Phân tích Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng cho vay xoá đói giảm nghèo

Tuy chỉ mới đi vào hoạt động trong khoảng thời gian là 10 năm nhưng Phòng giao dịch NHCSXH huyện Quan Hoá đã khắc phục mọi khó khăn, triển khai có hiệu quả một khối lượng công việc khá lớn, được chính quyền các cấp ghi nhận, đánh giá cao và tạo dựng được lòng tin với quần chúng nhân dân, từng bước khẳng định vị thế của NHCSXH trong việc thực hiện kênh tín dụng ưu đãi cho người nghèo góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của địa phương. Bên cạnh những kết quả đạt được cần phải phát huy, hoạt động cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo của Phòng giao dịch NHCSXH huyện Quan Hoá vẫn còn những tồn tại, thiếu sót cần được khắc phục như chưa chủ động được nguồn vốn cho vay, nợ quá hạn nhận bàn giao từ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn còn để kéo dài chưa xử lý, Tuy nhiên, cùng với sự chỉ đạo của Ban giám đốc, Ban đại diện, sự nỗ lực của cán bộ nhân viên Ngân hàng và sự phối hợp của chính quyền địa phương, Phòng giao dịch NHCSXH huyện Quan Hoá đã mạnh dạn nhìn nhận những khuyết điểm, tồn tại và đưa ra những biện pháp khắc phục để ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.

docx75 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2223 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng cho vay xoá đói giảm nghèo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n bộ, hội viên các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ chính quyền, cán bộ XĐGN các cấp và hơn 200.000 Tổ trưởng Tổ TK&VV tham gia làm việc cho NHCSXH. Mô hình quản lý điều hành NHCSXH hiện nay đã đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của Chính phủ giao. Để tiến kịp hệ thống NHTM trong nước và khu vực, những năm tới, NHCSXH còn phải tiếp tục phấn đấu, đổi mới, xây dựng NHCSXH theo hướng hiện đại hoá. Trong tương lai, NHCSXH sẽ trở thành ngân hàng lớn có mạng lưới bán lẻ lớn nhất, có tiềm lực tài chính đủ mạnh, trang thiết bị hiện đại phục vụ số lượng lớn khách hàng chủ yếu trong lĩnh vực: Nông nghiệp - Nông thôn - Nông dân. 2.3.2. Ngân hàng chính sách huyện Quan Hoá: Những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, nước ta thực hiện lộ trình gia nhập WTO đòi hỏi hệ thống tín dụng Việt Nam phải nhanh chóng cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại cho phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại nhà nước rảnh tay vươn ra nắm giữ thị trường. Để đáp ứng yêu cầu trên, Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, viết tắt là NHCSXH Việt Nam (có tên tiếng Anh là Viet Nam Bank for Social Policies) được thành lập theo Quyết định 131/2002/QĐ-TTg ngày 4 tháng 10 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng phục vụ người nghèo. NHCSXH chính thức đi vào hoạt động từ tháng 1 năm 2003. Việc thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội là điều kiện để mở rộng thêm các đối tượng phục vụ là hộ nghèo, học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, các đối tượng chính sách cần vay vốn để giải quyết việc làm, đi lao động có thời hạn ở nước ngoài và các tổ chức kinh tế, cá nhân hộ sản xuất, kinh doanh thuộc các xã đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. NHCSXH là một tổ chức tín dụng của Nhà nước, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách khác nhằm mục tiêu xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Bộ máy điều hành của NHCSXH được thành lập ở cả 3 cấp đang tập trung chỉ đạo triển khai việc huy động vốn và cho vay vốn đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Tính đến nay, hệ thống NHCSXH bao gồm Hội sở chính ở Trung ương, Sở giao dịch, 64 chi nhánh cấp tỉnh, thành phố và 608 phòng giao dịch cấp huyện và 8.500 điểm giao dịch xã, phường. Hiện nay, NHCSXH đang triển khai nhiều giải pháp, phát huy kết quả bước đầu, khắc phục một số tồn tại, vướng mắc, quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, thật sự trở thành lực lượng kinh tế hữu hiệu trên mặt trận xóa đói giảm nghèo, ổn định tình hình Chính trị-xã hội của đất nước. Nằm trong hệ thống của NHCSXH Việt Nam, phòng giao dịch NHCSXH huyện Quan Hoá thuộc chi nhánh NHCSXH tỉnh Thanh Hoá cũng đã chính thức đi vào hoạt động năm 2003. Qua hơn 8 năm hoạt động, phòng giao dịch đã có sự phát triển về quy mô và tổ chức. Nhằm phục vụ cho toàn bộ hộ nghèo nằm trên địa bàn và hơn nữa là góp phần cải thiện đời sống của các hộ dân của huyện nghèo điển hình (đứng thứ 07/27 huyện nghèo nhất cả nước) huyện Quan Hoá. 2.3.2.1. Quy mô và tổ chức hoạt động của ngân hàng chính sách huyện Quan Hoá Quy mô hoạt động của NHCSXH huyện được áp dụng bởi mô hình của NHCSXH trung ương. Chú giải Chi nhánh tỉnh, thành phố Ban kiểm soát NHCSXH Hội đồng quản trị Tổng giám đốc Hội sở chính Phòng giao dịch cấp huyện Ban chuyên gia tư vấn Ban đại diện HĐQT tỉnh, thành phố Ban đại diện HĐQT huyện HĐQT cấp huyện Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn Ban giảm nghèo xã, phường Tổ Tiết kiệm và vay vốn Người vay Người vay Người vay Người vay Người vay Người vay SƠ ĐỒ TỔ CHỨC HỆ THỐNG NHCSXH Quan hệ chỉ đạo Chế độ cảnh báo Phối hợp ------------------------- Mô hình tổ chức: Phòng giao dịch NHCSXH huyện Quan Hoá được thành lập theo Quyết định số: 626/QĐ-HĐQT, ngày 20 tháng 5 năm 2003 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHCSXH Việt Nam, thuộc Chi nhánh NHCSXH tỉnh Thanh Hoá; là đại diện pháp nhân; có con dấu riêng; hoạt động theo Điều lệ về tổ chức và hoạt động của NHCSXH. Trụ sở chính đặt tại: Khu I, Thị trấn Quan Hoá, huyện Quan Hoá, tỉnh Thanh Hoá. Ban đại diện Hội đồng quản trị (HĐQT) NHCSXH huyện Quan Hoá gồm có 09 thành viên kiêm nhiệm và 01 thành viên chuyên trách. 