Phân tích, tìm hiểu và vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, gắn liền với CNXH - tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo trong thực tiễn Việt Na

MỤC LỤC Trang Lời giới thiệu 3 I/ Người là hiện thân sáng chói của độc lập 5 dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 1) Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, 5 bất khả xâm phạm của các dân tộc. 2) Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai 6 cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước, với chủ nghĩa quốc tế II/ Người là mẫu mực của tinh thần độc lập tự 9 chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo III/ Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí 12 Minh về độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo trong thực tiễn Việt Nam hiện nay 1) Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ 12 Nghĩa xã hội 2) Phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực 18 tự cường, đổi mới và sáng tạo Kết luận 22 LỜI GIỚI THIỆU Trong lịch sử phát triển của các dân tộc bao giờ cũng có các vĩ nhân mà sự xuất hiện của họ gắn liền với những giai đoạn lịch sử đầy biến cố. Trong giai đoạn từ 1860-1870, chủ nghĩa đế quốc đã phát triển nhanh chóng ở các nước tư bản phương Tây trong khi các nước phương Đông như Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, mianma vốn có nền văn hóa phát triển sớm vẫn chìm sâu trong quan hệ sản xuất phong kiến trì trệ, lạc hậu. Chủ nghĩa đế quốc đã chuyển từ mở rộng thị trường buôn bán sang mở rộng xâm chiếm thuộc địa. Các nước châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh lần lượt bị các đế quốc Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha xâm lược. Đến giữa thế kỷ XIX, trước sự suy yếu của chế độ phong kiến nhà Nguyễn, đế quốc Pháp bắt đầu xâm lược nước ta. Nhà Nguyễn không có khả năng chống đỡ và nước ta nhanh chóng trở thành thuộc địa của Pháp. Tiếp sau đó là gần một thế kỷ nhân dân ta phải sống dưới sự cai trị hà khắc, tàn bạo của đế quốc Pháp và bọn địa chủ phong kiến.

doc21 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5300 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích, tìm hiểu và vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, gắn liền với CNXH - tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo trong thực tiễn Việt Na, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phân tích, tìm hiểu và vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo trong thực tiễn Việt Nam hiện nay MỤC LỤC Trang Lời giới thiệu 3 I/ Người là hiện thân sáng chói của độc lập 5 dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 1) Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, 5 bất khả xâm phạm của các dân tộc. 2) Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai 6 cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước, với chủ nghĩa quốc tế II/ Người là mẫu mực của tinh thần độc lập tự 9 chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo III/ Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí 12 Minh về độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo trong thực tiễn Việt Nam hiện nay 1) Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ 12 Nghĩa xã hội 2) Phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực 18 tự cường, đổi mới và sáng tạo Kết luận 22 LỜI GIỚI THIỆU Trong lịch sử phát triển của các dân tộc bao giờ cũng có các vĩ nhân mà sự xuất hiện của họ gắn liền với những giai đoạn lịch sử đầy biến cố. Trong giai đoạn từ 1860-1870, chủ nghĩa đế quốc đã phát triển nhanh chóng ở các nước tư bản phương Tây trong khi các nước phương Đông như Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, mianma…vốn có nền văn hóa phát triển sớm vẫn chìm sâu trong quan hệ sản xuất phong kiến trì trệ, lạc hậu. Chủ nghĩa đế quốc đã chuyển từ mở rộng thị trường buôn bán sang mở rộng xâm chiếm thuộc địa. Các nước châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh lần lượt bị các đế quốc Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha xâm lược. Đến giữa thế kỷ XIX, trước sự suy yếu của chế độ phong kiến nhà Nguyễn, đế quốc Pháp bắt đầu xâm lược nước ta. Nhà Nguyễn không có khả năng chống đỡ và nước ta nhanh chóng trở thành thuộc địa của Pháp. Tiếp sau đó là gần một thế kỷ nhân dân ta phải sống dưới sự cai