Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đang trong thời kì quá độ lên CNXH, Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà thực tế cho thấy chưa có một nước nào thành công trong phát triển kinh tế thị trường lại thiếu khu vực kinh tế tư nhân, khu vực kinh tế tư nhân như một động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển trong nền kinh tế thị trường. Khu vực kinh tế tư nhân đang thực sự trở thành một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế- xã hội ở nước ta. Vai trò tích cực của kinh tế tư nhân ở nước ta đã được nhận định ở Nghị Quyết TƯ 5 khoá IX:” Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm lượng công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện các chủ trương xã hội hoá y tế, văn hoá, giáo dục ”[1]Trước vai trò to lớn của kinh tế tư nhân việc đòi hỏi cần phải nhận thức một cách đúng đắn khu vực kinh tế tư nhân được đặt ra ngày càng trở nên bức thiết hơn. Đó chính là động lực thúc đẩy em lựa chọn đề tài: "Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam" Trong bài viết này em tập trung vào việc làm rõ hơn nữa về khái niệm kinh tế tư nhân, xác định rõ vị trí, vai trò của khu vực kinh tế này, đồng thời nêu lên thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay để từ đó đưa ra được những giải pháp phát triển phù hợp kinh tế tư nhân nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của khu vực kinh tế tư nhân. Em xin trân thành cảm ơn PGS,TS.ĐÀO PHƯƠNG LIÊN đã hướng dẫn em hoàn thành bài viết này. Là sinh viên năm nhất, kiến thức còn hạn chế nên đề án này khó tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các bạn sinh viên và các thầy giáo, cô giáo để đề án được hoàn chỉnh hơn, đồng thời giúp em bổ sung,hoàn thêm kiến thức và kinh nghiệm của mình. Em xin chân thành cảm ơn. [1] Đảng cộng sản Vịêt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr55-56.

doc34 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5795 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đang trong thời kì quá độ lên CNXH, Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà thực tế cho thấy chưa có một nước nào thành công trong phát triển kinh tế thị trường lại thiếu khu vực kinh tế tư nhân, khu vực kinh tế tư nhân như một động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển trong nền kinh tế thị trường. Khu vực kinh tế tư nhân đang thực sự trở thành một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế- xã hội ở nước ta. Vai trò tích cực của kinh tế tư nhân ở nước ta đã được nhận định ở Nghị Quyết TƯ 5 khoá IX:” Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm lượng công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện các chủ trương xã hội hoá y tế, văn hoá, giáo dục…” Đảng cộng sản Vịêt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr55-56. Trước vai trò to lớn của kinh tế tư nhân việc đòi hỏi cần phải nhận thức một cách đúng đắn khu vực kinh tế tư nhân được đặt ra ngày càng trở nên bức thiết hơn. Đó chính là động lực thúc đẩy em lựa chọn đề tài: "Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam" Trong bài viết này em tập trung vào việc làm rõ hơn nữa về khái niệm kinh tế tư nhân, xác định rõ vị trí, vai trò của khu vực kinh tế này, đồng thời nêu lên thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay để từ đó đưa ra được những giải pháp phát triển phù hợp kinh tế tư nhân nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của khu vực kinh tế tư nhân. Em xin trân thành cảm ơn PGS,TS.ĐÀO PHƯƠNG LIÊN đã hướng dẫn em hoàn thành bài viết này. Là sinh viên năm nhất, kiến thức còn hạn chế nên đề án này khó tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các bạn sinh viên và các thầy giáo, cô giáo để đề án được hoàn chỉnh hơn, đồng thời giúp em bổ sung,hoàn thêm kiến thức và kinh nghiệm của mình. Em xin chân thành cảm ơn. 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM. 1.1. KINH TẾ TƯ NHÂN. 1.1.1. Khái niệm. Kinh tế tư nhân là khái niệm chỉ khu vực bao gồm các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc nhóm các thành phần kinh tế tư nhân. Tiêu thức cơ bản để xác định một thành phần kinh tế, một hình thức tổ chức sản xuất nào đó có thuộc kinh tế tư nhân hay không là quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu. Từ đó cho thấy kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất với các hình thức tổ chức kinh doanh như: doanh nghiệp, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp doanh, các cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ. Kinh tế tư nhân không phải là một thành phần kinh tế mà là phạm trù để chỉ nhóm các thành phần kinh tế, gồm các thành phần sau: Kinh tế cá thể là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình. Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa trên sức lao động và vốn của bản thân và gia đình. Kinh tế tư bản tư nhân là hình thức kinh tế mà sản xuất, kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. Dựa trên đặc điểm của từng thành phần kinh tế trên mà áp dụng phương thức kinh doanh cho phù hợp với từng lĩnh vực.Kinh tế cá thể, tiểu chủ đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành, nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Do đó, việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế cá thể và tiểu chủ cần được khuyến khích. Hiện nay ở nước ta, các hình thức kinh tế này hoạt động dưới hình thức hộ gia đình, đang là một bộ phận đông đảo, có tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng, lâu dài nó góp phần tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, giải quyết nhiều việc làm cho người lao động- một vấn đề bức bách hiện nay của đời sống kinh tế-xã hội. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, kinh tế cá thể, tiểu chủ dù cố gắng đến bao nhiêu cũng không thể loại bỏ được những hạn chế vốn có như: tính tự phát, manh mún, hạn chế về kỹ thuật. Do đó Đảng chỉ rõ: cần giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ, giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm. “Nhà nước tạo điều kiện để giúp đỡ và phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.” - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, kinh tế tư bản tư nhân còn có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hóa sản xuất cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội. Kinh tế tư bản tư nhân rất năng động, nhạy bén với kinh tế thị trường, do đó sẽ có đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước. Hiện nay, kinh tế tư bản tư nhân bắt đầu có sự phát triển nhưng phần lớn tập trung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ và kinh doanh bất động sản; đầu tư vào sản xuất còn ít và chủ yếu quy mô vừa và nhỏ. Chính sách của Đảng và Nhà nước ta là khuyến khích tư bản tư nhân bỏ vốn phát triển sản xuất, đáp ứng các nhu cầu của dân cư. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ; xóa bỏ định kiến và tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng, về khoa học công nghệ, về đào tạo cán bộ ... cho kinh tế tư bản tư nhân. Tuy nhiên, kinh tế tư bản tư nhân có tính tự phát rất cao. Đầu cơ, buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả... là những hiện tượng thường xuất hiện ở kinh tế tư bản tư nhân. Điều đó đói hỏi phải tăng cường quản lý đối với kinh tế tư bản tư nhân. 1.1.2. Bản chất của kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân thể hiện qua quan hệ sở hữu tư nhân về tư liện sản xuất cũng như phần của cải vật chất được tạo ra từ tư liệu sản xuất hay vốn đó. Nó gồm: Sở hữu tư nhân nhỏ là sở hữu của những người lao động tự do sản xuất ra sản phẩm nhờ lao động của chính mình và các thành viên trong gia đình như thợ thủ công, tiểu thương, các hộ nông dân ... Sở hữu tư nhân lớn của các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Xuất phát từ quan hệ sở hữu của kinh tế tư nhân, quan hệ kinh tế của khu vực kinh tế này cũng bao gồm quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ và quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân lớn: Quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ là quan hệ dựa trên sự tự tổ chức, điều hành, phân phối công việc trong nội bộ gia đình, giữa các thành viên gia đình với nhau. Quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân lớn là quan hệ quản lý giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý và khách thể quản lý, giữa người quản lý và người bị quản lý. Trong kinh tế tư nhân, quan hệ phân phối dựa trên cơ sở các loại hình sở hữu tư nhân khác. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh mà người sở hữu đồng thời là người trực tiếp lao động, không thuê mướn nhân công thì phân phối kết quả sản xuất là tự phân phối trong nội bộ chủ thể kinh tế đó. Còn đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh lớn, chủ sở hữu tư liệu sản xuất sử dụng lao động của lao động làm thuê thì phân phối kết quả sản xuất căn cứ vào sở hữu giá trị, tức là giá trị sức lao động của lao động làm thuê và sở hữu tư bản. Tất nhiên, trong các chế độ xã hội chính trị khác nhau thì quan hệ phân phối của kinh tế tư nhân cũng có sự khác biệt nhất định. 1.2 TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA SỰ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở NƯỚC TA. Mỗi thành phần kinh tế không thể tự tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hoá một cách bình thường, nếu không thực hiện những mối quan hệ trong nội bộ từng thàh phần và giữa các thành phần kinh tế, các khu vực kinh tế chỉ có thể tồn tại và phát triển trong mối quan hệ phụ thuộc vào nhau qua các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Các thành phần kinh tế, khu vực kinh tế vừa cạnh tranh với nhau, vừa hợp tác, hỗ trợ, thúc đẩy nhau, là tiền đề phát triển của nhau theo cơ chế thị trường trong nền kinh tế thống nhất. Do đó, kinh tế tư nhân trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nó có vai trò rất lớn trong nền kinh tế thể hiện trên những vấn đề sau: Kinh tế tư nhân có đóng góp quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Kinh tế tư nhân cung cấp cho xã hội các sản phẩm vật chất và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu về đời sống, nhu cầu cho quá trình tái sản xuất của xã hội. Kinh tế tư nhân đã huy động được nhiều nguồn lực đang có của đất nước, như vấn đề vốn và về nguồn lao động. Khu vực kinh tế tư nhân đã huy động được một nguồn vốn lớn và giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động trên cả nước. Phát triển kinh tế tư nhân góp phần xoá đói, giảm nghèo, tăng thu ngân sách cho Nhà Nước. Kinh tế tư nhân góp phần quan trọng để tạo việc làm tại chỗ cho gia đình và địa phương, đem lại thu nhập cho người lao động. Mức thu nhập của khu vực kinh tế tư nhân tuy thấp hơn doanh nghiệp nhà nước nhưng cao hơn khu vực kinh tế tập thể. Nhận thấy được tầm quan trọng của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên việc khuyến khích, phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là việc làm cấp thiết làm đẩy nhanh quá trình đi lên CNXH. 1.3. BÀI HỌC LỊCH SỬ VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN RÚT RA TỪ KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI. 1.3.1. Tư tưởng của LêNin trong thời kỳ chính sách kinh tế mới. Trong thời kỳ nội chiến 1918-1920, V.I.Lênin đã áp dụng chính sách cộng sản thời chiến. Nội dung cơ bản của Chính sách cộng sản thời chiến là trưng thu lương thực thừa của nông dấn sau khi dành cho họ mức ăn tối thiểu. Đồng thời xóa bỏ quan hệ hàng hóa- tiền tệ, xóa bỏ việc tự do mua bán lương thực trên thị trường, thực hiện chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và bộ máy nhà nước. Chính sách cộng sản thời chiến đã đóng vai trò quan trọng trong thắng lợi của nhà nước Xôviết. Tuy nhiên khi hòa binh lập lại, Chính sách cộng sản thời chiến không còn thích hợp. Nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách kinh tế thích ứng thay thế. Chính sách kinh tế mới được V.I.Lênin đề xướng để đáp ứng yêu cầu tiếp tục kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới. Trong chính sách kinh tế mới V.I.Lênin đã chủ trương khôi phục và phát triển kinh tế dựa trên nguyên tắc của nền kinh tế hàng hóa,kinh tế thị trường, sử dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ như khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa nhỏ của nông dân, thợ thủ công; khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân; sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, chuyển sang chế độ hạch toán kinh tế. Đồng thời V.I.Lênin chủ trương phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác kinh tế với các nước tư bản phương Tây để tranh thủ kỹ thuật, vốn và khuyến khích kinh tế phát triển. Như vậy, ta có thể thấy Lênin cũng đã rất đề cao vai trò của kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải có một nền kinh tế phát triển vững mạnh và trong thời kỳ quá độ thì sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần là tất yếu. Kinh tế tư nhân là một phần hết sức quan trọng của nền kinh tế ấy, nó có tính năng động, dễ thích nghi nên phù hợp với nền kinh tế thị trường. 1.3.2. Sự phát triển của kinh tế tư nhân ở Trung Quốc trong bối cảnh hội nhập. Phát triển kinh tế tư nhân ở Trung Quốc cũng có những vấn đề tương tự như ở nước ta. Kinh tế tư nhân là đối tượng cần được cải tạo trong giai đoạn đầu, không cho phép tồn tại trong giai đoạn tiếp theo. Khi được thực hiện thì vẫn duy trì thái độ phân biệt đối xử trong tiếo cận các nguồn lực xã hội, vấn đề lý luận và tâm lý xã hội kỳ thị đối với kinh tế tư nhân vẫn còn đến ngày nay. Sau thành lập nước, Trung quốc đã nhanh chóng hình thành một khu vực kinh tế nhà nước lớn mạnh cùng với sự giúp đỡ của Liên Xô. Do đó, Doanh nghiệp tư nhân của Trung quốc đã giảm từ 63,3% và năm 1949 xuống còn 39% vào năm 1952. Nhà nước kiểm soát kinh tế tư nhân thông qua quốc hữu hoá. Một vài doanh nghiệp tư nhân cũng chuyển sang hình thức hợp doanh. Năm 1952, sản lượng của kinh tế tư nhân chiếm 5,7% sản lượng quốc dân. Nhưng sau cách mạng văn hoá 1966, tất cả các doanh nghiệp tư nhân phải đóng cửa. Kinh tế tư nhân không tồn tại trong giai đoạn từ 1966-1979. Cuối 1988, Trung Quốc có rất nhiều doanh nghiệp tập thể nhưng thực chất là sở hữu tư nhân. Đó là những “ doanh nghiệp đội mũ đỏ” với mục đích núp dưới danh nghĩa tập thể để tránh những ngăn cấm từ phía chính phủ và những phân biệt về tư tưởng hệ. Năm 1988 đánh dấu sự thừa nhận chính thức doanh nghiệp tư nhân ở Trung Quốc. Vào tháng 4-1988 đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc đã thông qua hiến pháp sửa đổi, điều 11 của Hiến pháp này được sửa như sau: “ Nhà nước Trung Quốc cho phép kinh tế tư nhân tồn tại và phát triển trong phạm vi luật pháp quy định. Kinh tế tư nhân là một thành phần bổ sung cho kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước bảo vệ quyền và thu nhập hợp pháp của doanh nghiệp tư nhân, có sự hướng dẫn, giám sát, điều chỉnh đối với kinh tế tư nhân. Từ đó đến nay, Nhà nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Trung Hoa đã dưa ra nhiều chính sách nhằm khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển và trở thành bộ phận quan trọng trong nền kinh tế. Qua đó, đề ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Phải giải phóng được tư tưởng về sự tiêu cực phát triển kinh tế tư nhân đến nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cuộc tranh cãi kéo dài về mặt lý luận rằng kinh tế tư nhân phát triển liệu có làm lệch hướng sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc hay không? Nhưng cuối cùng Hiến pháp sửa đổi năm 1999 đã chính thức thừa nhận tầm quan trọng tương đương nhau của khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế nhà nước. Thông qua chính sách và pháp luật, Nhà nước phát huy thế mạnh, hạn chế được mặt trái của kinh té tư nhân và hướng nó vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc. Tháo gỡ được quan điểm kinh tế tư nhân không đối lập với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là cơ sở cho việc giải toả tâm lý xã hội và sự kỳ thị, phân biệt đối xử đối với kinh tế tư nhân, tạo niềm tin và sự an tâm cho người dân bỏ vốn đầu tư kinh doanh. Xây dựng những chính sách và thể chế phù hợp thúc đẩy phát triển đối với doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ như: vốn, nguồn nhân lực, đất đai… Chính phủ và các hiệp hội doanh nghiệp có vai trò quan trọng thúc đẩy hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân. 2. THỰC TRẠNG CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. 