09 thành viên kiêm nhiệm gồm Phó chủ tịch UBND huyện là Trưởng Ban đại diện HĐQT, 08 thành viên còn lại là Trưởng phòng hoặc cấp tương đương trưởng phòng của Phòng LĐ-TB&XH, Phòng Tài chính-Kế hoạch, Phòng Nông nghiệp, Văn phòng HĐND-UBND, Hội LHPN, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh và Đoàn TNCS HCM; 01 thành viên chuyên trách giữ chức Giám đốc PGD NHCSXH huyện. Có 18 Điểm giao dịch xã đặt tại Trụ sở UBND các xã, thị trấn. Có 222 Tổ tiết kiệm và vay vốn (TK&VV) tại 123 thôn bản. Cơ chế quản lý tài chính và kiểm tra, giám sát trong hệ thống NHCSXH. Về cơ chế quản lý tài chính. Kể từ năm 2005, trên cơ sở định mức khoán tài chính hàng năm được cấp trên giao, đơn vị đã có sự tự chủ về tài chính, các khoản thu nhập đã được khai thác triệt để, đồng thời tiết giảm tối đa các khoản chi phí trong quản lý, điều hành. Vì vậy, hàng năm đơn vị đã đảm bảo được Quỹ lương cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên và chi trả đầy đủ, kịp thời thù lao cho cán bộ cấp xã, phí làm dịch vụ uỷ thác cho các tổ chức chính trị - xã hội và hoa hồng cho Tổ TK&VV... Về cơ chế kiểm tra, giám sát. Hoạt động tín dụng chính sách được thực hiện dưới sự chỉ đạo, điều hành trực tiếp của Ban đại diện HĐQT và của cấp uỷ, chính quyền địa phương; sự phối kết hợp của các ban, ngành, đoàn thể và sự giám sát của nhân dân. Tuy nhiên, mô hình này còn nhiều điểm bất hợp lý và chưa phù hợp với đặc thù mô hình hoạt động của NHCSXH. Chức năng,nhiệm vụ: * Chức năng: Tham mưu, giúp việc cho Ban đại diện HĐQT cấp huyện triển khai các hoạt động của NHCSXH trên địa bàn; Kiểm tra, giám sát các đối tượng khách hàng, các tổ chức làm uỷ thác cho vay trong việc chấp hành chủ trương chính sách, quy chế nghiệp vụ tín dụng đối với hộ nghèo và các đối tưuợng chính sách khác; Thực hiện một số hoạt động nghiệp vụ khi có điều kiện, được Giám đốc chi nhánh NHCSXH tỉnh giao. * Nhiệm vụ: Ký hợp đồng cụ thể về uỷ thác cho vay, hợp đồng uỷ thác vốn trên địa bàn cấp huyện; Tổ chức nhận tiền gửi, tiền gửi tiết kiệm dân cư; Tổ chức thu chi nghiệp vụ; Thực hiện nghiệp vụ thanh toán; Phối hợp với chính quyền các cấp, các tổ chức nhận uỷ thác, các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn trong việc triển khai thành lập, đào tạo bồi dưỡng, giám sát các hoạt động của Tổ TK&VV, phối hợp với các ngành chức năng lồng ghép các chương trình khuyến nông, khuyên lâm, khuyến ngư với chương trình cho vay vốn trên địa bàn; Tổ chức thực hiện và chấp hành chế độ báo cáo thống kê, kế toán và báo cáo nghiệp vụ, quản lý nghiệp vụ theo quy định của NHCSXH; Thực hiện các nhiệm vụ khác do Hội đồng quản trị cho phép. *Đối tượng phục vụ: Hiện tại, đối tượng phục vụ của PGD NHCSXH huyện Quan Hoá trên địa bàn huyện bao gồm: Hộ nghèo; Học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn; Các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài; Hộ SXKD thuộc vùng khó khăn; Hộ đồng bào dân tộc ít người; Thương nhân. 2.4. Hiệu quả hoạt động tín dụng cho vay xoá đói giảm nghèo huyện Quan Hoá Về ngân hàng CSXH VN Từ khi thành lập, chỉ có 3 chương trình tín dụng, nay đã được Chính phủ giao 18 chương trình tín dụng trong nước và một số chương trình nhận ủy thác của nước ngoài, mà chương trình nào cũng thiết thực, ý nghĩa. Đây thật sự là niềm vui đối với các đối tượng chính sách vì họ tiếp tục có cơ hội tiếp cận nguồn vốn ưu đãi chính thức của Nhà nước, nhất là dựa trên tiền đề thành công của 7 năm hoạt động Ngân hàng Phục vụ người nghèo. Hoạt động của NHCSXH đã và đang được tiếp tục xã hội hóa, ngoài số cán bộ trong biên chế thực hiện nhiệm vụ trong hệ thống NHCSXH từ Trung ương đến tỉnh, huyện còn có sự phối hợp chặt chẽ với các tổ chức hội, đoàn thể (Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh), thực hiện nhiệm vụ ủy thác cho vay vốn thông qua trên 203 ngàn Tổ tiết kiệm và vay vốn tại khắp thôn, bản trong cả nước, với hàng trăm ngàn cán bộ không biên chế đang sát cánh cùng ngân hàng trong công cuộc "xóa đói giảm nghèo". Chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác đã đến với 100% số xã trong cả nước; đã hỗ trợ vốn cho trên 12,8 triệu lượt hộ nghèo; số khách hàng còn dư nợ là gần 7 triệu khách hàng, tăng hơn 4,5 triệu khách hàng so với 7 năm hoạt động của Ngân hàng Phục vụ người nghèo; dư nợ bình quân cho vay hộ nghèo tăng từ 2,5 triệu đồng/hộ năm 2002 lên 15,5 triệu đồng/hộ vào tháng 8 năm 2012. Vốn tín dụng ưu đãi đã góp phần giúp 2,5 triệu hộ thoát khỏi ngưỡng nghèo; thu hút được 2,5 triệu lao động có việc làm mới; xây dựng được gần 4 triệu công trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; 2,8 lượt triệu học sinh, sinh viên; 87 nghìn căn nhà cho hộ gia đình vượt lũ ĐBSCL; hơn 470 nghìn căn nhà cho hộ nghèo và các hộ chính sách chưa có nhà ở; gần 97 nghìn lao động thuộc gia đình chính sách được vay vốn đi xuất khẩu lao động; nợ xấu giảm dần từ 13,75% khi nhận bàn giao (theo kết quả kiểm kê nợ) xuống còn 1,39% vào tháng 8 năm 2012. NHCSXH còn là thành viên chính thức của các tổ chức quốc tế: Hiệp hội tín dụng nông nghiệp nông thôn Châu Á Thái Bình Dương (APRACA) từ năm 2006; Hiệp hội Ngân hàng Phục vụ người nghèo (BWTP) từ năm 2007; Phong trào tín dụng vi mô toàn cầu (MCS) từ năm 1997. Ngoài ra, NHCSXH còn hợp tác với các tổ chức tài chính và phát triển quốc tế (Chính phủ, phi Chính phủ) như: WB, ADB, AFD, JBIC, KFW, USAID, DFID, AusAID, DANIDA,... thu hút vốn đầu tư hàng nghìn tỷ đồng. Hiện nay, NHCSXH đang hỗ trợ kỹ thuật cho Ngân hàng Chính sách CHDCND Lào (NAYOBY). Kết quả về xóa đói giảm nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Với mục tiêu phấn đấu giảm tỷ lệ đói nghèo mỗi năm là 2%, đến cuối năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo ở mức 5,25%, NHCSXH sẽ tiếp tục phối hợp với các cấp, các ngành, các tổ chức hội, đoàn thể xã hội hóa hoạt động; góp phần thực hiện thành công chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm giai đoạn 2011 - 2015; quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, thực sự trở thành lực lượng kinh tế hữu hiệu nhằm ổn định chính trị - xã hội của đất nước. 2.4.1. Thực trạng hiệu quả tín dụng cho vay hộ nghèo tại phòng GD NHCSXH huyện Quan Hoá: Về nguồn vốn cho vay Tính đến 31 tháng 12 năm 2011, tổng nguồn vốn cho vay hộ nghèo của PGD NHCSXH huyện Quan Hoá đạt: 88.460 triệu đồng (chiếm tỷ lệ 54%/Tổng nguồn vốn) và mức tăng trưởng hàng năm đối với nguồn vốn cho vay hộ nghèo đạt được như sau: Bảng 9. Cơ cấu nguồn vốn tại thời điểm 31/12 hàng năm Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 31/12/2008 Năm 2009 Năm 2010 31/12/2011 Tổng số Tăng giảm Tổng số Tăng giảm Tổng số Tăng giảm I. Nguồn vốn cân đối từ TW 42.612 80.179 37.567 88.982 88.460 -522 II. Nguồn vốn huy động tại địa phương 3.280 1.055 -2.225 1.326 8.803 2.192 866 1 Tiết kiệm dân cư. 0 0 0 30 30 0 -30 2 Tiền gửi thanh toán. 3.280 1.055 -2.170 825 -230 352 -473 3 Tiết kiệm thông qua Tổ 0 0 471 471 1.840 1.369 4 Tổng cộng 45 892 81 234 35 342 90 308 9074 90 652 344 Nguồn: Báo cáo của PGD NHCSXH huyện Quan Hoá Phương thức quản lý vốn tín dụng chính sách Thực hiện nguyên tắc giải ngân vốn vay và thu nợ trực tiếp, không qua cấp trung gian, NHCSXH đã xây dựng được hệ thống Điểm giao dịch cố định tại 100% các xã, thị trấn để thực hiện các nhiệm vụ về cho vay, thu nợ, thu lãi, huy động tiết kiệm, tiếp nhận hồ sơ vay vốn, chi trả hoa hồng... ít nhất 01 lần/tháng. Phương thức cho vay trực tiếp có uỷ thác một số khâu tác nghiệp cho các tổ chức chính trị - xã hội theo nguyên tắc chính là: bình xét dân chủ, công khai; vốn giải ngân trực tiếp