trị hà khắc, tàn bạo của đế quốc Pháp và bọn địa chủ phong kiến. Trước bối cảnh nước sôi lửa bỏng của dân tộc, ngày 5 tháng 6 năm 1911, tại bến Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Và sau 30 năm bôn ba trên khắp thế giới, ngày 28 tháng 1 năm 1941, Nguyễn Tất Thành đã trở về nước thành lập một chính Đảng cách mạng chân chính ở Việt Nam và Người đã cùng Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cả cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đát nước, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bất công, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Trong bài diễn văn tại lễ kỷ niệm 105 năm ngày sinh của chủ tịch Hồ chí Minh có viết: “Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường đổi mới và sáng tạo”. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả tình cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là niềm vinh dự, tự hào đối với mỗi cán bộ, Đảng viên và mỗi người Việt Nam. I/ Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội Tư tưởng hồ Chí Minh về độc lập dân tộc được thể hiện trên những luận điểm cơ bản sau: 1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc. Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước luôn đứng ở hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần truyền thống Việt nam. Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự chà đạp của ngoại bang lên tự do độc lập của đất nước, được kết tinh hun đúc từ tinh thần yêu nước nồng nàn của người dân nước Việt, Hồ Chí Minh cho rằng: đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của tổ quốc, tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ chí Minh đã tiếp cận những tư tưởng bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập 1766 của Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp. Từ những tinh hoa của dân tộc và thế giới, người đã khái quát nên chân lý bất di bất dịch, lẽ phải không ai có thể chối cãi được: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Đây là một tư tưởng vĩ đại, chẳng những mang tính quốc tế, tính thời đại rộng lớn mà còn mang tính nhân văn sâu sắc. Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh phải là độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn. Tức là dân tộc đó phải có đầy đủ chủ quyền ( về chính trị, kinh tế, an ninh… ) và toàn vẹn lãnh thổ, chứ không phải là chiếc bánh vẽ mà người khác ( bọn thực dân, đế quốc ) bố thí. Độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, theo Người, phải được hiểu một cách đơn giản: nước Việt Nam là của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết. Và giá trị đích thực của độc lập dân tộc phải được thể hiện bằng quyền tự do hạnh phúc của nhân dân, mà theo Người, độc lập dân tộc là đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Tư tưởng độc lập dân tộc, khát vọng độc lập dân tộc của Người được thể hiện ở tinh thần “thà hy sinh tất cả”, “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn” và vượt lên tất cả là tinh thần “không có gì quí hơn độc lập tự do.” Có thể nói, tinh thần “không có gì quí hơn độc lập tự do” là tư tưởng và lẽ sống của Hồ Chí Minh. Nó là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Vì lẽ đó, Người không chỉ được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ 20” 2. Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại ở cuộc đấu tranh để dành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự nghiệp cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn mà thôi. Bởi có độc lập, tự do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền độc lập tự do ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Hồ chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục của nhân dân Việt Nam trong thời thực dân phong kiến. Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người, theo Hồ Chí Minh là phải xóa bỏ nghèo nàn lạc hâu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người. Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của chủ tịch Hồ Chí Minh và là ước nguyện mong mỏi bao đời nay của nhân dân Việt Nam. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Thực hiện ước nguyện đó, theo chủ tịch Hồ chí Minh chính là nhằm giải quyết một cách triệt để và thiết thực vấn đề dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến. Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc với giai cấp, Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận điểm mới và sáng tạo, góp phần bổ sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác Lenin. Theo Người, ở các nước thuộc địa “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Người phân tích, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển nên sự phân hoá giai cấp ở nước ta và nhiều nước thuộc địa khác chưa triệt để, mâu thuẫn chưa đến mức đối kháng quyết liệt. Ở những nước thuộc địa như nước ta, mâu thuẫn giữa dân tộc với chủ nghĩa đế quốc quyết liệt hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ, giữa công nhân với tư sản. Do đó, trong bối cảnh này không thể giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phương Tây được, mà chỉ có thể giải phóng Dân tộc mới giải phóng được giai cấp, quyền lợi dân tộc, đất nước phải đặt lên trên quyền lợi giai cấp. Xuất phát từ luận điểm trên, Hồ Chí Minh từng kiến nghị Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản theo hướng phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản,  khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng, nhất định nó sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế. Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để ngọn cờ dân tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế.     Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, là phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngay từ khi tiếp cận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã hình thành đường lối cứu nước: giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH. Người nói: “ Cả hai cuộc giải phóng này (dân tộc và giai cấp) chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.” Tiếp đó, ngay trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng cộng sảnViệt Nam tháng 2/1930, Hồ Chí Minh đã xác định Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc-dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa phản ảnh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Xoá bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Do đó giành được độc lập rồi, thì phải tiến lên CNXH, vì mục tiêu của CNXH là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy, ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.      Là một chiến sỹ quốc tế chân chính, xuất phát từ quan điểm độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập dân tộc của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn gắn liền với chủ nghĩa quốc tế cao cả, trong sáng. Người nói: “ Chúng ta phải tranh đấu cho tự do độc lập của các dân tộc khác như là  tranh đấu cho dân tộc ta vậy.” Chủ trương “ giúp bạn là tự giúp mình”, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Với Người, phải thông qua thắng lợi của Cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của Cách mạng thế giới. Về quan hệ quốc tế, Người tuyên bố với thế giới: “Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa sắn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới.”      Tựu trung, Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa học đúng đắn, vừa có tính chất cách mạng, mang đậm tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập dân tộc cho mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. II/ Người là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo. Hơn sáu mươi năm hoạt động cách mạng sôi nổi và sáng tạo, Người đã tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với truyền thống yêu nước Việt Nam, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường dân tộc, tìm thấy con đường cứu nước và giải phóng dân tộc duy nhất đúng đắn là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Con đường đó được vạch ra từ mùa xuân năm 1930, trong những văn kiện do Người soạn thảo được Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thông qua, trở thành cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Với cương lĩnh đó, những nét lớn trong Tư tưởng Hồ Chí Minh đã hình thành và con đường cứu nước của Việt Nam đã được khẳng định. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự thể hiện rõ nét nhất tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong điều lệ tạm thời của Hội liên hiệp công nhân quốc tế năm 1864 do Mác khởi thảo, một tư tưởng cơ bản được nêu lên là: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải do bản thân giai cấp công nhân giành lấy”. Hơn 60 năm sau, trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa, Hồ Chí Minh viết: “Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng của anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Người vạch rõ tính chủ động của cách mạng thuộc địa đối với cách mạng chính quốc: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Người đã chỉ ra để mỗi người dân Việt Nam hiểu rằng ta phải tự lực, làm cách mạng giải phóng mình, không nên trông chờ “Công nông cách mạng Pháp thành công thì nhân dân Việt Nam sẽ được tự do” mà cần chủ động “An Nam dân tộc cách mệnh thành công, thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ”. Chính những luận điểm sáng tạo mới mẻ đó đã dẫn chủ tịch Hồ Chí Minh đến những quyết định lịch sử. Tháng 8/1945, khi thời cơ xuất hiện, Người ra lời kêu gọi “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Thắng lợi của cách mạng tháng tám là thắng lợi của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường và sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Na, chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. từ những năm 20 của thế kỷ trước, trong khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác, Hồ chí Minh đã nêu rõ rằng ở phương Đông có những đặc điểm khác với phương Tây mà thời mình Mác chưa có điều kiện nghiên cứu, đồng thời mỗi dân tộc lại có những đặc điểm riêng. Trong những năm kháng chiến chống xâm lược, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần “Dựa vào sức mình là chính”. nếu như trong đấu tranh giành chính quyền, Người đòi hỏi phải “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” thì những năm kháng chiến chống xâm lược, tư tưởng ấy của Người là “Dân ta phải giữ nước ta”. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người chỉ rõ: “Trước đây, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng chiến, thì ngày nay chúng ta phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà”. Nhân dân Việt Nam và tất cả những người yêu chuộng hòa bình trên thế giới đều biết đến câu nói mang tính thời đại của Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. người nhấn mạnh: “Mỗi một người dân phải hiểu: có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do”. Với chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn, độc lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập, đứng một mình. Ngay từ năm 1947, Người đã chủ trương: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với ai”. Người đề cao việc học tập, tiếp thu sáng kiến kinh nghiệm của các đảng anh em, đồng thời phê phán mọi sự sao chép, giáo điều. Tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, đổi mới và sáng tạo. Trung thành và vận dụng sáng tạo Tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân vượt qua những thử thách to lớn, đặc biệt là vào thời điểm chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Đảng và nhân dân ta luôn kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ngay trong lúc sóng to gió cả, nghiêm túc học tập bạn bè, những nước đi trước, những kinh nghiệm hay và phù hợp nhưng không sao chép, dập khuôn; đã xác định đường lối đổi mới và bước đi thích hợp. Thắng lợi của 17 năm đổi mới là thắng lợi của việc vận dụng sáng tạo và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết trong việc xác định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, trong giáo dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên. III/ Vận dụng và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội và tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo trong thực tiễn hiện nay của Việt Nam. 1. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội a) Giữ vững độc lập dân tộc trong giai đoạn hiện nay Ngày nay, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” vẫn giữ nguyên giá trị và sức sống của nó. Bởi lẽ, cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và bình đẳng của các dân tộc từng là thuộc địa của đế quốc vẫn chưa đi đến hồi kết. Các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh sau khi giành được độc lập đều phải đương đầu với những khó khăn lớn về mặt kinh tế. Các nước tư bản với sức mạnh tài chính hùng hậu cùng với kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã xâm nhập, chi phối nền kinh tế của những nước đang phát triển. Từ đó, từng bước tiến hành chi phối về chính trị, biến các nước đang phát triển trở thành những nước bị lệ thuộc, không giữ được độc lập tự chủ, bị tái thuộc địa hóa dưới sự kiểm soát và chi phối của một thứ chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Về chính trị, kinh tế: dưới tác động của cuộc cách mạng thông tin và tài chính, kinh tế thị trường đã mở rộng ra phạm vi toàn cầu. Hàng hóa, dịch vụ, tư bản, thông tin, công nghệ của các tập đoàn tư bản độc quyền xuyên quốc gia dưới nhiều hình thức khác nhau đã vượt qua các đường biên giới, thâm nhập sâu vào nền kinh tế nội địa, vào tâm lý và lối sống của người dân mỗi nước. Bên cạnh đó, tham gia vào làn sóng tập hợp các quốc gia theo địa lý, sự ra đời các tổ chức kinh tế chung, các khu vực mậu dịch tự do…các quốc gia đều thực thi chính sách mở cửa, hội nhập với mạng lưới trao đổi kinh tế và tài chính toàn cầu. Tất cả những hiện tượng trên làm cho quan niệm về độc lập, chủ quyền quốc gia có nhiều điểm khác trước. Trên một chừng mực nào đó, các quốc gia đều phụ thuộc lẫn nhau, trước hết là về kinh tế. Nước nào tạo được cho mình một tư thế quốc tế năng động, linh hoạt, càng đa dạng hóa được mối quan hệ ngoại giao thì càng có khả năng thực hiện được chính sách độc lập tự chủ. Nước nào càng tận dụng được những lợi thế tương đối của mình để tranh thủ được vị trí tối ưu trong hệ thống phân công lao động quốc tế thì càng giữ được quyền độc lập tự chủ về kinh tế lớn hơn. Trong xu thế phát triển hiện nay, nước ta có nguy cơ bị tụt hậu xa so với nhiều nước trong khu vực do xuất phát điểm thấp lại phải đương đầu với sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường..Vì vậy, Việt Nam phải tạo ra một năng lực nội sinh làm nền tảng cho sự phát triển bền vững, xây dựng được các quan hệ quốc tế ổn định, thuận lợi cả về kinh tế, chính trị và an ninh, lựa chọn đúng các đối tác quốc tế và mở rộng thị trường. Nhưng để độc lập với các đối tác trong cuộc cạnh tranh kinh tế toàn cầu, cần phải có chính sách khôn khéo và chiến lược thông minh cân bằng những tác động và áp lực từ bên ngoài. Về văn hóa: mạng lưới viễn thông toàn cầu phát triển, các phương tiện thông tin đại chúng có khả năng truyền bá tin tức nhanh chóng, tác động sâu rộng đến mọi nơi trên thế giới. Internet cung cấp những thông tin vô cùng cần thiết cho sự phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật cho các quốc gia trên thế giới, song đi kèm theo đó là không ít những mặt tiêu cực. trong một thế giới nguồn lực thông tin phát triển, độc lập tự chủ thể hiện ở năng lực điều chỉnh các luồng giao lưu, trao đổi và ra quyết định với thế giới bên ngoài, làm chủ được các quan hệ và lợi ích đan xen, tạo cho mình một thế đứng có thể giao tiếp và hợp tác bình đẳng với mọi phía. Với chính sách mở rộng giao lưu quốc tế, những cuộc giao lưu văn hóa với nước ngoài cũng gia tăng mạnh mẽ. nhưng dân tộc ta không những không bị đồng hóa mà vẫn giữ gìn và phát huy được ngày càng cao hơn bản sắc văn hóa của dân tộc. Tiếp nhận những tinh hoa của nhân loại, ngăn chặn mặt tiêu cực thâm nhập, đồng thời phát huy được nhừng giá trị xã hội và truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình, đó chính là bản lĩnh, ý thức tự chủ, cốt cách và tinh thần độc lập của dân tộc Việt Nam mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển một cách sâu sắc. Về an ninh quốc phòng: Sự quốc tế hóa các chính sách an ninh là một đặc điểm mới của thế giới. Nhiều nước tham gia hợp tác về an ninh khu vực, an ninh toàn cầu. Ngoài những mối đe dọa quân sự truyền thống do mâu thuẫn về ý thức hệ, đất đai lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên còn có những mối đe dọa phi quân sự làm mất an ninh như xung đột sắc tộc, khủng bố, buôn lậu, ma túy…Nguy cơ đe dọa chủ quyền, an ninh, toàn vẹn lãnh thổ không chỉ đến từ bên ngoài mà còn nằm trong lãnh thổ, không chỉ nảy sinh từ những nguyên nhân chính trị xã hội mà còn từ chính những sai lầm trong các chính sách kinh tế, văn hóa, tôn giáo, sắc tộc, ngoại giao… Trong bối cảnh hiện nay, để đảm bảo vững chắc độc lập chủ quyền, an ninh quốc phòng cũng như toàn vẹn lãnh thổ của đát nước, cần phải có sức mạnh tổng hợp bao gồm nhiều yếu tố, đó là sự vững chắc về chính