2.1. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN. 2.1.1. Trước những năm 1986. Sau khi chiến thắng sự xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng ta đã bắt tay ngay vào việc phát triển kinh tế. Việt Nam đã thử áp dụng kế hoạch tập trung đối với nền kinh tế nông thôn nghèo sau khi thống nhất đất nước năm 1975. Ở Miền Bắc, việc chiến tranh kết thúc và sự quen thuộc đối với nền nông nghiệp tập thể không đem lại nhiều tiến bộ, sản lượng lương thực tăng 22% trong giai đoạn từ 1974 đến 1986, chậm hơn tỷ lệ tăng dân số.Chính sách này cũng không có kết quả tốt đẹp ở miền Nam với nhưng nỗ lực tập thể hóa bị chống đối một cách tiêu cực. Tuy nhiên, việc tăng diện tích trồng các mùa vụ hàng năm lên 30% thông qua những đầu tư vào hệ thống thủy lợi và việc đưa ra nhiều loại giống cải tạo đã đẩy sản lượng gạo năm 1986 tăng mạnh thêm 39% so với năm 1975. Dù vậy lương thực vẫn bị thiếu hụt và lạm phát tăng nhanh. Sản lượng lúa tăng 28% nhưng do dân số trong giai đoạn này tăng 27% nên hầu như không có chút cải thiện nào đối với sản lượng gạo tính theo đầu người. Điều đó hoàn toàn không gây ấn tượng đối với một quốc gia phục hồi từ chiến tranh. Đặc biệt ở thời kỳ này, kinh tế tư nhân được coi là bộ phận đối lập với kinh tế xã hội chủ nghĩa, vì vậy nằm trong diện cải tạo và tiến tới xóa bỏ. Nhà nước tiến hành cấm các hình thức kinh doanh hộ gia đình, tập trung lại hợp tác xã. Mọi cá nhân trước đây từng làm ăn buôn bán đều bị nghi ngờ là phần tử phản động, có tư tưởng chống đối cách mạng. 2.1.2. Những năm sau 1986. Sau năm 1986, nhận thức được những sai lầm đã mắc phải trong thời kỳ đầu xây dựng đất nước Đảng và Nhà nước ta đã đưa đất nước bước vào thời kỳ đổi mới.Và có thể nói đó là một thành công lớn của nước ta, đổi mới đã đưa Việt Nam từ một nước nghèo lên một nước đang phát triển hàng đầu. Đổi mới đã giải phóng các lực lượng sản xuất trong toàn bộ dân chúng và trên khắp đất nước, cải thiện hầu hết mọi khía cạnh của đời sống cho hầu hết tất cả mọi người. Nhưng trong những năm đầu của đổi mới kinh tế tư nhân vẫn không được thừa nhận đúng vị trí, vai trò của nó trong nền kinh tế. Kinh tế tư nhân vẫn bị coi là thành phần tư bản, là thành phần chống phá chủ nghĩa xã hội nên vẫn chưa có điều kiện để phát triển cho xứng với tiềm năng vốn có. Nhà nước vẫn chưa đưa ra những chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Nên trong giai đoạn này sự phát triển của kinh tế tư nhân rất mờ nhạt, không có gì nổi bật. Đến đại hội Đảng lần thứ IX, thấy được tính tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần, Đảng và Nhà nước đã nhận rõ vai trò của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển của đất nước. Đại hội Đảng khẳng định: “Khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển rộng rãi, không hạn chế quy mô hoạt động trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh có lợi cho quốc kế dân sinh. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển”, “Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi”, “kinh tế cá thể tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị được nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển năng động, có hiệu quả”. Những chính sách đó đã được biểu hiện cụ thể qua sự tăng trưởng các doanh nghiệp tư nhân trên mọi lĩnh vực kinh tế. Việc “tư nhân hóa” trong lĩnh vực nông nghiệp là một thành công đáng ngạc nhiên, góp phần làm giảm đói nghèo nhiều hơn bất cứ điều gì khác trong thập niên đầu của đổi mới. Tỷ lệ nghèo đói giảm từ khoảng 3/4 xuống dưới 1/4 sau hai thập kỷ, bất chấp sự sụp đổ của Liên bang Xô viết- đối tác viện trợ và thương mại chính của Việt Nam. Tiếp đó là quyết định năm 1999 và được triển khai vào tháng 1-2000 về việc giảm các rào cản pháp luật đối với công ty tư nhân là một quyết định quan trọng, có thể coi đây là quyết định lớn nhất kể từ sau các cải cách nông nghiệp cuối những năm 1980. Một danh nhân giờ không cần xin sự chấp thuận của một cán bộ để khởi đầu hoạt động kinh doanh hợp pháp nữa mà chỉ còn đăng ký và nộp đơn. Tất nhiên là điều đó cũng không hẳn dễ dàng nhưng các cuộc khảo sát cho thấy thời gian, tiền bạc và tình trạng không rõ ràng xung quanh việc đăng ký kinh doanh mới đã giảm đáng kể. Trong giai đoạn từ 1991-1999 chỉ có duới 5.000 doanh nghiệp mới đăng ký hàng năm, còn trước năm 1991 thì tổng cộng chỉ có 5.000 doanh nghiệp. Phản ứng trong vòng vài năm sau khi thông qua Luật đó đã vượt xa sự mong đợi của gần như tất cả mọi người. Cho đến năm 2005, có trên 120.000 công ty mới đã đăng ký, một tỷ lệ đăng ký hàng năm gấp 6 lần so với những năm 1990! Trong khi một số doanh nghiệp đã tồn tại trước đó như những công ty gia đình rồi mới “xuất hiện” khi đã an toàn hơn, hầu hết các doanh nghiệp khác mới là thật sự. Tất nhiên