đến người vay tại xã/thị trấn thông qua hoạt động của các tổ giao dịch lưu động tại điểm giao dịch xã, đã tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo và các đối tượng chính sách được nhanh chóng tiếp cận với dịch vụ tài chính tín dụng, góp phần thực hiện công khai, dân chủ hoá kênh tín dụng chính sách, tăng cường mối quan hệ giao lưu giữa người dân với Ngân hàng và cấp uỷ, chính quyền địa phương, tiết giảm tối đa về thời gian và chi phí cho người vay, ngăn chặn tình trạng xâm tiêu chiếm dụng vốn, cho vay nặng lãi ở khu vực nông thôn... Hiện tại, NHCSXH đang thực hiện ký kết văn bản liên tịch đối với 4 tổ chức chính trị - xã hội cấp huyện (Hội ND, Hội LHPN, Hội CCB và Đoàn TNCS HCM) và hợp đồng uỷ thác với 57 tổ chức Hội, đoàn thể cấp xã. Với mạng lưới hoạt động rộng khắp và số lượng cán bộ, hội viên đông đảo, các tổ chức này đã phát huy được thế mạnh của mình trong việc tập hợp lực lượng, bình xét, quản lý, đôn đốc, kiểm tra hiệu quả sử dụng vốn vay, trả nợ, trả lãi và huy động tiết kiệm của các đối tượng thụ hưởng. Ngoài ra, thông qua việc nhận dịch vụ uỷ thác cho vay với NHCSXH, các tổ chức chính trị - xã hội đã thuận lợi hơn trong việc phát triển hội viên, có thêm nguồn kinh phí để hoạt động và ngày càng nâng cao được vị thế, vai trò của mình trong xã hội. Bên cạnh sự phối kết hợp chặt chẽ giữa với 4 tổ chức chính trị - xã hội nhận dịch vụ uỷ thác, NHCSXH còn có sự cộng tác của 222 tổ tiết kiệm và vay vốn (Tổ TK&VV) được thành lập tại 123/123 thôn bản trên địa bàn toàn huyện. Trong 10 năm qua, Tổ TK&VV đã đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc lựa chọn đối tượng phù hợp với từng chương trình tín dụng ưu đãi; sau đó rà soát, hướng dẫn các thủ tục vay vốn rồi trình chính quyền địa phương phê duyệt; tiếp đó là tổ chức kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và đôn đốc việc trả nợ, trả lãi đến từng người vay... Thông qua việc sinh hoạt tổ, các tổ viên đã có thêm cơ hội trao đổi, chia sẽ kinh nghiệm làm ăn; giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và cuộc sống; tăng cường tình làng nghĩa xóm; gây dựng, củng cố thêm lòng tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước. Có thể nói: “Tổ TK&VV là chiếc cầu nối, là cánh tay dài của NHCSXH, giúp cho đồng vốn ưu đãi của Chính phủ đến nhanh, đến đúng đối tượng thụ hưởng và phát huy được hiệu quả”. Quản lý vốn tín dụng chính sách thông qua sự liên kết với các tổ chức chính trị - xã hội và sự cộng tác của các Tổ TK&VV do cộng đồng dân cư tự nguyện thành lập, có sự tham gia giám sát của chính quyền cơ sở là một mô hình sáng tạo, phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam. Sau 10 năm triển khai thực hiện đã đem lại hiệu quả to lớn, thể hiện tính ưu việt ở chỗ: Thứ nhất: Phát huy sức mạnh tổng hợp, khai thác được tiềm năng to lớn về trí tuệ, sức của, sức người của toàn xã hội phục vụ cho mục tiêu giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, thể hiện được bản chất tốt đẹp của cộng đồng xã hội Việt Nam đối với người nghèo và các đối tượng chính sách, hướng tới mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thứ hai: Cơ chế quản lý tín dụng chính sách công khai, dân chủ từ cơ sở; đối tượng thụ hưởng được trực tiếp nhận vốn vay ngay tại nơi cư trú, đúng chế độ chính sách, đúng pháp luật đã tiết kiệm được tối đa chi phí quản lý ngành, giảm chi cho ngân sách Nhà nước và người vay vốn. Thứ ba: Mô hình và phương thức quản lý vốn tín dụng chính sách hiện nay đã giảm được nhiều lao động trong biên chế bộ máy tác nghiệp, vì đã có hàng trăm cán bộ, hội viên các tổ chức chính trị - xã hội, chính quyền và Tổ trưởng Tổ TK&VV tham gia làm việc cho NHCSXH. 2.4.2. Tình hình cho vay Ngày đầu thành lập, trên cơ sở tiếp nhận bàn giao chương trình cho vay hộ nghèo từ Ngân Hàng Nhà Nước- NHNN và chương trình cho vay Giải quyết việc làm từ Kho bạc Nhà nước với tổng nguồn vốn là 13.797 triệu đồng, đến nay, NHCSXH đã tập trung được 168.178 triệu đồng, tăng 154.381 triệu đồng so với năm 2003, mức tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 30,3%. Trong đó, nguồn vốn cân đối từ TW chiếm tỷ trọng 94,8%/Tổng nguồn vốn và nguồn vốn huy động tại địa phương được cấp bù lãi suất chiếm 5,2%/Tổng nguồn vốn. Nhìn chung, trong 10 năm qua, đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu về nguồn vốn cho các đối tượng được thụ hưởng. (1)Tổ chức thực hiện các chương trình tín dụng chính sách Từ nguồn vốn tập trung được, ngày đầu đi vào hoạt động đơn vị chỉ triển khai cho vay 2 chương trình (nhận bàn giao từ Kho bạc và NHNN), nhưng đến nay đã mở rộng lên thành 9 chương trình tín dụng. Quá trình triển khai cho vay đã bảo đảm nguyên tắc: nhanh chóng, thuận lợi, an toàn và đúng đối tượng thụ hưởng, với tổng doanh số cho vay đạt 350.727 triệu đồng, với 28.875 lượt khách hàng được vay vốn (bình quân hàng năm là 2.887 lượt), tổng doanh số thu nợ đạt 195.681 triệu đồng. Dư nợ đến 31/12/2012 đạt 168.026 triệu đồng, tăng 154.790 triệu đồng so với năm 2003, mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 30,9%, với 7.746 khách hàng đang được thụ hưởng chính sách (chủ yếu là hộ gia đình), bình quân đạt 21,7 triệu đồng/khách hàng, tăng 19,4 triệu đồng/khách hàng; tỷ lệ nợ xấu (nợ quá hạn và nợ khoanh) chiếm 0,36%/Tổng dư nợ (602 triệu đồng). Trong 10 năm qua công tác tín dụng của NHCSXH đã có rất nhiều cố gắng bám sát chủ trương, mục tiêu phát triển kinh tế và XĐGN của Đảng, Nhà nước, xây dựng cơ chế chính sách, ban hành các văn bản chỉ đạo nghiệp vụ sát với thực tiễn cơ sở nhằm thực hiện cho vay đúng đối tượng, tiền đến tay người nghèo, đạt được hiệu quả trong công tác đầu tư. Doanh số cho vay đạt 204.150 triệu đồng, với 19.954 lượt hộ nghèo được vay vốn; doanh số thu nợ đạt 123.901 triệu đồng; dư nợ đạt: 93.285 triệu đồng, tăng 80.249 triệu đồng so với năm 2003, mức tăng trưởng hàng năm đạt từ 20-23%, với 4.932 hộ vay đang được thụ hưởng chính sách, bình quân đạt 18,91 triệu đồng/hộ, tăng 16.63 triệu đồng/hộ so với năm 2003. Hiện nay, chương trình đã cơ bản đáp ứng được trên 98% số đối tượng đủ điều kiện, có nhu cầu vay vốn trên địa bàn . Từ nguồn vốn được hỗ trợ, các hộ đã sử dụng chủ yếu vào việc đầu tư mua sắm các loại vật tư, giống cây trồng, vật nuôi, công cụ lao động... phục vụ sản xuất. Đã có nhiều hộ nghèo sau khi vay vốn, do đầu tư vốn đúng mục đích, cộng với việc được các đoàn thể, chính quyền hỗ trợ, hướng dẫn thêm về cách làm ăn nên đã phát huy được hiệu quả kinh tế; từ chỗ thiếu vốn, thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm làm ăn đến nay đã biết tự tổ chức làm ăn, vươn lên thoát nghèo, trở thành những hộ khá, giàu, có của ăn, của