo hộ thương hiệu Thuốc lá Vinataba là 1 ví dụ điển hình trong hạn chế này của các DNNN.Thuốc lá Vinataba bị chiếm dụng thương hiệu tại 12 thị trường. Hàng dệt may, giày dép, kim ngạch xuất khẩu thuộc top đầu, nhưng chủ yếu gia công nước ngoài, nên phải mang thương hiệu của các tập đoàn công ty lớn. Một số nông lâm sản vững vàng vị thế cao trên trường thế giới, song đa phần xuất khẩu qua trung gian nên gần như phải mang thương hiệu nước ngoài hoặc thuần tuý chỉ là thương hiệu nhà phân phối. - Hệ thống kênh phân phối. Các DN của ta trong suy nghĩ vẫn thường coi các đại lý như là những bạn hàng theo kiểu mua đứt bán đoạn, ít khi nghĩ đến chuyện làm ăn lâu dài, chưa thực sự coi bạn hàng như những đối tác của mình. Chúng ta thường nói xây dựng thương hiệu của mình trong tâm trí người tiêu dùng, nhưng lại quên mất là chúng ta cũng cần phải xây dựng thương hiệu trong tâm trí của các bạn hàng - các kênh phân phối, tạo cho họ niềm yêu thích được bán hàng, kích thích và khuyến khích họ vào cuộc cùng với doanh nghiệp.   - Sức cạnh tranh của các thương hiệu còn yếu ngay cả trên thị trường trong nước. Các sản phẩm thương hiệu Việt Nam chỉ chiếm 6% thị phần sản phẩm điện tử nghe nhìn; 48% là các sản phẩm có thương hiệu Nhật Bản và 35% các thương hiệu Hàn Quốc. Đối với sản phẩm điện tử gia dụng, thương hiệu Việt Nam chỉ chiếm 3%; các thương hiệu Nhật chiếm 53%; các thương hiệu Hàn Quốc là 35%.. Với những con số như ở trên, chưa nói đến vấn đề xuất khẩu, ngay cả thị trường trong nước, sản phẩm của DN Việt Nam như đã bị thua trên sân nhà. thực trạng này đặt ra một đòi hỏi cấp thiết đối với các DN là phải xây dựng cho mình những thương hiệu mạnh nếu muốn thành công và giành được vị trí vững chắc trên thương trường. - Các DNNN gặp khó khăn trong vấn đề định giá thương hiệu 6.2.Doanh nghiệp Nhà nước ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng và quảng bá thương hiệu Một thuận lợi cho các DN hiện nay là việc tôn vinh quảng bá thương hiệu đã được các cơ quan chức năng và tổ chức kinh tế xã hội quan tâm. Ví dụ như chương trình xây dựng và phát triển thương hiệu Quốc gia đến năm 2010 đã đươc Thủ Tướng chính phủ phê duyệt tại quyết định số 253 ngày 25/11/2003, xây dựng tiềm thức trong các DN luôn hướng về chất lượng sản phẩm và tín nhiệm của DN để nâng cao sức cạnh tranh, gắn kết hơn với hệ thống phân phối,cuốn hút nhà sản xuất, người tiêu dùng. Từ đó xây dựng hình ảnh Việt Nam - quốc gia dồi dào sản phẩm hảo hạng tăng thêm sức hấp dẫn về đất nước và con người Việt Nam, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, khuyến khích du lịch và đầu tư nước ngoài. - Các cuộc hội thảo xúc tiến thương mại được tổ chức, các hội chợ quốc tế được tổ chức hàng năm ở Việt Nam nhằm quảng bá hình ảnh các DNNN một cách sâu rộng hơn Một số ví dụ về thương hiệu mạnh của DNNN Việt Nam như: - Tổng công ty sữa Việt Nam (Vinamilk): được hình thành từ năm 1976, công ty đã lớn mạnh và trở thành DN hàng đầu của ngành CN chế biến sữa, chiếm lĩnh 75% thị phần sữa Việt Nam. Ngoài ra thương hiệu này cũng được biết đến trên thị trường nước ngoài: Mỹ, Canada,Pháp,Đức. - Tập đoàn Vinaconex cũng đã khẳng định được thương hiệu mạnh.19 năm xây dựng phát triển bền vững với tốc độ tăng trưởng cao. Thương hiệu Vinaconex đã thực hiện thành công mục tiêu đa doanh, đa dạng hóa sản phẩm ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Đến nay Vinaconex đã khẳng định được uy tín và vị thế là một trong những doanh nghiệp hàng đầu của ngành xây dựng trong nước - Bốn Ngân hàng thương mại Nhà nước:NH Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, NH Ngoại thương Việt Nam, NH Đầu tư và phát triển, NH Công thương Việt Nam cũng là những thương hiệu mạnh trong lĩnh vực NH trong và khu vực Đông Nam Á 7. Các hoạt động đầu tư khác trong DNNN Hiện nay quy định không hạn chế phạm vi ngành nghề, lĩnh vực và quy mô đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp nên trong thời gian vừa qua nhiều DNNN đã góp vốn đầu tư hoặc mua cổ phần, vốn góp tại nhiều doanh nghiệp khác, phân tán vào nhiều lĩnh vực kể cả không thuộc lĩnh vực ngành nghề chủ yếu. Đáng chú ý, một số tập đoàn, TCT đã dành một lượng vốn khá lớn đầu tư vào ngân hàng, bảo hiểm hoặc mua bán cổ phiếu trên thị trường. - Đầu tư vào thị trường chứng khoán Theo báo cáo của 70 tập đoàn, TCT thì có tới 28 đơn vị hoạt động đầu tư chứng khoán, thành lập công ty chứng khoán, đầu tư vào công ty quản lý quỹ, ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm với giá trị đầu tư là 23.344 tỷ đồng, chiếm 8,7% vốn chủ sở hữu và 20% tổng số vốn đầu tư ra ngoài. Cụ thể, Tập đoàn Dầu khí đầu tư 5.780 tỷ đồng, trong đó ngân hàng 1.100 tỷ đồng, công ty chứng khoán 76,5 tỷ đồng, công ty tài chính 4.005 tỷ đồng, công ty bảo hiểm 570 tỷ đồng, quỹ đầu tư 29 tỷ đồng; Tập đoàn công nghiệp Tàu thuỷ Việt nam đầu tư 1.894 tỷ đồng, trong đó lĩnh vực ngân hàng 344 tỷ đồng, bảo hiểm 1.462 tỷ đồng (Bảo Việt), quỹ đầu tư 88 tỷ đồng... - Đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh khác: ngân hàng, bảo hiểm,.. Bên cạnh việc đầu tư vào TTCK , tình trạng DNNN thành lập quá nhiều công ty con, công ty liên kết hoạt động trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác hẳn với lĩnh vực sản xuất kinh doanh trước đây ngày càng phổ biến. Có thể dẫn chứng như: Tổng công ty Thuốc lá; Giấy; Dệt may; Công nghiệp Tàu thuỷ đầu tư vào rượu bia, công nghiệp thực phẩm; Tổng công ty Xây dựng công nghiệp đầu tư vào thuỷ điện, nhiệt điện; Tổng công ty Rượu bia nước giải khát Sài Gòn đầu tư vào thuỷ điện, dầu khí, du lịch … Thành phần cổ đông sáng lập của nhiều NHTM mới thành lập trên thị trường như :NH Hồng Việt, NH Tiên Phong,.. có mặt không ít các Tập đoàn, Tổng Cty lớn như NH Bảo Việt với 40% vốn điều lệ của Bảo Việt tương đương 600 tỷ đồng, Tổng Cty Hàng không góp 150 tỷ vào NH Hồng Việt, Tổng Cty Hóa chất góp 50 tỷ vào Vietstarbank, Tổng Cty lắp máy (Lilama) và Tổng Cty Công nghiệp ô tô là cổ đông chính tại NH Kinh Bắc, Vinashin vừa ngưng góp vốn thành lập NH Thương mại Công nghiệp… Cũng theo Ban Chỉ đạo Đổi mới Doanh nghiệp: Thời gian qua, đã có một số TĐ, TCty nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh ngoài ngành nghề sản xuất chính như chứng khoán, ngân hàng, bất động sản. Đây được xem là những lĩnh vực có nhiều rủi ro và hiện tại, một lượng vốn không nhỏ (lên tới 7.370 tỉ đồng) đang bị chôn vào các lĩnh vực này chưa thể sinh lời. Hiện có 13 TĐ, TCty nhà nước đầu tư vào các quỹ chứng khoán và quỹ đầu tư tài chính với tổng giá trị đầu tư 1.061 tỉ đồng; 19 TĐ, TCty góp vốn thành lập NHTMCP với tổng giá trị 4.426 tỉ đồng; Có 13 TĐ, TCty góp vốn thành lập 15 Cty chứng khoán với tổng giá trị 420 tỉ đồng Có 18 TĐ, TCty góp vốn đầu tư vào bất động sản (BĐS), tổng giá trị 1.463 tỉ đồng. Theo Bộ Tài chính, việc đầu tư ra nhiều ngành nghề bên ngoài lĩnh vực chính, trong khi tình trạng năng lực quản lý và ngân sách có hạn, sẽ ảnh hưởng đến năng lực tài chính và hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp, tác động đến việc quy hoạch và thực hiện chiến lược phát triển của từng ngành và ảnh hưởng đến chiến lược phát triển chung của nền kinh tế. Đặc biệt, việc đầu tư vốn vào các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm và mua bán cổ phiếu trên thị trường là những lĩnh vực nhạy cảm, thuộc thế mạnh của các tổ chức tài chính tín dụng, nên dễ mang lại những rủi ro đối với DNNN chưa có kinh nghiệm trong kinh doanh lĩnh vực này. Do đó, cần có mức khống chế đối với hoạt động đầu tư tài chính của công ty Nhà nước để hạn chế rủi ro và không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh chính.   Trong đề xuất mới đây lên Chính phủ, Bộ Tài chính cho rằng, để hướng các công ty Nhà nước tập trung nguồn lực thực hiện đầu tư đúng mục tiêu chiến lược, hạn chế việc đầu tư vốn vào những doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề không phải nhiệm vụ chính thì các công ty Nhà nước phải sử dụng tối thiểu 70% tổng nguồn vốn đầu tư vào các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực có ngành nghề kinh doanh chính (hoặc chủ yếu). Việc sử dụng vốn của DNNN để đầu tư tài chính, đầu tư vào TTCK phải không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN được Nhà nước giao. III. Kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư trong DNNN Những năm qua, các DNNN đã không ngừng đổi mới, nhanh chóng thoát khỏi tình trạng trông chờ, ỷ lại để vươn lên trong kinh tế thị trường. Nhiều DN không còn thua lỗ, nhiều DN và tập đoàn đã trưởng thành nhanh chóng, tạo ra vị thế vững chắc trên thương trường trong nước và quốc tế. DNNN đã làm ra 40% GDP và đang đóng vai trò quan trọng trong việc giữ vững định hướng của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, trong quá trình bươn trải, gần đây các DNNN đang gặp nhiều khó khăn, lúng túng và yếu kém trong quá trình chuyển đổi để thích ứng với môi trương kinh doanh mới. Sự lúng túng, yếu kém được bộc lộ ở nhiều lĩnh vực mà rõ rệt nhất là ở lĩnh vực xác định các định hướng đầu tư. Biểu hiện cụ thể nhất trong yếu kém đầu tư là đầu tư dàn trải, sử dụng kém hiệu quả nguồn vốn của nhà nước, nhiều DN đầu tư kinh doanh theo phong trào, không chăm chú đầu tư theo chiều sâu với thế mạnh tiềm năng vốn có của mình. Tình trạng các DN đua nhau kinh doanh tiền tệ, chứng khoán, ngân hàng, địa ốc... đã tạo ra những rối loạn đáng tiếc trong khu vực hàng hoá nhạy cảm này... 1. HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRONG DNNN Phần lớn các DNNN, sau khi chuyển sang công ty cổ phần đều hoạt động có hiệu quả hơn trước, tất cả các tiêu chí chủ yếu đều tăng: huy động vốn, doanh thu, nộp ngân sách, lợi nhuận, cổ tức, số lao động sử dụng, thu nhập của người lao động; nhiều DN sau cổ phần hóa làm ăn có hiệu quả đã tăng cường đầu tư máy móc, công nghệ mới, mở rộng nhà xưởng, quy mô sản xuất. Từ những kết quả đã đạt được, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đang tiếp tục giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô. Thời gian qua, hoạt động sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước vẫn đảm bảo kế hoạch. Sau 6 tháng đầu năm, doanh thu đã đạt 59% kế hoạch, lợi nhuận đạt 53% kế hoạch, nộp ngân sách đạt 67% kế hoạch. Trong đó 18 tập đoàn, tổng công ty 91 nộp ngân sách đạt 62.992 tỷ đồng, bằng 70% kế hoạch năm. Các tập đoàn, DNNN đã góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định giá cả, duy trì tăng trưởng, đẩy mạnh xuất khẩu làm giảm mạnh nhập siêu. Từ đó, bảo đảm cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu điện, xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc chữa bệnh, dịch vụ vận tải. Bên cạnh đó, cùng góp phần kiềm chế lạm phát, các DNNN đã thực hiện nghiêm việc cắt giảm đầu tư. 55 tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã cắt giảm đầu tư 1.445 dự án với tổng giá trị gần 34 nghìn tỷ đồng. Đồng thời tập trung đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm, công trình sắp hoàn thành đưa vào sử dụng. 2.KẾT QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRONG DNNN - DNNN được ưu đãi hơn so với các DN khác nhưng hiệu quả kinh doanh lại không đạt được như mong muốn Cộng đồng các DN đang hoạt động trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay được chia làm ba nhóm lĩnh vực chính, đó là nhóm DNNN, nhóm ngoài Nhà nước và nhóm DN có vốn FDI. Về cơ bản, tất cả các DN đều hoạt động trong môi trường bình đẳng, cùng chung hành lang pháp lý dần dần phù hợp thông lệ quốc tế, rõ nhất là Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư. Tuy nhiên, do quy mô khác nhau, năng lực quản trị điều hành, khả năng thích ứng và năng lực cạnh tranh khác nhau cho nên hiệu quả kinh tế cũng khác nhau. Theo nghiên cứu, dẫu được hưởng hầu hết mọi ưu ái, nhưng trong năm 2004, nộp ngân sách của các DN nhà nước chỉ tăng có 49%, trong khi đó, con số này của các DN ngoài quốc doanh là 137%. Báo cáo của Kiểm toán Nhà nước vừa qua cho thấy DNNN rất kém hiệu quả, thậm chí thua lỗ kéo dài, 4/19 đơn vị được kiểm toán kinh doanh thua lỗ trong năm 2004; 11/19 đơn vị có lỗ lũy kế với tổng lỗ luỹ kế đến hết 2004 là 1.058 tỉ đồng. - DNNN đầu tư nhiều, hiệu quả thấp Báo cáo kiểm toán Nhà nước đã khẳng định hiệu quả đầu tư trong DNNN còn thấp, thậm chí thua lỗ kéo dài, 4/19 (21%) đơn vị được kiểm toán, năm 2004 kinh doanh thua lỗ tới 124 tỷ đồng, 11/19 (58%) đơn vị có lỗ luỹ kế đến 31/12/2004 lên tới 1.058 tỷ đồng.Xếp ngôi vô địch lỗ là Tổng công ty Dệt may Việt Nam 328 tỷ đồng, kế đến là Tổng công ty Giấy gần 200 tỷ đồng, Tổng công ty lương thực miền Nam 183 tỷ đồng. Nhiều doanh nghiệp có số nợ phải thu khó đòi rất lớn mà cho đến nay vẫn chưa có giải pháp khắc phục hiệu quả như Tổng công ty Lương thực miền Nam hơn 156 tỷ đồng, Tổng công ty Chăn nuôi 101 tỷ đồng, Tổng công ty Xây dựng công nghiệp 46,7 tỷ đồng... Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của DNNN hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế… Chỉ tính riêng năm 2007, tổng đầu tư của toàn xã hội là hơn 461.900 tỷ đồng nhưng khu vực nhà nước chiếm 43,3%. Điều này cho thấy, nhà nước đang là nhà đầu tư áp đảo, dẫn dắt thị trường, cho nên mọi nhất cử nhất động của nhà nước đều tác động tới diễn biến của thị trường. - DNNN đầu tư ra ngoài ngành quá nhiều mà ngành kinh doanh chính vẫn chưa hoạt động tốt Trong thời gian qua, do cơ chế thị trường, các tập đoàn kinh tế nhà nước đều nhanh chóng “nhảy vào” các ngành nghề không phải chuyên môn chính của họ như: Chứng khoán, ngân hàng, bất động sản... Kết quả, dẫn đến hàng ngàn tỉ đồng đầu tư công không có hiệu quả và lãng phí gây ra áp lực lạm phát. Theo điều tra 200 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam do Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) thực hiện, đã khẳng định rằng nhiều công ty trong “Top 200” của Việt Nam, trong đó có các tập đoàn, đang đầu cơ đất đai và chứng khoán mà thiếu tập trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi của mình, khi đầu tư phân tán như vậy đã làm giảm năng lực cạnh tranh của các tập đoàn và đã để lại những hậu quả khó giải quyết. Hiện nay, để nâng cao hiệu quả đầu tư của các DNNN, Nhà nước đã thành lập Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước thành lập ngày 22/6/2008 viết tắt là SCIC đã giúp Nhà nước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong DNNN. Cụ thể là SCIC đang tìm nhà đầu tư chiến lược cho Bảo Minh, cho FPT và lo chuẩn bị đưa Vinamilk ra niêm yết trên TTCK quốc tế…SCIC sẽ tiến tới đầu tư và mời gọi đối tác làm một số dự án quan trọng như cảng biển, sân bay quốc tế hàng không. Cùng với đầu tư trong nước, SCIC sẽ tiến hành đầu tư bên ngoài. Bên cạnh đó, SCIC còn một nhiệm vụ rất quan trọng đó là tư vấn cổ phần hóa cho DN. Chương III: Giải pháp tăng cường vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư trong DNNN I. Một số giải pháp tăng cường vốn đầu tư Cần đổi mới chính sách của nhà nước nhằm thúc đẩy đầu tư có hiệu quả: Nền kinh tế thị trường là một bộ máy vận hành và thay đổi không ngừng. Nhất là trong nền kinh tế thị trường sự vận động đó càng phức tạp và cần có một bàn tay vô hình can thiệp nhằm đưa nó đi đúng hướng theo mục tiêu phát triển chung của Đất nước. Vì thế nhà nước cần một công cụ hữu hiệu để điều chỉnh, đó là các chính sách. - Đổi mới phương thức hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước. Tăng chi cho lĩnh vực là cần thiết, nhưng điều cần thiết hơn cả là phân bổ nguồn chi đó như thế nào để vừa hạn chế những lãng phí và vừa có thể kích thích, hỗ trợ các doanh nghiệp trong các trường hợp vượt quá khả năng của họ - Đổi mới chính sách và cơ chế ưu đãi của Nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Ưu đãi về thuế cần rõ ràng hơn, cần phải cho họ để lại tỷ lệ nào đó trong thuế giá trị gia tăng đưa vào quỹ đầu tư phát triển. Hay ưu đãi về tín dụng ngân hàng, ngoài việc quy định mức lãi suất thấp khi vay đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, còn phải quy định rõ ưu đãi về thứ tự xem xét giải quyết trước các khoản vay, giải ngân đúng hạn giúp các doanh nghiệp chớp được thời cơ thuận lợi, ưu đãi về thời hạn cho vay theo yêu cầu của doanh nghiệp, cũng có thể đưa ra chế độ khuyến khích các ngân hàng thương mại liên kết với các doanh nghiệp thông qua góp vốn và phân chia lợi nhuận - Đổi mới cơ chế trích khấu hao tài sản cố định (TSCĐ) và cơ chế trích lập và sử dụng quỹ đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước. Chỉ nên quy định thời hạn tối đa và mức trích khấu hao TSCĐ tối thiểu, khuyến khích doanh nghiệp trích khấu hao nhanh nếu như doanh nghiệp có khả năng, trích khấu hao theo tỷ lệ giảm dần... Nếu TSCĐ đã trích đủ khấu hao mà vẫn sử dụng bình thường thì doanh nghiệp thực hiện đánh giá lại giá trị thực tế của TSCĐ và khấu hao bổ sung, khoản này được đưa vào quỹ đầu tư phát triển của doanh nghiệp 2. Huy động nguồn vốn có hiệu quả: 2.1 Vốn bên trong DNNN: Vốn từ ngân sách Nhà nước(NSNN): NSNN là một khâu tài chính giữ vị trí chủ đạo. vai trò của NSNN được đề cập trên nhiều khía cạnh như: kích thích tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và ổn định giá cả, chống lạm phát …Xét trên góc độ các DNNN, vốn từ NSNN đóng vai trò cơ sở, nền tảng để phát triển doanh nghiệp. Chi cho đầu tư của NSNN là quá trình sử dụng một phần vốn tiền tệ đã tạo lập thông qua hoạt động thu của NSNN. Những khoản chi này dùng để đầu tư xây dựng cơ bản ( xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, các công trình thuộc cơ sở vật chất của các DNNN…) thông qua phương thức cấp phát tín dụng của Nhà nước, cấp phát vốn bổ sung lưu động cho các doanh nghiệp. Để nhận được các khoản đầu tư từ NSNN cần phải có những dự án phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội tronh từng giai đoạn , phát huy lợi thế so sánh giữa các ngành, hoạch định các dự án mang tính khả thi, hiệu quả cao mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và lợi ích cho toàn xã hội. -Vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước: Nguồn vốn tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể bao cấp trực tiếp của Nhà nước. Các DNNN có thể vay vốn từ nguồn tín dụng để mở rộng sản xuất kinh doanh nghiệp phải đảm bảo hoàn trả vốn vay. Vì thế chủ đầu tư phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, thời hạn đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Các DNNN cần phải phối hợp tốt với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để có thể nhanh chóng phê duyệt việc xin vốn. - Vốn từ hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN: Lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN là nguồn vốn không nhỏ cho việc tái đầu tư phát triển sản xuất của DNNN. Nguồn lợi nhuận này làm giảm gánh nặng chi tiêu cho NSNN đồng thời các doanh nghiệp cũng chủ động trong việc cung ứng vốn. Các DNNN cấn tăng cường hạch toán kinh doanh một cách thường xuyên và nghiêm túc: Quản lí chặt chẽ các khoản mục chi phí, quản lí tốt việc mua sắm máy móc thiết bị, nguyên vật liệu. Quản lí tốt việc sử dụng vốn, hạn chế tối đa việc sử dụng lãng phí và không đúng mục tiêu các nguồn lực, dự báo thị trưòng, kí các hợp đồng cung ứng dài hạn nhằm giảm rủi ro về biến động giá của thị trường. Đối với các máy móc cũ cần thanh lý, nhương bán, cho thuê tránh gây lãng phí trong sư dụng vốn. Biện pháp này nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận. Tiến hành trích khấu hao tài sản cố định ở mức cao nhất có thể mà vẫn đảm bảo có lãi. Đối với DNNN, mức tính khấu hoa tài sản cố định khoảng 20% là hợp lý và được hạch toán vào nguồn vốn của nhà nước. Vốn từ các chủ thể sở hữu: Để thực hiện tốt hơn công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, khai thác, thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước và xã hội, theo chúng tôi cần thực hiện một số giải pháp sau đây: - Một là, đẩy mạnh hơn nữa cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, coi cổ phần hóa là giải pháp quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hóa, triển khai việc cổ phần hóa Nhà nước giữ cổ phần chi phối đối với tổng công ty và doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9, khóa IX - Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách cổ phần hóa, tạo lập môi trường pháp lý để khuyến khích, thúc đẩy cổ phần hóa và đa dạng hóa hình thức sở hữu. Có cơ chế và phương pháp định giá doanh nghiệp khoa học, hợp lý, thực hiện định giá qua các tổ chức chuyên nghiệp đủ uy tín, năng lực, bảo đảm thực hiện nguyên tắc thị trường quyết định giá trị tài sản của doanh nghiệp, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất. Đẩy mạnh công khai việc mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán theo phương thức đấu giá để thu hút các nhà đầu tư có tiềm năng về vốn, công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý. - Ba là, hoàn thiện cơ chế quản lý phần vốn của Nhà nước tại các công ty cổ phần, tiêu chuẩn người trực tiếp quản lý phần vốn của Nhà nước; làm rõ mối quan hệ giữa tổ chức cơ sở của Đảng - Hội đồng quản trị - Giám đốc doanh nghiệp trong công ty cổ phần, đặc biệt là về vấn đề tổ chức cán bộ. - Bốn là, tổng kết và phổ biến kịp thời kinh nghiệm công tác cổ phần hóa. Thực tế cho thấy, thông qua các cuộc họp, hội thảo khoa học, những đợt tổng kết các thời kỳ và nội dung cổ phần hóa trong thời gian qua, chúng ta đã thu được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước đã có những điều chỉnh kịp thời về môi trường pháp lý, kiện toàn công tác tổ chức và đưa ra các quyết sách lớn trong quá trình chỉ đạo cổ phần hóa. Đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa và trong diện cổ phần hóa trong thời gian tới, việc tổng kết, trao đổi kinh nghiệm sẽ giúp các doanh nghiệp học tập những kinh nghiệm thành công và tránh mắc phải các hạn chế của các doanh nghiệp đi trước -Thực hiện chính sách tích tụ và tập trung vốn: DNNN có thể huy động vốn qua hình thức liên kết kinh tế. Liên kết kinh tế là hình thức phối hợp hoạt động kinh doanh trong một lĩnh vực nào đó nhằm mục đích khai thác tốt, hiệu quả nhất tiềm năng thế mạnh của mỗi bên tham gia vào mối quan hệ liên kết. Việc tăng cường liên kết có thể thực hiện theo hướng sau: Một là tăng cường liên kết với các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất, cung ứng nguồn nguyên liệu, những doanh nghiệp có tiềm lực về vốn. Việc tăng cường liên kết này một mặt tạo điều kiện các doanh nghiệp sản xuất trong nước phát triển, mặt khác tạo nguồn nguyên liệu ổn định, đảm bảo về mặt chất lượng cũng như khối lượng một cách lâu dài và có chủ động cho doanh nghiệp. DNNN cần có quan hệ chặt chẽ với các đơn vị sản xuất nguyên vật liệu cung cấp cho doanh nghiệp. Hai là tăng cường liên kết với nước ngoài đặc biệt là mở rộng hợp tác quốc tế -Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN: + Từng bước tạo lập môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tách bạch rõ chức năng quản lí nhà nước, quản lí các chủ sở hữu với chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp, xóa bỏ cơ chế chủ quản, phân định rõ quyền của các cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng đại diện sở hữu đối với DNNN, cơ cấu lại vốn và tài sản tồn đọng, kiên quyết và khẩn trương xóa bỏ tình trạng bao cấp, bảo hộ bất hợp lí, đặc quyền và độc quyền trong kinh doanh của DNN + Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lí về đổi mới DNNN, trong đó phân định rõ chức năng quản lí của nhà nước và doanh nghiệp, nhất là các quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp; 2.2 Vốn bên ngoài DNNN: Vốn tín dụng ngân hàng: Để đẩy mạnh phát triển quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các DNNN, cần thiết thực hiện các giải pháp sau đây: Một là, nâng cao chất lượng thông tin tài chính của các DNNN. Các DNNN cần quan tâm đầu tư đúng mức xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu quả, tổ chức hệ thống thông tin tài chính trung thực, khách quan và minh bạch. Ngoài việc vận dụng báo cáo tài chính, một trong những phương án khả thi là xây dựng hệ thống báo cáo nhanh bao gồm các chỉ tiêu thể hiện rõ khả năng thanh toán của các doanh nghiệp. Những chỉ tiêu này có thể dựa trên một phạm vi hẹp trên cơ sở đánh giá khả năng sinh lời, các tài sản kinh doanh và tài sản cá nhân. Hai là, các DNNN cần tăng cường nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, tăng cường các hoạt động dịch vụ tư vấn, đặc biệt là tư vấn của ngân hàng trong việc nghiên cứu xây dựng các dự án, các phương án sản xuất - kinh doanh. Các dự án và phương án sản xuất - kinh doanh có tính khả thi và tính hiệu quả là cơ sở quan trọng cho việc quyết định vay vốn của ngân hàng; đồng thời, sự tư vấn của ngân