là cũng nhiều doanh nghiệp trong số đó không còn nữa. Những con số ước tính về tăng trưởng tổng sản phẩm công nghiệp của các công ty tư nhân trong nước điển hình từ 18-24%/năm sau khi Luật Doanh Nghiệp ra đời. Tỷ lệ sản phẩm công nghiệp của lĩnh vực này là 33% trong quý đầu tiên năm 2006, lớn hơn so với tỷ lệ 30% của lĩnh vực nhà nước. Liên quan đến việc làm, có khoảng một triệu người trong các công ty tư nhân chính thức và tập thể (khó phân biệt tư nhân và tập thể trên thực tế nếu không phải trên lý thuyết: tư nhân bao gồm các công ty một chủ, công ty hợp danh và công ty cổ phần). Đến năm 2004, khảo sát về lực lượng lao động cho thấy 3,3 triệu người làm việc trong các công ty tập thể và “tư nhân” ( không phải hộ gia đình). Điều đó có nghĩa là tăng hơn gấp 3 lần trong 5 năm. Đối với tổng sản phẩm công nghiệp, tỷ lệ của lĩnh vực tư nhân trong nước tăng từ 1/4 năm 2000 lên 1/3 trong quý I năm 2006, còn các lĩnh vực nhà nước và nước ngoài đều giảm với tỷ lệ tương đương. Tỷ lệ tăng trưởng sản phẩm công nghiệp trong lĩnh vực nhà nước nay chỉ còn 15-20%, mặc dù sử dụng nhiều vốn và lao động có trình độ hơn trong lĩnh vực tư nhân. Một lần nữa, việc dựa vào lĩnh vực tư nhân đã có kết quả tốt đẹp đáng kinh ngạc, góp phần tiếp tục giảm đói nghèo và tăng cao hơn nữa tỷ kệ tăng trưởng GDP. 2.2. THỰC TRẠNG KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.2.1. Những đánh giá chung. Chỉ sau mấy năm, khi tư tưởng của đai hội VI được quán triệt trong cuộc sống, khu vực kinh tế tư nhân có những bước phát triển rõ rệt. Nếu quan niệm kinh tế tư nhân gồm các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn và các công ty cổ phần được thành lập theo Luật doanh nghiệp thì ta thấy có bước phát triển rất nhanh chóng và trở thành một thành phần kinh tế hết sức quan trọng đối với nền kinh tế nước ta giai đoạn hiện nay. Đóng gópvào GDP: Khu vực kinh tế tư nhân đã có đóng góp đáng kể vào GDP. Khu vực này đã tạo ra 255,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 33.2% tổng GDP ( năm 2003). Trong đó doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 8,8%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 13,8%. Vốn đầu tư : Hiện nay doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng đầu tư 26,7% toàn xã hội. Đặc biệt, sau 6 năm áp dụng Luật Doanh Nghiệp 1999, đã có 26 tỷ USD vốn nội địa được huy động. Thu hút lao động: Lao động làm việc trong khối doanh nghiệp năm 2000 chiếm 11,3% tổng số lao động toàn xã hội đang tham gia làm việc và tăng lên 13% trong năm 2001.Trong những năm gần đây, số doanh nghiệp tăng nhanh đã giải quyết được nhiều việc làmcho người lao động. Tại thời điểm 01-01-2003 là 4,658 triệu lao động. Bình quân mỗi năm gần 700 nghìn lao động, là con số đáng kể trong giải quyết yêu cầu tạo ra việc làm mới cho toàn xã hội. Về cơ cấu : Những năm 1991-1996 trong tổng số 17.442 cơ sở thì lĩnh vực thương mại dịch vụ có khoảng 6.802 cơ sở chiếm tỷ trọng 39%, lĩnh vực công nghiệp chế biến có 6.105 cơ sở chiếm tỷ trọng 35%, các lĩnh vực khác có 4.534 cơ sở chiếm 26%. Trong những năm 1997-1998 có sự chuyển biến theo hướng các doanh nghiệp thương mại dịch vụ tăng (trong tổng số 26.021 doanh nghiệp thì các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ có 12.753 cơ sở chiếm 49%). Với các vùng : loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh và tập trung nhiều nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long 40%, ở đồng bằng sông Hồng là 33% và ở Đông Nam Bộ là 25%. Các công ty cổ phần phát triển mạnh ở Đông Nam Bộ là 54% và ở đồng bằng sông Hồng là 23%. 2.2.2. Những thành tựu đã đạt được. Trong lĩnh vực nông nghiệp: Cùng với sự đổi mới kinh tế hợp tác, sự ra đời của Luật doanh nghiệp đã có tác động mạnh mẽ đến nông nghiệp của nước ta. Kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động có tính chất công nghiệp ở nông thôn phát triển mạnh mẽ, tạo sự thay đổi to lớn bộ mặt của nhiều vùng nông thôn. Nếu như năm 1990, số lượng các hộ cá thể có khoảng 9,4 triệu họ thì đến năm 1995 đã lên tới 11.974.595 hộ hoạt động trên gần 9000 xã trong khắp 7 vùng sinh thái. Trong đó số hộ nông nghiệp là 9.528.896 hộ: hộ lâm nghiệp là 18.456 hộ; hộ thủy sản là 229.909 hộ; hộ công nghiệp là 160370 hộ; hộ xây dựng là 31.914 hộ; hộ thuơng nghiệp là 384.272 hộ; hộ dịch vụ là 14.165 hộ. Trong các hộ đó, nhóm hộ côngnghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất. Đây thực sự là lực lượng kinh tế mạnh thể hiện ở những mặt sau đây: Chỉ trong thời gian ngắn, các hộ nông dân đã mua sắm các trang thiết bị hiện đại, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp lên một bước: các nông dân mua sắm thêm được 109.483 máy phát điện, 9088 động cơ điện, 36011 động cơ chạy xăng, 97808 máy tuốt lúa. Nông dân đã bỏ vốn ra lập trên 110.000 trang trại trong đó riêng tỉnh phía Bắc 67.000 trang trại. Trang trại là những tổ chức kinh tế nằm trong khu vực kinh tế tư nhân nhằm đưa sản xuất nông nghiệp lên trình độ sản xuất hàng hóa với số vốn khá lớn, vốn bình quân của một trang trại là 291,43 triệu đồng. Các trang trại đã tạo ra một lượng hàng hóa lớn với tỷ trọng hàng hóa là 86,74% tạo việc làm cho 60 vạn lao động, với mức tiền công hàng tháng là 434,29 ngàn đồng. Có thể nói khu vực kinh tế tư nhân trong nông nghiệp thời gian qua đã góp phần xứng