để... Điển hình như gia đình anh Hà Văn Tốt (ở Bản Bút, xã Nam Xuân) có hoàn cảnh khó khăn (2 vợ chồng không có việc làm ổn định, thiếu đất sản xuất, các con còn nhỏ...), gia đình anh được vay 10 triệu đồng để đầu tư sản xuất, đến nay đã thoát nghèo, vươn lên thành hộ giàu, gia đình anh đã xây được nhà, mua sắm được đầy đủ các trang thiết bị thiết yếu trong gia đình (như xe máy, tivi, tủ lạnh...), ngoài ra, gia đình anh hiện có 01 ao cá, 01 con trâu, 06 con bò, 30 con lợn rừng, 26 con lợn thịt; gia đình chị Lò Thị Vân (ở Bản Tá Bán, xã Trung Sơn), trước đây do gia đình chị sinh sống ở địa bàn xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn của huyện nên không có điều kiện được tiếp cận với đồng vốn vay, sau khi NHCSXH được thành lập, gia đình chị được giải quyết cho vay 10 triệu đồng để đầu tư trồng luồng. Sau 3 năm sử dụng vốn, đến nay gia đình chị đã thoát nghèo và hiện có 2.300 gốc luồng đang trong thời kỳ thu hoạch (với doanh thu hàng năm đạt từ 35-40 triệu đồng), 04 con trâu... Nhờ có sự chỉ đạo và quan tâm của cấp uỷ Đảng, Chính quyền địa phương, các tổ chức hội nhận uỷ thác trong những năm qua, đã giúp cho việc giải ngân vốn tín dụng đến hộ nghèo nhanh chóng, thuận lợi và thu được kết qủa tốt thể hiện trên các mặt sau: Thứ nhất: Hoạt động của NHCSXH đã góp phần đáng kể vào thực hiện chương trình mục tiêu của Đảng, Nhà nước về XĐGN và an sinh xã hội tại địa phương. Bảng 10. Kết quả cho vay từ năm 2009 – 2011 CHỈ TIÊU Đơn vị tính Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Tổng cộng 1. Doanh số cho vay trong năm triệu đồng 49.615 17.480 25.900 92.995 2. Doanh số thu nợ trong năm triệu đồng 15.657 8.404 25.675 49.718 3. Dư nợ cuối năm triệu đồng 81.234 90.308 90.652 Trước đó: -Nợ quá hạn triệu đồng 42 144 267 -% Nợ quá hạn % 0,05 0,16 0,29 -Nợ khoanh triệu đồng 10 7 7 -Nợ chờ xử lý triệu đồng 0 57 4. Số hộ dư nợ hộ 6.249 6.451 5.291 5.Dư nợ bình quân 1 hộ triệu đồng 13 14 17 6. Số Tổ TK&VV còn dư nợ Tổ 201 206 222 7. Số lượt hộ vay vốn hộ 4.756 1.834 2.481 9.071 8. Số lượt hộ thoát nghèo (luỹ kế) hộ 592 758 854 2.204 Nguồn: Báo cáo của PGD NHCSXH huyện Quan Hoá Thông qua vay vốn NHCSXH đã có 1.674 hộ thoát khỏi nghèo đói, trong đó số hộ dân tộc thiểu số thoát nghèo 1.590 hộ. Tại các xã đặc biệt khó khăn có 697 hộ đã thoát khỏi ngưỡng nghèo theo chuẩn mực của Bộ LĐ-TB&XH; hàng vạn hộ khác đang có điều kiện vươn lên trong một vài vụ sản xuất tới, góp phần to lớn vào việc giảm tỷ lệ hộ đói nghèo tại địa phương. Thứ hai: Phát huy lợi thế mạng lưới rộng khắp, đội ngũ cán bộ có nghề, NHCSXH là tổ chức duy nhất trong thời gian qua thực hiện được tốt việc phân phối vốn và cho vay đều khắp tới 123 thôn bản trong toàn huyện. Thứ ba: Tập trung đầu tư cho các hộ nghèo vùng sâu vùng xa, các xã đặc biệt khó khăn, cho vùng đồng bào các dân tộc ít người tạo điều kiện để những người dân nghèo được thụ hưởng chính sách ưu đãi, có điều kiện phát triển sản xuất, ổn định cuộc sống vươn lên hoà nhập cộng đồng, góp phần thực hiện chính sách đoàn kết các dân tộc của Đảng. Thứ tư: Thực hiện phương châm xã hội hoá công tác cho vay vốn hộ nghèo thông qua việc xây dựng tổ nhóm, kết hợp chặt chẽ giữa sự chỉ đạo của chính quyền, kiểm tra giám sát của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, thực hiện dân chủ, công khai trong công tác cho vay của Ngân hàng đã đem lại kết quả to lớn. Đến 31/12/2011toàn huyện có 222 Tổ TK&VV với 5.291 hộ nghèo tham gia sinh hoạt. Thông qua hoạt động của các Tổ TK&VV, đã góp phần cùng NHCSXH đưa vốn vay trực tiếp đến tận tay đối tượng là người nghèo; tổ chức thu nợ, thu lãi đúng thời hạn; các hộ nghèo trong Tổ giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh và đời sống, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay Ngân hàng. Thứ năm: Tín dụng cho hộ nghèo đã góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp,khôi phục và phát triển ngành nghề truyền thống, tạo thêm việc làm mới, tận dụng được quỹ thời gian lao động nông nhàn, góp phần thực hiện phân công lại lao động xã hội... Tuy mới thành lập và đi vào hoạt động trong thời gian chưa dài, nhưng PGD NHCSXH huyện Quan Hoá đã phát triển nhiều mặt từ tổ chức điều hành đến công tác huy động nguồn vốn, đến mở rộng nghiệp vụ cho vay, dịch vụ thanh toán chuyển tiền điện tử, ... Nguồn vốn đầu tư của NHCSXH hàng năm được tập trung cho phát triển kinh tế nông nghiệp từ 88%-92%, cho phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp 4-5%, dịch vụ buôn bán nhỏ 3%-4%. Số đông hộ nghèo được vay vốn đã thực sự tạo ra sức sản xuất mới trong nông nghiệp cả về năng suất, sản lượng, chất lượng hàng hoá, từng bước xoá bỏ phương thức sản xuất giản đơn “tự túc tự cấp”, chuyển dần sang phương thức sản xuất hàng hoá. Nhiều nơi dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn và giúp đỡ của chính quyền hộ nghèo đã tham gia vào trồng cây công nghiệp như luồng, xoan, lát, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc và nuôi các loại con đặc sản có giá trị kinh tế cao như nhím, lợn cỏ, ba ba, ... Có những ngành nghề truyền thống trước đây bị mai một do không có vốn nay được các gia đình khôi phục lại, nhiều nghề mới được mở thêm tạo việc làm cho nhiều con em hộ nghèo có thu nhập ổn định. (2) Những tồn tại và nguyên nhân - Phương thức cho vay đơn giản nhưng còn không ít trở ngại Việc áp dụng phương thức cho vay từng lần (trả nợ xong lần trước mới cho vay lần sau) là quá cứng, bởi vì lượng vốn được vay ban đầu nhỏ chưa đáp ứng đủ nhu cầu, người nghèo đang sử dụng vào chăm sóc cây trồng hoặc vật nuôi nên không trả được nợ. Nếu phải trả nợ để vay thêm nhiều hơn theo yêu cầu thì buộc họ phải đi vay ngoài với lãi suất cao hoặc bán sản phẩm với giá thấp sẽ bị bất lợi. - Mức phân loại hộ nghèo chưa phù hợp Việc áp dụng tiêu chí mới chỉ đáp ứng được nhu cầu tối thiểu đảm bảo duy trì cuộc sống hàng ngày, còn rất nhiều các nhu cầu khác như đi lại, nhà ở, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, hưởng thụ các giá trị về văn hoá tinh thần... chưa được tính đến (thực chất đó chỉ là những hộ đói). Trong thực tế những hộ nghèo có thể vay vốn và có đủ điều kiện vay vốn lại rất lớn và thậm chí họ không nằm trong danh sách hộ nghèo theo phân định. Vì vậy, hiện nay NHCSXH chỉ căn cứ vào danh sách mà ban XĐGN của xã, huyện lập ra là chưa hợp lý và là một vấn đề cần được xem xét lại. - Hiệu quả của vốn vay còn bị hạn chế Hộ nghèo chưa phát huy được hết khả năng của đồng vốn do trình độ có hạn, nhiều khi vay vốn rồi nhưng chưa biết sử dụng vào mục đích gì để cho có hiệu quả, nếu có thì chỉ là chăn nuôi nhỏ. (3) Hiệu quả tín dụng Xét hiệu quả vốn đầu tư chúng ta cần xem xét tới số nợ qúa hạn và tỷ lệ nợ qúa hạn để có sự nhìn nhận chính xác hơn. Số nợ quá hạn của các năm như sau: Tổng nợ quá hạn cho vay hộ nghèo thời điểm 31/12/2011 là 811 triệu đồng, chiếm 0.5% tổng dư nợ. Nếu tính cả số nợ khoanh 7 triệu và nợ chờ xử lý tỷ thì số nợ xấu là 875 triệu đồng, chiếm 0.54% tổng dư nợ. Nhìn chung hộ nghèo đã biết sử dụng vốn tín dụng đầu tư vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nâng cao thu nhập, bước đầu làm quen với dịch vụ vay, trả vốn tín dụng. Nhờ đó chất lượng tín dụng hộ nghèo qua các năm rất tốt. Nợ quá hạn có nhiều nguyên nhân. Ngoài các nguyên nhân khách quan như thiên tai, dịch bệnh, giá cả tiêu thụ sản phẩm sụt giảm ...còn có nguyên nhân chủ quan từ bản thân hộ nghèo như: chưa biết sử dụng vốn vào sản xuất kinh doanh mà sử dụng vốn vào việc mua lương thực cứu đói, mua sắm đồ dùng cá nhân nên mất khả năng trả nợ; trình độ dân trí thấp, thiếu kinh nghiệm làm ăn; ỷ lại vào chính sách trợ cấp của Nhà nước, ... 