hàng là cơ hội nâng cao khả năng làm chủ các dự án kinh doanh và qua đó, tạo cơ hội cho các ngân hàng tìm hiểu các nguồn thông tin thực tế của doanh nghiệp. Ba là, các ngân hàng cần tiếp tục cải tiến, hoàn thiện các thể lệ, quy chế, quy trình tín dụng, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trên cả hai mặt của quá trình hoạt động là huy động vốn và cho vay vốn trên cơ sở vốn đã huy động được. Đồng thời, các ngân hàng cần đa dạng hoá các phương pháp tiếp cận doanh nghiệp như việc tiếp xúc trực tiếp hoặc sử dụng internet, nhằm gia tăng khả năng thu thập thông tin và giảm thiểu rủi ro các khoản cho vay của doanh nghiệp. Bốn là, tăng cường nhận thức của các nhân viên ngân hàng về mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các DNNN, để họ thấy được đó là quan hệ tác động qua lại trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh. Cần nhận thức rằng, những tồn tại, yếu kém trong mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp không chỉ về phía các doanh nghiệp, mà còn về phía các ngân hàng. Vốn tín dụng thương mại: Tín dụng thương mại được tạo lập từ quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, thực hiện dưới hình thức bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp hàng hoá. Trong doanh nghiệp nguồn lực thương mại chiếm 20-40% tổng nguồn vốn. Đây là hình thức trợ linh hoạt tiện dụng trong kinh doanh , tạo khả năng mở rộng hợp tác kinh doanh lâu dài, giúp doanh nghiêp chủ động khi huy động vốn, chủ động về thời gian, số lượng nhà cung ứng; huy động vốn nhanh chóng, dễ dàng; không chịu sự giám sát của ngân hàng hay cơ quan nhà nước. Các DNNN cần tăng cường các mối quan hệ, hợp tác với nhau, đôi bên cùng có lợi. Đồng thời tăng cường đa dạng hoá các hình thức tín dụng thương mại. Vốn từ thị trường bất động sản: Thị trường bất động sản góp phần quan trọng trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển. Quỹ đất trong DNNN là có sẵn do nhà nước cấp để tạo mặt bằng, cơ sở cho sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên hiện nay, việc mở rộng sản xuất kinh doanh ngày càng đáng kể và việc thành lập thêm các doanh nghiệp cũng phát triển nhanh chóng khiến việc tìm kiếm cơ sở để kinh doanh trở nên khó khăn. Nhưng đây cũng là một nguồn lực để gia tăng vốn cho các DNNN + Tổ chức, sắp xếp lại bộ máy sản xuất kinh doanh cho phù hợp. Có thể giảm bớt các khâu không cần thiết, sử dụng nhiều máy móc thiết bị hiện đại nhằm tối thiểu hóa diện tích sử dụng sản xuất. + Tận dụng tối đa nguồn bất động sản thừa không sử dụng để cho các doanh nghiệp khác thuê. + Khi cần vay vốn cho sản xuất kinh doanh,doanh nghiệp có thể thế chấp bất động sản để vay vốn từ ngân hàng. Điều này chẳng những làm nhân đôi giá trị sử dụng của bất động sản mà còn có tác dụng khai thác nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư phát triển. + DNNN có thể dùng quyền sử dụng đất góp vốn liên doanh. Bất động sản như nguồn mới để khai thác các nguồn vốn khác. Nguồn vốn từ thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn được nhiều DN áp dụng và thực tế nó đã giúp các doanh nghiệp giải được bài toán khó về vốn. Để làm được điều này doanh nghiệp cần phải: + Đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa DNNN. Sau cổ phần hóa thì thị trường chứng khoán có vai trò quan trọng trong sự phát triển của DN. Đây là một yếu tố đặc biệt quan trọng góp phần tạo nên hiệu quả hoạt động của DN. + Ban lãnh đạo DN phải phát huy tối đa vai trò và khả năng trong điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho đạt được hiệu quả sử dụng đồng vốn tối đa. Cùng với việc điều hành những hoạt động hiện có, HĐQT  doanh nghiệp cũng luôn phải năng động trong việc hoạch định chiến lược lâu dài, triển khai thực hiện đúng lúc và nắm bắt kịp thời những cơ hội đem lại nguồn lợi cao nhất cho các cổ đông. II. Giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động đầu tư trong DNNN 1. Tăng cường giám sát , quản lý vốn đầu tư, hoat động đầu tư của các doanh nghiệp Khi một dự án được chinh thức cấp vốn, khi đó DN sẽ sử dụng vốn để tham gia vào các hoạt động đã được trình trong dự án. Nhưng việc DN đó sử dụng nguồn vốn có đúng với mục đích, chức năng và yêu cầu như đã đề ra hay không còn là một vần đề. Cần thành lập những bộ phận , những cơ quan chuyên về quản lý vấn đề giam sát và quản lý vốn thật hiệu quả. Mặt khác, chúng ta cũng cần thực hiện các biện pháp : - Nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ các bộ quản ký điều hành - Sửa đổi bổ sung cơ chế chính sách phù hợp với quá trình sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước - Khuyến khích hình thức thuê người quản lý điều hành, đồng thời gắn hiệu quả sử dụng đồng vốn với quyền hạn và nhiệm vụ thông qua hợp đồng kinh tế. -Tăng cường quản lý ,giám sát, phần vốn được đầu tư: ban hành các cơ chế giám sát, thực hiện rà soát một cách nghiêm ngặt, có hiệu qủa - Thực hiện công khai minh bạch và tuân thủ nghuyên tắc thị trường trong quá trình hoạt động đầu tư - Nhà nước cần sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cơ chính trong việc quản lý vốn đầu tư tại các DNNN 2 . Kiện toàn công tác tổ chức quản lý thực hiện đầu tư, tăng cường công tác kiểm tra chất lượng công trình và chi phí xây dựng Để đảm bảo đầu tư đúng định hướng phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của ngành và lãnh thổ nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cần đổi mới tổ chức quản lý và chính sách đầu tư theo các chương trình dự án. Tất cả các chương trình dự án đầu tư phải tuân thủ nghiêm ngặt trình tự đầu tư theo quy định. Công tác kế hoạch hóa phải hướng vào thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ đã xác định của chiến lược, bám sát nội dung quy hoạch phát triển ngành, vùng và toàn bộ nền kinh tế. trên cơ sở chiến lược phải xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn, trung hạn để làm cơ sử xây dựng các chương trình mục tiêu cho việc bố trí các dự án vào kế hoạch đầu tư hàng năm. Cần chú trọng kiểm tra giám sát chất lượng công trình, dự án, các cân đối lớn, dự báo khả năng và xu hướng phát triển làm cơ sở cho việc đề ra các mục tiêu kinh tế, các chính