đáng vào thành tích của ngành nông nghiệp nói chung: tạo ra gần 1/4 tổng sản lượng của Việt Nam và 30% kim ngạch xuất khẩu (bao gồm cả thủy sản). Theo cục thống kê, nếu như năm 1990 nông nghiệp chiếm 30% GDP của Việt Nam thì năm 1999 nông nghiệp chiếm tỷ trọng 24% GDP. Trong lĩnh vực công nghiệp. Với cơ chế mới khu vực kinh tế tư nhân cũng thâm nhập mạnh mẽ vào lĩnh vực công nghiệp. Toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp ( bao gồm các doanh nghiệp hộ gia đình, các doanhnghiệp vừa và nhỏ trong nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ) đã đưa phần đóng góp vào sản lượng công nghiệp cả nước từ 37% năm 1990 lên 58% năm 2000, trong đó đóng góp quan trọng nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí và lĩnh vực công nghiệp chế tạo (khu vực kinh tế tư nhân trong năm 2000 chiếm 22,7%; khu vực đầu tư nước ngoài chiếm 35,2%). Khu vực kinh tế tư nhân trong nước mà đặc biệt là các doanh nghiệp hộ gia đình có vai trò quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo (năm 1999 có 600.000 doanh nghiệp hộ gia đình nhỏ hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo, chiếm 1/4 số doanh nghiệp rất nhỏ, đóng góp 28% giá trị gia tăng trong công nghiệp chế tạo. Ngoài ra còn 5.600 doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng hoạt động trong ngành công nghiệp chế tạo và tạo ra 10% GDP của ngành công nghiệp. Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp sẽ còn tăng hơn nữa vì những đổi mới trong thể chất rất mạnh với những bộ luật mới ra đời từ năm 1998 đến nay, nhất là Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư nước ngoài. Trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Đây là khu vực kinh tế tư nhân hoạt động sôi nổi nhất lấn át cả khu vực quốc doanh. Số lượng tăng lên nhanh chóng: năm 1986 là 56,8 vạn hộ, đến năm 1995 đã đến 94 vạn hộ, với tổng mức bán lẻ năm 1987 là 59% đến năm 1991 là 74,9%. Về mặt số lượng và cơ cấu: Tính đến 1/1/1995 số hộ cá thể trong cả nước là 1.882.798 hộ, trong đó riêng lĩnh vực thương mại và khách sạn là 940.994 hộ. Tuy nhiên số lượng hộ phân bố không đều, tập trung nhiều ở các thành phố lớn: Thành phố Hồ Chí Minh có 12 vạn hộ; thủ đô Hà Nội có 7,6 vạn hộ; An Giang có 7,5 vạn hộ ... Về mặt lao động: Lĩnh vực thương mại và dịch vụ tư nhân là nơi thu hút lao động và giải quyết công ăn việc làm. Tỷ trọng lao động thương nhân cá thể từ chỗ chỉ chiếm 68,7% lao động thương nghiệp xã hội năm 1990 đã lên đến 84,7% năm 1995. Ngành giao thông vận tải tư nhân đã huy động đến 267.700 lao động. Về doanh số hoạt động: Tổng mức bán lẻ của thương nghiệp tư nhân đã tăng 66,9% lên 75,1% và thương nghiệp quốc doanh giảm từ 30,4% xuống còn 23,7%. Giao thông vận tải tư nhân đã đảm nhận 63,5% khối lượng hàng hóa vận tải và 74,5% khối lượng hành khách, tạo ra 989,8 tỷ đồng. Đã có trường hợp tư thương cá thể lấn át thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán. Ví dụ: ở tỉnh An Giang tính đến tháng 10/1997 cả tỉnh có 3 hợp tác xã với số vốn chưa đầy 1 tỷ đồng trong khi toàn tỉnh có 21.979 hộ kinh doanh thương mại cá thể với tổng số vốn đăng ký 112 tỷ đồng chiếm 98,38% tổng mức bán lẻ toàn tỉnh. Về đóng góp vào nguồn chi ngân sách: Tổng số thuế nộp vào ngân sách Nhà nước đã tăng từ 908 tỷ đồng( năm 1991) lên 5180 tỷ đồng ( năm1995) Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, còn phải kể đến vai trò của kinh tế tư nhân nhân trong xuất nhập khẩu. Tỷ trọng của khu vực doang nghiệp tư nhân trong nước, trong giá trị xuất khẩu không kể dầu lửa đã tăng từ 12% trong năm 1997 lên 22% vào giữa năm 2000 và tỷ trọng giá trị nhập khẩu đã tăng từ 4% lên tới 16%. Nếu tính cả doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thì khu vực doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp trong xuất khẩu là 35% năm 1997 và 54% giữa năm 2000. Trong xây dựng kết cấu hạ tầng Với chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm, Chính phủ đã đề ra chương trình với rất nhiều kỳ vọng về xây dựng kết cấu hậ tầng, bao gồm những chương trình lớn về phát triển đường sắt, đường bộ và hệ thống cầu qua sông, đường hàng không với hệ thống các sân bay quốc tế và nội địa.Kết cấu hạ tầng có vị trí quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội nhưng để có kết cấu hạ tầng phát triển như kế hoạch của Chính phủ thì cần có nguồn vốn rất lớn mà nếu chỉ Nhà nước thì không đủ sức thực hiện. Những chỉ số sau đây cho thấy rõ điều đó: số vốn đầu tư cho ngành năng lượng hàng năm xấp xỉ 2-2,5 tỷ USD, trong đó nhàng điện dự định cấn số vốn đầu tư trung bình hàng năm là 1,5-2 tỷ USD mà 52-58% dành cho sản xuất điện và 42-48% dành cho truyền tải và phân phối điện. Vì kết cấu hạ tầng ngành năng lượng của Việt Nam rất lạc hậu nên phải dành 5,3-5,5% GDP đầu tư cho lĩnh vực này. Như vậy, việc thu hút sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân trong xây dựng kết cấu hạ tầng là hết sức quan trọng. 2.