2.5. Đánh giá kết quả hoạt động tín dụng cho vay xoá đói giảm nghèo: 2.5.1. Những thành tựu đạt được Hiệu quả về mặt kinh tế. Mặc dù mới hoạt động trong thời gian ngắn nhưng NHCSXH đã huy động được nguồn lực về sức người, sức của để xác lập một hệ thống tín dụng chính sách riêng nhằm hỗ trợ cho hộ gia đình nghèo. Hoạt động của NHCSXH đã góp phần đắc lực vào việc thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia XĐGN, an sinh xã hội.Với những con số đáng nể : Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của huyện trong 10 năm qua luôn đạt trên 10% (năm 2012 đạt 14,85%), thu Ngân sách địa phương tăng từ 2,8 tỷ đồng năm 2002 lên 9,9 tỷ đồng năm 2012, giá trị sản xuất/ha canh tác đã tăng từ 8,3 triệu đồng (năm 2002) lên 74,1 triệu đồng (năm 2012), thu nhập bình quân đầu người tăng từ 3,6 triệu đồng (năm 2002) lên 7 triệu đồng (năm 2012), diện tích đất canh tác tăng từ 6.201 ha (năm 2002) lên 7.328 ha (năm 2012). Vốn của NHCSXH đã trực tiếp đến với hộ nghèo cần vốn. Vốn vay đã được sử dụng đúng mục đích sản xuất kinh doanh, đã và đang phát huy hiệu quả kinh tế. Tại địa phương đã thực hiện lồng ghép chương trình kinh tế xã hội khác như khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, kế hoạch hoá gia đình, nâng cao dân trí, xoá mù chữ nên vốn vay đã phát huy hiệu quả thiết thực. Hiệu quả về mặt xã hội Vốn tín dụng chính sách trong 10 năm qua đã giúp cho trên 1.800 hộ thoát nghèo giảm tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn huyện từ 53% (năm 2003) xuống còn 40,33% (năm 2012), bình quân tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 4,5-5%/năm ; trên 3.600 hộ đã cải thiện được đời sống; trên 600 hộ chuyển biến về nhận thức và cách thức làm ăn; trên 9.000 lao động được tạo việc làm mới (trong đó có trên 180 lao động đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài); trên 1.200 HSSV thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo, hộ gặp khó khăn về tài chính được vay vốn để trang trải chi phí học tập; trên 2.200 hộ được cải thiện điều kiện sinh hoạt vì được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh và công trình vệ sinh hợp tiêu chuẩn; xoá bỏ được trên 1.300 căn nhà ở dột nát, tạm bợ... Hoạt động tín dụng hộ nghèo đã góp phần tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động, phát huy tiềm lực, đất đai ngành nghề, tạo điều kiện sản xuất, đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi, tình trạng bán lúa non, bán và cầm cố ruộng đất ở nông thôn, đời sống dân nghèo được cải thiện góp phần ổn định kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Nhờ thực hiện chương trình cho vay Xuất khẩu lao động:Chương trình đã được nhanh chóng triển khai từ năm 2004 đến nay với doanh số cho vay đạt 3.489 triệu đồng (chủ yếu là các thị trường lao động như: Malaysia, Đài loan, Quatar, Hàn Quốc và Lybia), 184 lượt lao động được thụ hưởng, bình quân đạt 19,94 triệu đồng/lao động; doanh số thu nợ đạt 2.946 triệu đồng; dư nợ đạt 543 triệu đồng, mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 50%, với 27 hộ vay đang được thụ hưởng chính sách, bình quân đạt 20,1 triệu đồng/hộ, tăng 3,5 triệu đồng/hộ so với thời điểm năm 2004.Từ ngày triển khai thực hiện, chương trình đã đem lại hiệu quả to lớn về mặt thu nhập, mức sống, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tác phong nghề nghiệp cho người lao động và các hộ gia đình. Điển hình như hộ gia đình người lao động Hoàng Thị Hương (ở Bản Cỗi, xã Xuân Phú), vay 20 triệu đồng để chi phí cho người lao động sang Hàn Quốc làm việc. Đến nay, từ nguồn thu nhập của người lao động gửi về, gia đình đã xây dựng được 01 ngôi nhà 02 tầng khang trang, mua sắm được nhiều tiện nghi sinh hoạt đắt tiền khác như xe máy, ti vi... đồng thời, gia đình đã hoàn trả đầy đủ cả tiền gốc và lãi phát sinh cho Nhà nước trước thời hạn 12 tháng. Thực hiện kênh tín dụng hộ nghèo đã thể hiện tính nhân văn, nhân ái, lương tâm và trách nhiệm của cộng đồng đối với người nghèo, góp phần củng cố khối liên minh công nông và thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đặc biệt là nông dân nghèo phần khởi và ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.Thông qua các hình thức cho vay: Thực hiện chương trình cho vay Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn (NS&VSMT): Với mục đích là đầu tư tín dụng để xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp các công trình cấp nước sạch và công trình bảo đảm vệ sinh môi trường khu vực nông thôn. Từ năm 2008, chương trình đã được triển khai tại 16 xã, thị trấn với doanh số cho vay đạt 9.637 triệu đồng, với 1.226 lượt hộ, bình quân đạt 7,86 triệu đồng/hộ; doanh số thu nợ đạt 4.503 triệu đồng; dư nợ đạt 5.132 triệu đồng, mức tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 50%, với 672 hộ vay đang được thụ hưởng chính sách. Chương trình đã được các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương ghi nhận và đánh giá rất cao vì đã góp phần to lớn vào việc xóa bỏ tập quán sinh hoạt lạc hậu, thiếu vệ sinh của người dân nông thôn; nâng cao sức khỏe cộng đồng, giảm tỷ lệ mắc bệnh cho người dân và cải thiện môi trường sinh thái. Bên cạnh đó, thông qua việc thực hiện chương trình này đã góp phần nâng tỷ lệ hộ dùng nước sạch sinh hoạt lên 70% vào năm 2012, đẩy nhanh tiến độ chuẩn hóa về y tế và chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện. Thực hiện chương trình cho vay hộ SXKD tại vùng khó khăn: Từ năm 2007, chương trình đã được triển khai cho vay sâu rộng đến 100% số thôn bản trên địa bàn, với doanh số cho vay đạt 104.132 triệu đồng, 4.448 lượt hộ được thụ huởng, bình quân đạt 23,4 triệu đồng/hộ, doanh số thu nợ 56.458 triệu