sách, giải pháp phân bổ nguồn lực, nâng caao chất lượng xây dựng thẩm định dự án. Thực hiện đầu tư dứt điểm cho từng công trình dự án đầu tư của bất kỳ nguồn vốn nào theo nguyên tắc cân đối đủ vốn để hoàn thành công trình dự án đúng tiến độ đã được phê duyệt. Trong quá trình thực hiện cần làm tốt công tác giám định, kiểm tra chất lượng công trình và chi phí xây dựng bằng cách: Quy đinh cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của các ngành chủ quản, kế hoạch, tài chính, xây dựng, ngân hàng, tổ chức tín dụng và cơ quan giám định công trình về phần việc của mình để có cơ sở xử lý khi bị vi phạm về chất lượng, giá cả dẫn đến thất thoát lãng phí Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm để ngăn chặn sự tiếp diễn và thu hồi những thất thoát lãng phí tiền của tài sản. Quy định rõ hình thức và nội dung xử lý các vi phạm làm thất thoát lãng phí vốn tài sản, vật tư trong từng khâu vận hành thực hiện dự án đầu tư cảu chủ quản đầu tư, ban quản lý dự án và các đơn vị nhận thầu… Cần có những quy định rõ ràng về quyền hạn trách nhiệm của chủ đầu tư, ban quản lý dự án, nhà thầu, cơ quan thiết kế đối với công tác nghiệm thu khối lượng, áp giá để xác định phiếu giá thanh toán trong từng lần thanh toán, nghiệm thu tưng phần và tổng nghiệm tu khi dự án hoàn thành. Nhìn chung thực hiện đồng bộ các giải pháp quản lý nêu trên sẽ có tác dụng tích cực để ngăn ngừa, chống lãng phí thất thoát lãng phí trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng. 3. Đầu tư có trọng điểm , tránh dàn trải gây thất thoát lãng phí Cùng một mục tiêu kinh tế nhưng cũng cần sự xem xét khi lựa chon dự án. Chúng ta thấy rằng một yếu tố ảnh hưởng lớn tới hiệu quả đầu tư chính là tình trạng đầu tư quá dàn trải,kéo dài . Cơ chế chính sách liên quan đến quản lý đầu tư và xây dựng chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ và thường xuyên thay đổi gây ra sự bị động, lúng túng trong xây dựng và điều hành kế hoạch đầu tư. Đôi khi sự đầu tư do chủ trương sai, đầu tư theo phong trào, mệnh lệnh, không tính toán kỹ về các điều kiện tự nhiên và xã hội, thiếu các phân tích tài chính, thông tin chưa đầy đủ,thiếu tính minh bạch và công khai Chính vì vậy để chấm dứt tình trạng đầu tư phân tán , dàn trải , không đồng bộ, trong công tác lập kế hoạch đầu tư hàng năm , các doanh nghiệp phải tuân thủ đúng quy hoạch phát triển ngành và vùng lãnh thổ. Ngoài ra các doanh nghiệp cần xây dựng một hệ thống thông tin đầy đủ và chính xác, có những phân tích nhạy bén và phù hợp, dáp ứng nhu cầu đầu tư , cơ hội đầu tư. DNNN cũng cần nghiêm túc thực hiện quy định hiện hành của nhà nước về quy chế quản lý đầu tư và xây dựng.Việc bố trí kế hoạch vốn đầu tư hàng năm của doanh nghiệp nên ưu tiên cho các dự án công trình đang triển khai dang dở , thực hiện đầu tư đồng bộ, dứt điểm . 4. Xây dựng chiến lược đầu tư đúng hướng, sử dụng vốn tiết kiệm có hiệu quả. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của một DN trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc rất lớn vào hoạt động tài chính, hoạt động đầu tư của DN. Do đó: DN cần xây dựng một kết cấu tài sản hợp lý: kết cấu tài sản tùy thuộc vào đặc thù kinh doanh của từng DN. Do đó, DN cần xây dựng một cơ cấu tài sản tối ưu, phù hợp với đặc thù ngành nghề kinh doanh của DN. Tăng tốc độ chu chuyển vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản. Thường xuyên cập nhật khoa học kỹ thuật, chú trọng đổi mới trang thiết bị, tận dụng tối đa công suất máy móc, thiết bị, hợp lý hóa môi trường công nghệ.. Sử dụng đúng các chức năng của quỹ dự phòng tài chính, trích trước chi phí dự phòng, giảm giá các khoản đầu tư tài chính. Cân nhắc thận trọng khi đầu tư đổi mới tài sản cố định, thực hiện biện pháp đánh giá đúng giá trị tài sản cố định, lựa chọn phương pháp khấu hao thích hợp, mức khấu hao thích hợp không để mất vốn, hạn chế tối đa ảnh hưởng của hao mòn vô hình. Sau mõi kỳ kinh doanh DN cần tiến hành phân tích đánh giá tình hình sử dụng tài sản cố định vào vốn, kiểm kê tài sản cố định, mọi trường hợp phát hiện thừa, thiếu đều phải lập biên bản tìm nguyên nhân và có biện pháp xử lý.. DN có thể áp dụng các biện pháp tăng tốc độ vốn lưu động như: áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm, sớm đưa nguyên vật liệu và chế biến. Như vậy vấn đề sử dụng vốn tiết kiệm có hiệu quả vốn kinh doanh được coi là giải pháp nóng, nhằm khắc phục tình trạng thất thoát vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản do lãng phí, tham ô tham nhũng và hiệu quả sử dụng vốn thấp. Việc tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có tầm quan trọng và tính khả thi hơn là biện pháp tăng vốn. Vì vậy các DNNN cần phải tich cực thực hiện các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển. 5. Nâng cao hiệu quả đầu tư vào tài sản cố định * Về phía Nhà nước. - Cần có chính sách rõ ràng trong việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Bởi vì đó là một yếu tố rất quan trọng đối với các DN trong việc lựa chọn địa điểm đầu tư. Cơ sở hạ tầng tốt sẽ giúp DN giảm chi phí trong việc vận chuyển nguyên vật liệu tới nơi sản xuất và vận chuyển hàng hoá tới thị trường tiêu thụ. - Nhà nước cần hỗ trợ cho các DN trong công tác giải phóng mặt bằng. Bởi vì dây là một công việc gây tốn kém cả về thời gian và chi phí đối với các DN. Nhất là đối với các khu vực có dân cư sinh sống. Vì vậy Nhà nước cần hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp trong việc giải phóng mặt bằng tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện dự án. - Tạo mọi điều kiện để xây dựng một thị trường thông tin về giá cả máy móc, thiết bị hợp lý, tránh tình trạng DN mua máy với giá quá cao. Đặc biệt là có được những chưyên gia giỏi nhằm tránh tình trạng các DN trở thành bãi rác của thế giới. - Có cơ chế tín dụng hợp lý, thủ tục hành chính gọn nhẹ nhằm giúp các doanh nghiệp có thể vay vốn đầu tư một cách dễ dàng. Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ các DN trong hoạt động này, như ưu đãi thuế, mở ra các cơ hội tiếp cận vốn, hình thành các trung tâm nghiên cứu, lựa chọn, phát triển và chuyển giao công nghệ phù hợp với DN, cập nhật và phổ biến thông tin công nghệ, thiết lập các hoạt động dịch vụ khoa học-công nghệ theo nguyên tắc thị trường… * Về phía các DN - DN cần phải lựa chọn địa điểm đầu tư phù hợp với dự án sao cho chi phí vận chuyển là nhỏ nhất đồng thời thuận lợi cả về điện nước, thông tin liên lạc. - Cần tận dụng các hình thức tín dụng trên thị trường để có thể huy động vốn đủ cho việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ dự án. - Cần tìm hiểu thông tin về máy móc thiết bị tránh mua phải máy móc thiết bị quá lạc hậu hoặc không phù hợp với sản phẩm có thể sẽ gây lãng phí hoặc dẫn đến thất bại. - DN cần chú ý đến đội ngũ nhân công khi mua máy móc thiêt bị về. Tránh tình trạng công nhân không biết sử dụng công nghệ. Đội ngũ nhân công phải lành nghề và có chuyên môn để có thể sử dụng máy móc một cách hiệu quả nhất 6 . Nâng cao hiệu quả đầu tư vào nguồn nhân lực Phục vụ cho nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của các DNNN trong giai đoạn hiện nay thì việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cần thiết. Đầu tư vào con người cũng là quá trình đầu tư phát triển. Để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người lao động, các DN cần xây dựng chiến lược đào tạo và phát triển theo cơ cấu, số lượng công nhân hợp lý. Cần đưa ra các những biện pháp cụ thể về đào tạo theo cơ cấu, số lượng công nhân lành nghề, theo yêu cầu trang thiết bị và áp dụng công nghệ hiện đại, tránh lãng phí và ngược lại , không để tình trạng thiếu công nhân lành nghề. Phải nâng cao trình độ, năng lực kinh doanh, điều hành, quản lý của doanh nghiệp, nhất là nâng cao năng lực điều hành và kinh nghiệm kinh doanh của giám đốc,trình độ tay nghề của người lao động , trình độ và kiến thức về tiếp thị , tiếp thu khoa học – kĩ thuật , trình độ công nghệ thông tin , chú trọng những sáng kiến cải tiến của người lao động ở các khâu khác nhau trong hoạt động của DN. - Thứ nhất, thực hiện đào tạo và tái tạo nguồn lao động. Đào tạo và tái tạo lại nguồn lao động, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề cho người lao động là yêu cầu tất yếu của sự phát triển. Để công tác đào tạo có hiệu quả thì cần phân loại lao động theo trình độ, theo lứa tuổi , năng lực, sở trường… Từ đó đưa ra các chính sách đào tạo phù hợp với từng chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận. Việc thực hiện đào tạo đội ngũ cán bộ, đội ngũ lãnh đạo của công ty, các cán bộ về quản trị, quản lý kinh tế, hạch toán, …là 1 trong các mục tiêu đào tạo trọng điểm nhất hiện nay. Cần đào tạo 1 đội ngũ cán bộ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong công việc. Đặc biệt, hàng năm có kế hoạch tổ chức cử các cán bộ đi đào tạo trong và ngoài nước , tham dự các buổi tập huấn quan trọng, tích lũy kinh nghiệm của người đi trước cung như luôn có đội ngũ có kiến thức bắt kịp thời đại. Hiện nay lực lượng lao động trẻ đông đảo, có trình độ nhưng do sụ đào tạo của hệ thống các trường cao đẳng, đại học, các trường nghề còn đào tạo chủ yếu la dựa trên lý thuyết nên khi các doanh nghiệp sử dụng lao động cần mất 1 khoảng thời gian tiến hành đào tạo lại. Chính vì vậy các DN có thể chủ động đặt hàng nhà đào tạo, tiết kiệm thời gian và có một nguồn nhân lực đồi dào, phù hợp với yêu cầu công việc Riêng đối với đội ngũ giám đốc, đội ngũ cán bộ chủ chốt thì cần đào tạo một cách bài bản , hệ thống về cách tổ chức, kinh doanh, về pháp luật kinh tế, về tiền tệ tài chính… để họ có đủ năng lực , phẩm chất, chuyên môn, có thể quản lý và lãnh đạo tập thể. DNNN thiếu rất nhiều cán bộ có khả năng quản lý, trình độ chuyên môn phù hợp với sự phát triển của thị trường trong ngoài nước. Một trong những biện pháp được sử dụng nhiều trong hệ thống DN đó là thuê giám đốc điều hành, đó là những người có đủ chuyên môn, làm việc có hiệu quả. Điều bất cập là DNNN dù rất mong muốn nhưng không thể phá vỡ quy định để có chế độ thu nhập riêng cho các chuyên gia giỏi. Trong khi đó, các doanh nghiệp tư nhân, các nhà đầu tư nước ngoài lại có thể chủ động làm việc đó và họ sẵn sàng chi tiền để "đón" những chuyên gia giỏi có kiến thức, kinh nghiệm và cả những mối quan hệ từ các DNNN. Vì thế, động lực của hầu hết các trường hợp ra đi là vì lý do thu nhập Nhiều chuyên gia đã nhận định rằng, việc Chính phủ cho các DNNN được ký hợp đồng thuê CEO sẽ giúp cho doanh nghiệp tự chủ hơn trong việc lựa chọn những người có tài và phù hợp ngồi vào vị trí điều hành, mở đường cho hàng loạt các DNNN khác đi theo hướng này. - Thứ hai, các DN nâng cao chất lượng tuyển dụng. Việc đào tạo, tái tạo lao động chỉ có hiệu quả tức thời. Cần có một lớp cán bộ, công nhân mới thay thế về sau. DN cần lựa chọn đội ngũ lao động mới đủ trình độ, có khả năng học hỏi và tiếp thu nhanh. Việc tuyển chọn cần công khai, rõ ràng, tránh tình trạng “con ông cháu cha”, tuyển dụng lao động kém hiệu quả. Những phương pháp tuyển chọn có thể là phỏng vấn, trắc nghiệm, kiểm tra kiến thức liên quan tới công việc tuyển dụng. Một phương pháp cũng đang được nhiều DN sử dụng đó là sử dụng công cụ, gọi là thước đo tư duy. Đó là bài kiểm tra đánh giá về 3 khía cạnh : “các quan hệ với con người, phong cách ý tưởng,cảm nhận và cảm xúc”, tìm ra điểm phù hợp giữa những kỹ năng, kiến thức và khả năng đáp ứng công việc của tùng ứng viên , DN phải hiểu rõ thế mạnh của người lao động, từ đó có sự bố trí công việc phù hợp. Việc tuyển chọn đúng người, đúng việc, đúng vị trí, thời gian sẽ tạo sự hài lòng của mỗi người lao động khi thực hiện công việc, đồng thời tăng năng suất lao động, tăng kết quả kinh doanh và đồng thời tăng thu nhập của người lao động, kích thích sự sáng tạo, nâng cao kết quả kinh doanh. - Thứ ba, DN phải tăng cường đánh giá công tác thực hiện công việc, nhằm tạo động lực lao dộng và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Bản tiêu chuẩn thực hiện công việc chính là sự đánh giá khách quan và công bằng, tạo ra niềm tin của người lao động, kích thích họ làm việc tích cực hơn. - Thứ tư, DN phải thông qua cơ chế tiền lương , tiền thưởng để khuyến khích người lao động học tập, đóng góp sáng kiến để nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Lương và thu nhập cho người lao động phải thực sự là đòn