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG VẤN ĐỀ ĐÓ. 2.3.1. Những vấn đề tồn tại. Mặc dù giữ vai trò, vị trí quan trọng song hiện nay khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn nhiều hạn chế, điều này thể hiện trên các mặt sau: Số lượng doanh nghiệp : Cho đến cuối năm 2005 Việt Nam có khoảng 220.000 đến 250.000 doanh nghiệp. Tuy nhiên, số doanh nghiệp thưc sự còn hoạt động ít hơn nhiều so với con số doanh nghiệp cấp được đăng ký kinh doanh. Tỷ lệ doanh nghiệp đang hoạt động ở Việt Nam trên số doanh nghiệp đăng ký không cao. Ở một số địa phương, số lượng doanh nghiệp bị thu hồi giấy phép đăng ký kinh doanh và giải thể khá lớn. Trong một nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, việc dừng kinh doanh cũng như đăng ký kinh doanh mới là hiện tượng bình thường, song điều đáng nói ở đây là nhiều doanh nghiệp thành lập chỉ là doanh nghiệp ma để mua hóa đơn đỏ. Quy mô doanh nghiệp còn nhỏ và phân tán : Mặc dù số lượng lớn và tăng nhanh trong thời gian gần đây song quy mô của hầu hết doanh nghiệp còn rất nhỏ. Theo só liệu điều tra doanh nghiệp ( Tổng cục thống kê 2000-2004), quy mô vốn bình quân của doanh nghiệp chỉ đạt 22,5 tỷ đồng. Tỷ lệ doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm 86,06% (trong đó dưới 5 tỷ đồng chiếm 78,43%), từ 10 đền dưới 50 tỷ đồng chiếm9,23%; từ 50 đến 200 tỷ đồng chiếm 3,4%; trên 200 tỷ đồng chiếm 1,2%. Doanh nghiệp có vốn trên 500 tỷ đồng ( tương đương 32 triệu USD trở lên) chưa phải là lớn nhưng cũng chỉ chiếm gần 0,4%. Xét theo quy mô lao động, quy mô doanh nghiệp nước ta cũng chỉ đạt 77 lao động/doanh nghiệp và có tới 81,58% số doanh nghiệp có quy mô dưới 50 người ( trong đó dưới 10 lao động chiếm 46,6%). Hiệu quả sản xuất kinh doanh: Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhìn chung còn thấp. Doanh thu thuần trên vốn của toàn doanh nghiệp chỉ đạt mức 84,2% và tỷ suất lợi nhuận trên tổng vốn kinh doanh đạt 4,09%. Theo số liệu từ kết quả điều tra nói trên, tỷ trọng vốn ấy trong tổng vốn còn chiếm tới 67,2%. Rõ ràng là hoạt động tài chính của khu vực kinh tế tư nhân vốn đã kém hiệu quả, song còn tiềm ẩn những nhân tố thiếu an toàn trong nguồn vốn kinh doanh. Số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thua lỗ vẫn còn tới 20,86% v à có xu hướng tăng lên (con số này ở các năm 2001,2002,2003 lần lượt là 19,39%; 19,76% và 23,26%). Tính liên kết giữa các doanh nghiệp còn thấp: Tính liên kết thấp này có thể thấy qua sự liên kết giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp thuần túy vốn trong nước. Các doanh nghiệp thuần túy vốn trong nước sản xuất sản phẩm trung gian cung cấp cho doanh nghiệp FDI để sản xuất ra thành phẩm cuối cùng. Trong thời gian qua các doanh nghiệp FDI có khuynh hướng dùng nguyên liệu và bán thành phẩm từ nhập khẩu.Chẳng hạn như ngành dệt may, theo điều tra của CIE, vào năm 2002, vẫn còn tới hơn 2/3 số doanh nghiệp FDI dùng nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng may mặc. Hay như ngành xe máy- ngành có tỷ lệ nội địa hóa cao với việc dùng linh kiện và sản phẩm trung gian khác sản xuất tại Việt Nam, nhưng các linh kiện đó chủ yếu là do sản xuất trong nội bộ nhà máy mua từ các doanh nghiệp FDI khác. Điều đó hàm ý rằng đi cùng với việc huy động vốn các doanh nghiệp FDI cần có chính sách phát triển cho các doanh nghiệp phụ trợ để ngày càng có nhiều doanh nghiệp trong nước có điều kiện liên kết với các doanh nghiệp FDI. 2.3.2. Nguyên nhân của tình trạng đó Về thái độ xã hội: Trong một thời gian dài chúng ta chỉ coi trọng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, coi thường thậm chí thành kiến với kinh tế tư nhân dẫn đến coi thường cả những người tham gia trong hoạt động này. Từ thái độ tiêu cực trong nhận thức dẫn dến thái độ đối xử không đúng với thành phần tư nhân và cả những con người trong khu vực đó.Từ thái độ kỳ thị của xã hội dẫn đến thái độ thành kiến, e dè của bộ máy hành chính. Về nguồn lực tài chính: Sau một thời gian dài của cơ chế bao cấp, lại không được khuyến khích phát triển nên tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp tư nhân là chuyện phổ biến, trong khi đó hệ thống tín dụng cũng chưa chuyển đổi phù hợp đã cản trở việc hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp này. Bên cạnh đó cũng phải kể đến các thể chế chính sách khác có liên quan đến vấn đề vốn như chính sách đất đai, việc thế chấp quyền sử dụng đất hoặc tài sản để vay vốn cũng chưa được hoàn chỉnh. Về môi trường kinh doanh: Còn nhiều cản trở đối với các doanh nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu của vấn đè này là do những thủ tục quá phức tạp của bộ máy hành chính; sự không thống nhất, chồng chéo giữa các thủ tục đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp; tình trạng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền của bộ máy quản lý. Những điều đó được thể hiện cụ thể như sau: Thủ tục đăng ký kinh doanh : Tuy thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đã được rút ngắn đáng kể, song vẫn còn phức tạp. Đăng ký kinh doanh là thủ tục hành chính đầu tiên của doanh nghiệp khi gia nhập thị trường. Hiện nay, thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp được thực hiện ở nhiều cơ quan khác nhau.Một doanh nghiệp muốn khởi sự kinh doanh phải đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh; sau đó đăng ký mã số thuế và đăng ký khắc dấu tại công an.Theo báo cáo về môi trường kinh doanh toàn cầu năm 2005 của Ngân hàng Thế giới, ở Việt Nam, để hoàn thành thủ tục đăng ký cần gần đến 50 ngày, trải qua 3 thủ tục chính và 6 thủ tục phát sinh đi kèm. Trong đó 3 thủ tục kéo dài thời gian nhất là cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ( 