đồng. Dư nợ đạt 47.674 triệu đồng, mức tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 63%, với 2.220 hộ vay đang được thụ hưởng chính sách.. Nguồn vốn từ chương trình đã giúp cho các hộ gia đình sản xuất kinh doanh trên địa bàn phát huy được các tiềm năng và thế mạnh sẵn có về đất đai, nguồn lực lao động, lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng; mua sắm vật tư, máy móc phục vụ sản xuất kinh doanh... nhờ đó mà kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện đã được nâng lên rõ rệt, góp phần cải thiện bộ mặt nông thôn mới. Điển hình như anh Nguyễn Tiến Tân (ở Khu khố, xã Hồi Xuân), anh từ miền xuôi lên Quan Hoá lập nghiệp năm 2005 với hai bàn tay trắng, anh được vay vốn để thuê cửa hàng kinh doanh dịch vụ sửa chữa xe máy, đến nay anh đã có tiền làm nhà, mở rộng thêm quy mô kinh doanh dịch vụ, giải quyết thêm việc làm cho người lao động... Thực hiện chương trình cho vay hộ đồng bào dân tộc thiểu số: Từ năm 2007 đến nay, chương trình đã được triển khai tại 16 xã, với doanh số cho vay đạt 2.570 triệu đồng, bình quân đạt 5 triệu đồng/hộ; doanh số thu nợ đạt 505 triệu đồng; dư nợ đạt 2.065 triệu đồng, mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 51%; với 414 hộ vay đang được thụ hưởng chính sách. Thông qua việc triển khai thực hiện, bước đầu đã giúp cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo thay đổi được nếp suy nghỉ, cách thức làm ăn và làm quen dần với hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời đã góp phần vào việc cải thiện thêm thu nhập, ổn định đời sống... Thực hiện chương trình cho vay học sinh, sinh viên (HSSV): Chương trình được thực hiện từ năm 1998 thông qua Ngân hàng Công thương, tuy nhiên, quá trình thực hiện có nhiều hạn chế như nguồn vốn ít, phạm vi, đối tượng cho vay hẹp, mức vay thấp, cơ chế cho vay chưa phù hợp... Chương trình đã thực sự đi vào đời sống nhân dân sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg về tín dụng đối với học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. chương trình đã nhanh chóng được triển khai thực hiện đến từng thôn bản, với doanh số cho vay đạt 12.452 triệu đồng, 1.093 lượt hộ được vay, bình quân đạt 11,4 triệu đồng/hộ; doanh số thu nợ đạt 4.791 triệu đồng; dư nợ đạt 7.661 triệu đồng, mức tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 15,6%; với 563 hộ đang được thụ hưởng, mức dư nợ bình quân đạt 13,6 triệu đồng/hộ, tăng 11 triệu đồng/hộ so với thời điểm bắt đầu triển khai cho vay trên địa bàn huyện (năm 2006). Sau 7 năm triển khai thực hiện chương trình, từ chỗ trước đây có nhiều gia đình hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ khó khăn về tài chính không có điều kiện để nuôi con ăn học (đặc biệt là con em các hộ đang sinh sống ở các thôn bản vùng sâu, vùng xa), thì đến nay đã có trên 1.200 lượt HSSV được vay vốn, có tiền để trang trãi chi phí học tập, vững bước trên con đường lập thân, lập nghiệp. Nhiều HSSV sau khi ra trường đã có công ăn việc làm ổn định, gia đình chấp hành đầy đủ việc trả lãi, trả nợ gốc theo quy định. Điển hình như hộ bà Lê Thị Lương (khu 4, thị trấn Quan Hoá) vay số tiền 64 triệu đồng cho 03 sinh viên, hiện 02 sinh viên đã ra trường có việc làm ổn định, gia đình đã chấp hành nghiêm túc cam kết về việc trả lãi, trả nợ gốc theo phân kỳ đảm bảo đúng quy định. Thực hiện chương trình cho vay hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở: Đây là một chương trình tín dụng mang đậm tính nhân văn vì đã giải quyết được nhu cầu bức thiết nhất, căn bản nhất của hộ nghèo là về: nhà ở. Vì vậy, ngay sau khi có danh sách hộ gia đình được thụ hưởng chính sách (tháng 9/2009), chỉ trong vòng 02 năm, NHCSXH đã kịp thời đáp ứng đủ nguồn vốn để giải ngân cho vay đến đúng các đối tượng được thụ hưởng, doanh số cho vay đạt 10.584 triệu đồng, bình quân đạt 8 triệu đồng/hộ, doanh số thu nợ đạt 145 triệu đồng; dư nợ đạt 10.431triệu đồng, với 1.306 hộ vay đang được thụ hưởng chính sách. Với mức vốn hỗ trợ từ NHCSXH, cùng sự tham gia chia sẻ của cộng đồng và các doanh nghiệp, sự nỗ lực vươn lên của chính các hộ gia đình nghèo nên hầu hết các căn nhà được xây dựng mới đều đảm bảo cả yêu cầu về chất lượng công trình cũng như diện tích sử dụng. Được vào nơi ở mới khang trang, an toàn hơn, các gia đình hộ nghèo đã yên tâm lao động sản xuất, từng bước vươn lên trong cuộc sống. Chương trình không những mang lại những mái ấm khang trang, kiên cố cho các hộ gia đình nghèo, mà hơn hết còn củng cố thêm niềm tin của người dân đối với Đảng, Nhà nước; giúp khơi dậy tinh thần tương thân tương ái, chia ngọt sẻ bùi, tình làng nghĩa xóm của dân tộc ta; đồng thời đã góp phần tích cực vào việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. 2.5.2.Hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó: Về tổ chức - Phần lớn các thành viên trong BĐD HĐQT làm việc theo chế độ kiêm nhiệm nên rất ít thời gian và điều kiện để thực thi nhiệm vụ. - Công tác chỉ đạo phối hợp với các ban ngành, đoàn thể chưa thường xuyên, còn nhiều bất cập, việc lồng ghép các chương trình kinh tế xã hội với nông nghiệp, nông thôn, nông dân còn nhiều vấn đề khó khăn, bức xúc do việc chỉ đạo thực hiện các chương trình, mục tiêu theo định hướng riêng của từng ngành, từng cấp còn nhiều tồn tại, gây lãng phí tài sản, vốn và hiệu quả đầu tư thấp. Về chính sách huy động vốn Ngân hàng CS XH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nhưng phải tự bù đắp chi phí, thực hiện bảo tồn và phát triển nguồn vốn. Trên thực tế, hoạt động của NHCSXH trong thời gian qua, xét về bản chầt là vốn tín dụng nhưng đây là vốn tín dụng theo ưu đãi nên nguồn vốn tăng trưởng phụ thuộc vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Do vậy tính chủ động trong hoạt động của NHCSXH còn hạn chế. Về đối tượng vay vốn Nguyên tắc đặt ra là NHCSXH cho hộ nghèo vay vốn theo chuẩn mực phân loại hộ nghèo do Bộ LĐ-TB&XH công bố từng thời kỳ, song phải là hộ nghèo có sức lao động nhưng thiếu vốn sản xuất. Nhưng trong thực tế việc xác định đối tượng hộ nghèo vay vốn còn nhiều bất cập và còn bị ràng buộc bởi mục tiêu giảm nghèo mà Nghị quyết Đảng bộ huyện đề ra hàng năm . Bài học kinh nghiệm. Trong 10 năm hoạt động tín dụng hộ nghèo và các đối tượng chính sách đã rút ra những bài học kinh nghiệm, đó là: Một là: Cần phải có sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của cấp ủy, chính quyền các cấp và Ban đại diện HĐQT; sự phối hợp hiệu quả của các ban, ngành ở địa phương. Thực tế cho thấy, ở đâu có sự quan tâm chỉ đạo quyết liệt của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, Ban đại diện HĐQT thì ở đó đạt được kết quả cao về chất lượng và hiệu quả tín dụng. Hai