trị, sức mạnh quân sự, kinh tế, khoa học công nghệ, giáo dục, bản sắc văn hóa, chính sách ngoại giao và trên hết là năng lực tư duy độc lập và sáng tạo trong quá trình hoạch định chính sách, đường lối và chiến lược. Sức mạnh của một quốc gia là phải luôn giữ vững quyền độc lập tự chủ trên cơ sở làm chue được các quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, làm chủ được mạng lưới thống nhất các quan hệ đan xen và các lợi ích, tức là khả năng tham dự ngày càng sâu rộng vào các cuộc cạnh tranh (kinh tế, văn hóa, ngoại giao, an ninh…) và quản lý tốt sự cam kết vào những mặt trận ấy trong những điều kiện luôn thay đổi. Đất nước ta trải qua 20 năm xây dựng, nền độc lập đã được củng cố vững chắc nhưng nguy cơ xung đột khu vực và chiến tranh cục bộ vẫn tồn tại, đặc biệt là khu vực biển Đông tại 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Vấn đề giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ vẫn là vấn đề cấp thiết. vì vậy phải luôn quán triệt 2 nhiệm vụ chiến lược, xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ tổ quốc. Ra sức phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học là nhiệm vụ hàng đầu; đồng thời phải thường xuyên chăm lo củng cố quốc phòng, an ninh, sẵn sàng đánh bại mọi hoạt động gián điệp, âm mưu bạo loạn lật đổ, xâm lược, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ công cuộc lao động hòa bình của nhân dân ta. b) Kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt nam đã khẳng định đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân tiến lên chủ ngjĩa xã hội là con đường duy nhất đúng đắn, phản ánh đúng quy luật phát triển của xã hội Việt Nam, đã đưa Đảng và nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác suốt từ năm 1930 đến nay. Chính vì vậy, trước sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, Đảng ta vẫn xác định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động, tiếp tục con đường mà Bác Hồ đã chọn, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không để đất nước đi chệnh con đường chủ nghĩa xã hội, con đường thật sự đem lại tự do và hạnh phúc cho dân tộc. Vấn đề đặt ra là cần phải nhận thức đúng về chủ nghĩa xã hội, loại bỏ những quan niệm sai lầm, giáo điều, chủ quan, duy ý chí để tìm ra con đường tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội đúng quy luật, đúng với đặc điểm của mỗi nước và của thời đại. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu chỉ do sai lầm, khuyết tật của mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Xô Viết. Xuất phát từ thực tiễn nền sản xuất thế giới đang chuyển từ cách mạng công nghiệp sang cách mạng thông tin, đòi hỏi tính xã hội hóa cao của sản xuất mà Đảng ta đã phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đề ra đường lối đổi mới sáng tạo, mở cửa và xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với quy luật, đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng và tiến lên. Chủ tịch hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đặc điểm lớn nhất của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là từ một nước nông nghiệp lạc hậu, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Nước ta không những là một nước lạc hậu nghèo nàn mà còn trải qua một cuộc chiến tranh lâu dài, khốc liệt để giành độc lập tự do. Cho nên chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là một công cuộc hết sức khó khăn. Vì vậy, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh là động viên toàn dân, dựa vào sức mạnh của toàn dân. Phải coi trọng công tác chính trị, tư tưởng, giáo dục, phát động ý thức dân tộc, phát huy ý chí kiên cường, tinh thần quật khởi không cam chịu đói nghèo lạc hậu; động viên mọi người dân Việt Nam cùng nhau đoàn kết, đem hết tâm huyết, tinh thần và nghị lực, của cải, tài năng đóng góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước, làm cho đất nước sớm đuổi kịp các nước có nền kinh tế phát triển trong khu vực và trên thế giới. Từ một nước kinh tế lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải hết sức coi trọng phát triển lực lượng sản xuất, đặc biệt là lực lượng lao động với tư cách là lực lượng sản xuất quan trọng nhất. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, phải ra sức thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà Đảng đã đề ra. Khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế, từ kinh tế nhà nước, hợp tác xã, cho đến kinh tế hộ gia đình nông dân, tiểu thương, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân…Ra sức đẩy mạnh sản xuất nhưng phải quán triệt tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh là sản xuất phải đi đôi với tiết kiệm. Chúng ta coi cần kiệm xây dựng đất nước là một khẩu hiệu xuyên suốt trong mọi nơi, mọi ngành, mọi lĩnh vực, mọi con người Việt nam. Xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trọng tâm phải quán triệt tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng, không chủ nghĩa kinh tế đơn thuần. Thực hiện chính sách công bằng xã hội làm cho người dân ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, ốm đau được chữa bệnh. Đẩy mạnh phong trào xóa đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và sự khác biệt về trình độ phát triển giữa các tầng lớp xã hội. Tiếp tục giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh, nghiên cứu xây dựng chuẩn mực đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phải làm cho mỗi con người Việt Nam vẫn giữ vững lý tưởng hoài bão xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, vì hạnh phúc của mọi người. Coi trọng giáo dục xây dựng nếp sống xã hội tốt đẹp, gia đình văn hóa, phát triển phong trào người tốt việc tốt, phát huy nếp sống văn hóa Việt Nam: nhân ái, tình nghĩa, đoàn kết, hòa hiếu, tôn trọng kỷ cương phép nước, không những biết sống vì mình mà trước hết biết sống vì nhân dân, tổ quốc. Chống lại mọi hủ bại tiêu cực làm cho xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Ngoài ra, cần chú ý đến yêu cầu phát triển bền vững, bền vững về xã hội và bền vững về sinh thái. Bền vững về xã hội là kinh tế tăng trưởng nhưng xã hội vẫn ổn định, không có những xáo trộn làm ảnh hưởng đến việc huy động mọi lực lượng xã hội vào quá trình phát triển. Bền vững về sinh thái là quá trình tăng trưởng kinh tế nhưng đồng thời bảo vệ được các nguồn lợi thiên nhiên và môi trường sinh thái cho thế hệ hiện nay và các thế hệ tương lai. Nói tóm lại, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì vấn đề là “Tất cả do dân, tất cả vì dân”, dựa vào sức mạnh vĩ đại của nhân dân làm nền tảng cho sự phát triển bền vững của dân tộc ta. 2. Phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo Hiện nay trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trước tình hình thế giới diễn biến phức tạp, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hơn bao giờ hết càng phải phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế, chúng ta đang tận dụng mọi khả năng để thu hút ngày một nhiều hơn các nguồn lực bên ngoài, nhưng cần khẳng định rằng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết là sự nghiệp của bản thân nhân dân ta, do trí tuệ và sức lực của nhân dân ta. Văn kiện Đại hội IX có viết: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách…Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”. Độc lập tự chủ biểu hiện trên tất cả các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa…Độc lập tự chủ về chính trị thể hiện quyền tự quyết của dân tộc trong việc xây dựng thể chế, đường lối phát triển riêng của đất nước, căn cứ vào hoàn cảnh, điều kiện đặc thù của dân tộc cũng như bối cảnh lịch sử của khu vực và thế giới. Đó còn là việc giữ vững chủ quyền quốc gia dân tộc, không chịu sự chi phối hay áp đặt của quốc gia khác. Độc lập tự chủ về kinh tế là tự chủ về đường lối phát triển kinh tế, đảm bảo nền kinh tế đủ sức đứng vững và ứng phó được với các tình huống phức tạp. Độc lập tự chủ về văn hóa có nghĩa là giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại. Độc lập tự chủ trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội liên quan mật thiết và gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp của đất nước. Độc lập tự chủ được hiểu là sự phát huy cao nhất nội lực dân tộc, không bị lệ thuộc vào nhân tố bên ngoài. Độc lập tự chủ không có nghĩa là từ chối mọi sự giao lưu, phát triển khép kín, biệt lập, “Tự cung tự cấp”, mà là phát huy, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, tăng cường, tận dụng các mối quan hệ hợp tác, liên kết, phụ thuộc lẫn nhau trên cơ sở cùng có lợi. Thực tiễn cho thấy, kinh tế của một quốc gia, khu vực càng phát triển thì