bẩy kích thích người lao động để họ mang hết quyết tâm nhiệt huyết phục vụ cho sự phát triển của doanh nghiệp. Không được vi phạm nguyên tắc phân biệt đối xử về tiền lương. Nghĩa là các loại hình DN phải có quan hệ rất bình đẳng với nhau về trả lương. Ngoài ra, các DN có thể thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa, vui chơi, giải trí, thi đua chất lượng, năng suất làm việc, cải thiện đời sống tinh thần của người lao động 7. Tăng cường đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và triển khai công nghệ Hệ thống DN nước ta rất yếu kém về công nghệ và kỹ thuật, quy mô đầu tư nhỏ, khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân kém. Để tăng khả năng cạnh tranh của DN thì đầu tư vào công nghệ là điều không thể thiếu. - Phát triển mạnh thị trường KHCN, thúc đẩy các DN ứng dụng công nghệ cao. Để đạt được hiệu quả thì nhà nước cần có một số chính sách để thực sự KHCN là hàng hóa, có thể dễ dàng thay đổi những công nghệ mới trong thời gian ngắn nhất. Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ,hợp đồng khoa học công bố… thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ. Kết hợp với các chính sách khuyến khích sự quan tâm tới lĩnh vực khoa học kĩ thuật, nghiên cứu triển khai công nghệ, có sự đầu tư đúng đắn và phù hợp với nhu cầu thực tại của đất nước. Ưu tiên phát triển các ngành công nghệ cao , trước hết là công nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa. Đồng thời tổ chức thường xuyên, tài trợ cho các cuộc thi về khoa học, đào tạo nhân tài và các dự án đem lại hiệu quả trong tương lai. Đặc biệt đối với họ cần có sự ưu đãi và các đãi ngộ, chính sách tiền lương tiền thưởng đặc biệt, tránh tình trạng chảy máu chất xám Các DN có thể sử dụng triệt để nguồn ngân sách nhà nước trong hoạt động phát triển công nghệ. Đầu tư có trọng điểm vào một số dự án với công nghệ cao, tạo sự bứt phá trong sản phẩm, trong hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh DN. 8. Đầu tư vào hoạt động marketing, nâng cao thương hiệu , mở rộng thị trường Trong giai đoạn hiện nay thì hoạt động đầu tư vào marketing, đầu tư phát triển thương hiệu cũng là một trong những hoạt động không thể thiếu. Đó dường như đã là một cuộc chạy dua vô hình đối với hầu hết mọi công ty, mọi tổ chức, quyết định sự thành công và khả năng phát triển của bất cứ DN nào. DN cần lựa chọn cho mình một mô hình đầu tư,thương hiệu hợp lý, phù hợp với chủng loại hàng hoá kinh doanh và điều kiện thực tiễn của doanh nghiệp về tài chính, nhân lực và thị trường. Từ đó xây dựng chiến lược tổng thể về xây dựng và phát triển thương hiệu -Với các DN có khả năng và quy mô tài chính lớn hoặc các Tông công ty, chiến lược thương hiệu cần tập trung vào khai thác lợi thế về quy mô DN, khả năng chiếm lĩnh thị trường , tích cực tham gia các sự kiện và tận dụng triệt để các phương tiện truyền thông để quang bá hình ảnh. - Với các DN nhỏ, hạn chế nhiều về tài chính và nhân lực thì chiến lược về thương hiệu cần tập trung khai thác thị trường ngách. Nên khai thác các phương tiện quảng bá với chi phí thấp như quảng bá trên báo, tạp chí hoặc internet… . Tiến hành đăng kí ngay cả nhãn hiệu trong nước và quốc tế. Theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, trong số những người cùng nộp đơn cho một nhãn hiệu , quyền bảo hộ được dành cho người nộp đơn sớm nhất. Vì vậy để giữ cho nhãn hiệu hàng hoá của mình không bị đánh cắp cần đăng kí nhãn hiệu càng sớm càng tốt. DN có thể thông qua Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam để được giúp đỡ đăng kí thương hiệu hoặc nhãn hiệu theo nhóm hoặc theo Công ước Madrid. DN không nhất thiết phải áp dụng cùng lúc 3 cách đăng kí mà nên linh hoạt sử dụng nhằm tạo hiệu quả kinh tế cao nhất đồng thời bảo đảm mục tiêu bảo hộ quyền sử hữu trí tuệ 9. Nhà nước giảm sự can thiệp, ưu tiên đối với các DNNN, coi DNNN cũng bình đẳng như các DN khác trong hệ thống DN Từ trước tới nay, các hoạt động của DNNN luôn được đặt dưới sự bảo trợ của nhà nước. Nhiều ngành, nhiều lĩnh vực có thể thấy sự cản trợ, sự cạnh tranh không bình đẳng của các DN nhờ những ưu đăi của nhà nước, những lợi thế độc quyền của họ. Hoạt động của DNNN và những người điều hành nó phụ thuộc vào rất nhiều cơ quan, đơn vị, nhóm lợi ích khác nhau. Chính việc thường xuyên phải dung hoà để làm hài ḷòng các nhóm lợi ích mà mục tiêu quan trọng nhất của DN là lợi nhuận có thể bị đẩy xuống thứ yếu. Khi DN rơi vào hoàn cảnh khó khăn, dưới tác động của những nhóm lợi ích nêu trên làm nhà nước buộc phải ra tay cứu giúp. DNNN hoạt động kinh doanh kém hiệu quả.Tuy đă nhận được rất nhiều ưu ái từ nhà nước, nhưng hoạt động của các DNNN không mang lại hiệu quả và đóng được vai tṛò như mong đợi. Với những cơ chế đặt ra cho các DNNN, hoạt động của nó thường là gánh nặng cho nền kinh tế hơn là một động cơ chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Chính vì vậy cách duy nhất để các DNNN có thể tự đứng vững trên đôi chân của mình đó là hạn chế tối thiểu sự can thiệp của nhà nước vào bộ máy quản lý cung như mọi ưu đãi mà nhà nước dành riêng cho DN, thực hiện cổ phần hóa DN, hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào nguồn vốn của DN. Để có thể tồn tại và phát triển thì DNNN sẽ phải tự thay đổi, nâng cao sức cạnh tranh của mình. KẾT LUẬN Trên đây là những vấn đề mà nhóm 12 chúng em trình bày về: Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.Phân tích tình hình của hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng trong quá trình làm bài chúng em cũng không tránh được nhiều sai sót do hạn chế về kiến thức cũng như về thông tin số liệu thực tế. Do vậy chúng em rất mong nhận được sự đóng góp thầy để chúng em có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về vấn đề đang nghiên cứu. Cuối cùng chúng em xin cảm ơn thầy đã giúp đỡ chúng em thực hiện đề tài này.Nhờ đó chúng em có cơ hội tiếp cận nhiều vấn đề rất mới mẻ trong quá trình thực hiện đề tài.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNội dung cơ bản của đầu tư phát triển trong Doanh nghiệp Phân tích tình hình đầu tư của hệ thống Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN).doc
Luận văn liên quan