là: NHCSXH cùng với các tổ chức chính trị xã hội nhận dịch vụ ủy thác từ huyện đến xã cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên trong các mặt công tác, đặc biệt là trong công tác củng cố, kiện toàn hoạt động của các Tổ TK&VV và công tác tập huấn, đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ Hội và Ban quản lý tổ TK&VV. Ba là: Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến các chính sách tín dụng ưu đãi của Chính phủ nhằm nâng cao nhận thức đến mọi người dân và thực hiện tốt công tác công khai, minh bạch trong thực hiện chính sách nhằm giảm thiểu được rủi ro, phát huy được vai trò trách nhiệm của tổ chức, cá nhân và đảm bảo cho sự thành công của chương trình tín dụng hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Bốn là: Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát của các cấp, các ngành trong suốt quá trình triển khai thực hiện, nhất là khâu bình xét đối tượng vay vốn tại cơ sở được đảm bảo công khai, dân chủ, hạn chế tối đa những hiện tượng sai sót phát sinh. Năm là: Thường xuyên coi trọng đến chất lượng các cuộc họp giao ban giữa NHCSXH với các tổ chức chính trị - xã hội cấp huyện; giữa đại diện cấp uỷ, chính quyền cơ sở, các tổ chức Hội, đoàn thể, các Tổ TK&VV với NHCSXH tại các Điểm giao dịch xã. Sáu là: Thường xuyên sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua nhằm vinh danh, khen thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân tiêu biểu có thành tích xuất sắc trong quá trình hoạt động. Bảy là: Quan tâm đến quyền lợi vật chất, tinh thần của người lao động, trên cơ sở giao việc, giao các chỉ tiêu đến từng cán bộ; chi trả tiền lương, tiền công theo mức độ hoàn thành kế hoạch. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên, giúp họ sớm hoàn thiện bản thân để tận tâm, tận lực đóng góp sức lực, trí tuệ cho sự nghiệp chung của ngành. PHẦN 3.MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ: 3.1. Mục tiêu hoạt động của ngân hàng trong 10 năm tới: Định hướng hoạt động. - Đối tượng phục vụ của NHCSXH là người nghèo, các đối tượng chính sách khác theo quy định của Nhà nước và các đối tượng được các tổ chức, cá nhân ủy thác cho NHCSXH trực tiếp cho vay. Ưu tiên hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở các vùng khó khăn. - Tiếp tục triển khai và nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ; đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ ngân hàng như: Tiết kiệm; thanh toán; chuyển tiền điện tử... - Tăng cường hoạt động của các Tổ giao dịch lưu động tại Điểm giao dịch xã. - Nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động của Ban đại diện Hội đồng quản trị NHCSXH huyện. - Nâng cao hiệu quả phương thức ủy thác tín dụng thông qua các tổ chức chính trị - xã hội với sự tham gia chỉ đạo, giám sát của cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp, tăng cường vai trò của chính quyền cấp xã. - Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của NHCSXH. - Đào tạo đội ngũ cán bộ làm ủy thác, cán bộ Tổ tiết kiệm và vay vốn có kiến thức cơ bản về: Quản lý tín dụng; kiểm tra, giám sát; phát hiện, phòng ngừa rủi ro; tư vấn, hướng dẫn sử dụng vốn hiệu quả cho người nghèo và các đối tượng chính sách. - Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại vào các nghiệp vụ của NHCSXH cho phù hợp với phương thức hoạt động. Mục tiêu, nhiệm vụ. Mục tiêu tổng quát. Phát triển NHCSXH theo hướng ổn định, bền vững, đủ năng lực để thực hiện tốt tín dụng chính sách xã hội của Nhà nước; gắn liền với việc phát triển các sản phẩm dịch vụ hỗ trợ có hiệu quả hơn cho người nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác. Mục tiêu cụ thể. - Đảm bảo cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tới 100% người nghèo và các đối tượng chính sách khác có nhu cầu và đủ điều kiện. - Dư nợ tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng: 7%. - Tỷ lệ nợ quá hạn hàng năm dưới: 1%/tổng dư nợ. - Đơn giản hoá thủ tục và tiêu chuẩn hoá quy trình nghiệp vụ. - Thực hiện tốt hơn công tác phối hợp, lồng ghép với hoạt động hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, khuyến công, khuyến nông, khuyến lâm, chương trình xây dựng nông thôn mới... 3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra sau 10 năm hoạt động: Trong 10 năm hoạt động tín dụng hộ nghèo và các đối tượng chính sách đã rút ra những bài học kinh nghiệm, đó là: Một là: Cần phải có sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của cấp ủy, chính quyền các cấp và Ban đại diện HĐQT; sự phối hợp hiệu quả của các ban, ngành ở địa phương. Thực tế cho thấy, ở đâu có sự quan tâm chỉ đạo quyết liệt của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, Ban đại diện HĐQT thì ở đó đạt được kết quả cao về chất lượng và hiệu quả tín dụng. Hai là: NHCSXH cùng với các tổ chức chính trị xã hội nhận dịch vụ ủy thác từ huyện đến xã cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên trong các mặt công tác, đặc biệt là trong công tác củng cố, kiện toàn hoạt động của các Tổ TK&VV và công tác tập huấn, đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ Hội và Ban quản lý tổ TK&VV. Ba là: Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến các chính sách tín dụng ưu đãi của Chính phủ nhằm nâng cao nhận thức đến mọi người dân và thực hiện tốt công tác công khai, minh bạch trong thực hiện chính sách nhằm giảm thiểu được rủi ro, phát huy được vai trò trách nhiệm của tổ chức, cá nhân và đảm bảo cho sự thành công của chương trình tín dụng hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Bốn là: Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát của các cấp, các ngành trong suốt quá trình triển khai thực hiện, nhất là khâu bình xét đối tượng vay vốn tại cơ sở được đảm bảo công khai, dân chủ, hạn chế tối đa những hiện tượng sai sót phát sinh. Năm là: Thường xuyên coi trọng đến chất lượng các cuộc họp giao ban giữa NHCSXH với các tổ chức chính trị - xã hội cấp huyện; giữa đại diện cấp uỷ, chính quyền cơ sở, các tổ chức Hội, đoàn thể, các Tổ TK&VV với NHCSXH tại các Điểm giao dịch xã. Sáu là: Thường xuyên sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua nhằm vinh danh, khen thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân tiêu biểu có thành tích xuất sắc trong quá trình hoạt động. Bảy là: Quan tâm đến quyền lợi vật chất, tinh thần của người lao động, trên cơ sở giao việc, giao các chỉ tiêu đến từng cán bộ; chi trả tiền lương, tiền công theo mức độ hoàn thành kế hoạch. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên, giúp họ sớm hoàn thiện bản thân để tận tâm, tận lực đóng góp sức lực, trí tuệ cho sự nghiệp chung của ngành. 