càng có sự phụ thuộc vào các nền kinh tế, các khu vực khác trên thế giới. Sự phụ thuộc này không có nghĩa là mất đi tinh thần độc lập tự chủ; cũng không có nghĩa phụ thuộc càng nhiều thì càng phải nhượng bộ. Vậy làm thế nào để giữ vững và phát huy tinh thần độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa khi nền kinh tế của các nước trên thế giới ngày càng hội nhập và phụ thuộc vào nhau nhiều hơn trong khi hệ thống kinh tế quốc tế còn tồn tại nhiều bất hợp lý? Với lợi thế là những nước đi trước, các nước tư bản phát triển có những ưu thế độc quyền về vốn, kỹ thuật, công nghệ…, đã và đang thao túng trật tự kinh tế quốc tế. Các nước kém phát triển đi sau phải tuân theo những nguyên tắc, luật lệ, quy chuẩn đã được đề ra. Làm sao giữ vững và làm chủ được thế trận, lợi ích của mình, ứng phó chủ động với những rủi ro, không để xảy ra thua thiệt, thất bại và thu được lợi khi phải đối diện với nhiều sức ép, thách thức bủa vây như vậy? Câu trả lời thuộc về chính bản thân mỗi quốc gia. Nếu không giữ vững tinh thần độc lập tự chủ trước, trong và sau khi tham gia quá trình toàn cầu hóa thì sẽ đi chệch hướng, tự bật ra khỏi quý đạo phát triển, nền kinh tế dễ bị chao đảo trước những biến động bên ngoài. Chúng ta chỉ có thể giữ vững được độc lập tự chủ khi có đủ bản lĩnh, nội lực. Nhưng để có đủ bản lĩnh, phát huy cao nhất tiềm lực vốn có của dân tộc thì phải hiểu sâu sắc luật lệ của WTO khi nước ta tham gia vào tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này. Nắm bắt đầy đủ môi trường kinh tế, luật pháp cũng như xu hướng chính trị của đối tác; nhận thức, dự báo được những biến động đó, rút ra những bài học của các nước đi trước; đổi mới và có sự bứt phá tư duy hội nhập; đấu tranh, thương lượng trên cơ sở bảo đảm độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Độc lập tự chủ trong hội nhập cũng có nghĩa là biết học tập, tiếp thu kinh nghiệm của các nước. Trên cơ sở đó, cải biến, sáng tạo những giá tri mới, mang đậm bản sắc, phong cách dân tộc. Để có thể hòa vào dòng chảy trình độ phát triển chung của thế giới, chúng ta cần nhận rõ thế và lực cũng như những hạn chế yếu kém của chúng ta hiện nay; đổi mới sâu sắc và tự chủ trong nhận thức, tư duy và hành động, biến những cái riêng, đặc thù của ta thành lợi thế, mũi nhọn chủ lực; phát huy các giá trị truyền thống, tiếp thu những thành quả khoa học-công nghệ hiện đại, phù hợp với đặc điểm và điều kiện đất nước; tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài kết hợp với nội lực tạo thành sức mạnh, tìm được vận hội cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bắt kịp với sự phát triển chung của thế giới; tránh xu hướng nóng vội, chủ quan hay chần chừ, do dự bởi nếu vậy, khi bước vào thị trường kinh tế quốc tế rộng lớn sẽ bị thiệt nhiều hơn là được lợi; cần chủ động tạo nguồn nhân lực có phẩm chất, trình độ, bản lĩnh vững vàng cho sự hội nhập; chuẩn bị tốt về pháp luật, cơ chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi, trong sạch cho đầu tư, kinh doanh, phát huy tối đa năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân; tránh đầu tư dàn trải, không thích hợp. Thực tiễn cho thấy, một số ngành mà nhà nước đầu tư nhiều khi không mang lại hiệu quả. Trong khi đó, một số ngành tuy không được nhà nước bảo hộ, nhưng lại mang về lợi nhuận cao. Đặc biệt, cần có lộ trình hội nhập theo định hướng chiến lược phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. KẾT LUẬN Chúng ta đang chuẩn bị hội nhập toàn diện nền kinh tế thế giới với những cơ hội và khó khăn, thách thức đòi hỏi sự độc lập sáng tạo trong tư duy và hành động của toàn Đảng, toàn dân. Không có một mô hình, mẫu hình chung bất biến nào được áp dụng một cách máy móc, cứng nhắc đối với mỗi nước. Sự đặc thù làm nên tính sáng tạo. Chúng ta sẵn sàng tham gia toàn diện vào sự phân công và trao đổi quốc tế với tinh thần độc lập tự chủ cao nhất. Tham gia WTO không phải là đích cuối cùng mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục tiêu phát triển. Và bài học luôn đặt ra là dù tiến hành hội nhập theo cách nào cũng phải giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích, tìm hiểu và vận dụng, phát triển tư tưởng HCM về độc lập dân tộc, gắn liền với CNXH; tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và .DOC
Luận văn liên quan