3.3. Một số giải pháp: Để tiếp tục duy trì và phát huy những thành quả đạt được trong 10 năm qua, đồng thời phấn đấu hoàn thành tốt các mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn 2013-2020, NHCSXH huyện cần triển khai thực hiện tốt các nhóm giải pháp sau đây: - Tranh thủ tối đa sự quan tâm chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương và Ban đại diện HĐQT NHCSXH huyện; phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội nhận dịch vụ uỷ thác để tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc tại cơ sở. - Nâng cao vai trò, trách nhiệm và hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện tín dụng chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng chính sách và chất lượng dịch vụ ủy thác. - Củng cố tổ chức Tổ tiết kiệm và vay vốn, bảo đảm hài hòa giữa việc tổ chức Tổ tiết kiệm và vay vốn theo tổ chức Hội và theo địa bàn dân cư, tạo thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội. - Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội nhận dịch vụ uỷ thác, các Tổ TK&VV và quá trình sử dụng vốn của người vay. - Đẩy mạnh phát triển cơ sở vật chất, công nghệ thông tin, đặc biệt là trang thiết bị phục vụ cho hoạt động của các Tổ giao dịch lưu động và các Điểm giao dịch xã. - Thường xuyên coi trọng đến công tác đào tạo, tập huấn nhằm nâng cao năng lực quản trị cho cán bộ NHCSXH, cán bộ tổ chức Hội và Ban quản lý Tổ TK&VV. 3.4. Một số kiến nghị: Kiến nghị với UBND các cấp Đề nghị chính quyền các cấp quan tâm hơn nữa và phối hợp chặt chẽ với NHCSXH giám sát quá trình sử dụng vốn vay; củng cố và nâng cao vai trò của của Ban XĐGN và các tổ chức tương hỗ, hình thành các Tổ vay vốn hoạt động thật sự để hỗ trợ NHCSXH tiếp cận nhanh, chính xác đến từng hộ nghèo. Cần coi NHCSXH là Ngân hàng của chính tổ chức mình, thực sự chăm lo và tạo mọi điều kiện thuận lợi để NHCSXH hoàn thành tốt vai trò nhiệm vụ được giao. Kiến nghị đối với HĐQT – NHCSXH Đề nghị HĐQT kiến nghị với Chính phủ cần có chính sách cho vay hỗ trợ đối với những hộ cận nghèo, nhằm giúp hộ cận nghèo tránh nguy cơ tái nghèo và thực sự thoát nghèo bền vững KẾT LUẬN: Xét trên cả phương diện lý luận và thực tiễn,chương trình xóa đói giảm nghèo đóng một vai trò quan trọng và là một vấn đề lớn ,trọng yếu trong quá trình phát triển kinh tế đất nước.Tín dụng đối với hộ nghèo là một trong những yếu tố vật chất thúc đẩy nhanh quá trình xóa đói giảm nghèo.Với ý nghĩa là một tổ chức tín dụng đặc thù của Nhà nước, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, được thành lập tạo ra một kênh tín dụng ưu đãi để hỗ trợ hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác có cơ hội làm ăn, sản xuất. Việc nghiên cứu các giải nâng cao hiệu quả tín dụng cho vay đối với hộ nghèo tại NHCSXH huyện Quan Hoá là việc làm có ý nghĩa rất thiết thực . Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu các giải nâng cao hiệu quả tín dụng cho vay đối với hộ nghèo tại NHCSXH huyệnQuan Hoá, nội dung của đề tài đã tập trung vào hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra là: 1. Luận giải tính tất yếu còn tồn tại một bộ phận người dân sống trong cảnh nghèo đói, cần có chính sách hỗ trợ người nghèo mà trong đó tín dụng là một giải pháp quan trọng. 2. Phân tích những vấn đề cơ bản về tín dụng và vai trò tín dụng đối với hộ nghèo, khái quát những  nội dung cơ bản của tín dụng đối với hộ nghèo. 3. Khái quát và đánh giá chính sách tín dụng của một số Ngân hàng nước ngoài, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm áp dụng vào thực tiễn. 4. Đánh giá thực trạng về tình hình nghèo đói và hiệu quả đầu tư của chính sách tín dụng đối với hộ nghèo. 5. Đánh giá khái quát tình hình hoạt động của NHCSXH huyện Quan Hoá từ đó rút ra kết quả đạt được và một số vấn đề còn tồn tại. 6. Từ phân tích thực trạng đề tài đã đề ra những giải pháp, kiến nghị, nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả tín dụng cho vay đối với hộ nghèo của NHCSXH huyện  Quan Hoá để góp phần xóa đói giảm nghèo. Tuy chỉ mới đi vào hoạt động trong khoảng thời gian là 10 năm nhưng Phòng giao dịch NHCSXH huyện Quan Hoá đã khắc phục mọi khó khăn, triển khai có hiệu quả một khối lượng công việc khá lớn, được chính quyền các cấp ghi nhận, đánh giá cao và tạo dựng được lòng tin với quần chúng nhân dân, từng bước khẳng định vị thế của NHCSXH trong việc thực hiện kênh tín dụng ưu đãi cho người nghèo góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của địa phương.   Bên cạnh những kết quả đạt được cần phải phát huy, hoạt động cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo của Phòng giao dịch NHCSXH huyện Quan Hoá vẫn còn những tồn tại, thiếu sót cần được khắc phục như chưa chủ động được nguồn vốn cho vay, nợ quá hạn nhận bàn giao từ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn còn để kéo dài chưa xử lý,… Tuy nhiên, cùng với sự chỉ đạo của Ban giám đốc, Ban đại diện, sự nỗ lực của cán bộ nhân viên Ngân hàng và sự phối hợp của chính quyền địa phương, Phòng giao dịch NHCSXH huyện Quan Hoá đã mạnh dạn nhìn nhận những khuyết điểm, tồn tại và đưa ra những biện pháp khắc phục để ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.           Trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành được nhiệm vụ của mình, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của quý thầy cô cũng như các bên đối tượng nghiên cứu Ngân hàng chính sách xã hội chi nhánh huyện Quan Hoá. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu những lĩnh vực rộng lớn và phức tạp, với vốn kiến thức còn hạn chế nên những nhận định của cá nhân em không sao tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của giáo viên hướng dẫn cũng như các thầy cô trong khoa Tài chính –Ngân hàng , Ban lãnh đạo ngân hàng NHCSXH huyện Quan Hoá.      Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô giáo Trường Đại học Kinh tế-Đại học Quốc Gia Hà Nội, quý thầy cô Khoa Kinh tế -Tài chính ngân hàng , đặc biệt là giảng viên hướng dẫn đề tài cô Nguyễn Thị Hải Hà đã hết lòng truyền thụ cho em những kiến thức quý báu. Em chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo NHCSXH huyện Quan Hoá, đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện cho em có được những thông tin quý báu phục vụ cho bài nghiên cứu,và đặc biệt là được tiếp xúc trực tiếp với các hộ gia đình nằm trong danh sách cho vay xoá đói giảm nghèo của ngân hàng để có cái nhìn khách quan hơn để khẳng định lại một cách chính xác các dự liệu ngân hàng đã cung cấp thông qua” phiếu điều tra về hoạt động tín dụng cho vay của ngân hàng chính sách xã hội huyện Quan Hoá”. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxnhung_final_0562.docx
Luận văn liên quan