10 ngày), khắc dấu (10 ngày), đăng ký mã số thuế và mua hóa đơn( 15 ngày). Nhưng những vướng mắc sau thủ tục đăng ký kinh doanh không chỉ phức tạp và mất nhiều thời gian làm thủ tục đăng ký kinh doanh mà vẫn còn nhiều tồn tại sau đó nữa. Báo cáo gần đây của CIEM-GTZ lại cho thấy các thủ tục hành chính sau đăng ký kinh doanh là rào cản cho việc thực hiện ý tưởng kinh doanh. Để thực hiện được một ý tưởng kinh doanh, doanh nghiệp sẽ phải hoàn tất 13 thủ tục hành chính với tổng thời gian là 260 ngày. Ngoài ra giấy phép kinh doanh và các điều kiện kinh doanh khác ngày càng tăng cũng là một trở ngại lớn. Chi phí đầu vào cao: Nhìn chung, Việt Nam có thể có lợi thế về chi phí kinh doanh thấp hơn các nước trong khu vực. Nhưng đi sâu vào những chỉ tiêu cụ thể lại có những kĩnh vực mà Việt Nam đắt đỏ hơn nhiều. Cuộc điều tra đầu năm 2006 của tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) cho thấy, các chi phí đầu vào hiện đang còn cao, bao gồm chi phí vận tải, thuê văn phòng, đóng góp an sinh xã hội và thiết bị sản xuất. Chẳng hạn cước vận chuyển container 40 feet từ hải cảng chính của Việt Nam là Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh tới cảng Yokohama tại Nhật Bản thường đắt hơn nhiều nước trong khu vực. Tính trung bình thì cước vận chuyển ở Việt Nam trong năm 2005 vẫn ở mức không cạnh tranh so với các nước trong khu vực, bất chấp nỗ lực giảm giá của các nhà dịch vụ Việt Nam trong năm qua. Tiếp cận đất đai: Đây vẫn là một mối lo lắng lớn của khu vực doanh nghiệp tư nhân Việt Nam. Một doanh nghiệp phải mất 230 ngày và 7 thủ tục để có được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay thuê đất. Hệ quả tất yếu là nhiều doanh nghiệp đang sử dụng đất cũng không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khoảng 70% các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất được thực hiện ở thị trường ngầm. Do vậy các tài sản chuyển nhượng này sẽ không được thế chấp tại ngân hàng để vay tiền, tức là sẽ hạn chế khả năng tiếp cận tài chính và cơ hội phát triển của doanh nghiệp. Thiếu chứng nhận quyền sử dụng đất và các biện pháp bảo đảm đi kèm, doanh nghiệp sẽ đầu tư ít đi, còn ngân hàng cho vay dè dặt hơn. Cần phải có nỗ lực lớn để Luật đất đai thi hành có hiệu quả, tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính và giảm thiểu chi phí không thật sự cần thiết về đất đai. Hệ thống pháp luật vẫn còn là một cản trở lớn: Cho đến nay hệ thống pháp luật của Việt Nam vẫn còn một số vấn đề có tác động không thuận lợi lên môi trường kinh doanh. Hệ thống pháp luật và chính sách về kinh doanh hiện nay còn nhiều mâu thuẫn và thiếu đồng bộ. Mâu thuẫn không chỉ tồn tại trong bản thân các luật và chính sách mà còn xuất hiện thêm khi các luật và chính sách mới ra đời tồn tại song song với các văn bản cũ.Ví dụ như thay vì chỉ cần có Luật doanh nghiệp thì lại có đến 5 bộ luật khác nhau: luật doanh nghiệp nhà nước(áp dụng cho doanh nghiệp nhà nước); luật doanh nghiệp (áp dụng cho doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình); luật hợp tác xã (áp dụng cho các doanh nghiệp tập thể); luật đầu tư nước ngoài (áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài); luật khuyến khích đầu tư trong nước (áp dụng cho các nhà đầu tư trong nước) Về công tác tổ chức quản lý doanh nghiệp: tình trạng thiếu tổ chức, thiếu rõ ràng khiến không có sự rạch ròi giữa chủ sở hữu với người quản lý, chưa có hệ thống tài khoản kế toán thích hợp. Trình độ quản lý của người đứng đầu doanh nghiệp còn yếu kém dẫn đến văn hóa trong doanh nghiệp cũng yếu kém khiến cho doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH. Những phân tích ở trên đã cho thấy tầm quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân đối với nền kinh tế nước ta trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng do quan niệm chưa đúng về tầm quan trọng đó nên từ trước đến nay kinh tế tư nhân vẫn chưa có được một chỗ đứng sao cho xứng đáng với tiềm năng của mình. Do đó Nhà nước cần có những biện pháp để phát huy tốt nhất khả năng của thành phần kinh tế tư nhân để góp phần đẩy nhanh quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Sau đây là một số giải pháp: 3.1. TẠO MÔI TRƯỜNG KINH DOANH THUẬN LỢI Thủ tục hành chính nặng nề, phức tạp là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của kinh tế tư nhân. Do đó để khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân thì trước hết phải sửa đổi về luật và các thủ tục hành chính. Sửa đổi, bổ sung luật doanh nghiệp và một số quy định chưa thống nhất giữa các văn bản pháp luật đã ban hành về những vấn đề đã liên quan đến kinh tế tư nhân theo hướng xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Quy định rõ ràng ngành nghề, lĩnh vực kinh tế tư nhân không được phép kinh doanh hoặc kinh doanh có thể tham gia kinh doanh. Xác định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong đăng ký kinh doanh và quản lý hoạt động của kinh tế tư nhân. Tập trung sửa đổi một số chính sách, đặc biệt là các chính sách sau: Chính sách đất đai: Đây là vấn đề quan trọng và cũng rất bức bách đối với kinh tế tư nhân. Cần sửa đổi, bổ sung luật đất đai theo hướng: đất ở của tư nhân đã được cấp quyền sử dụng đất đang được tư nhân dùng lam mặt bằng sản xuất kinh doanh do mua lại một cách hợp pháp quyền sử dụng đất hoặc được nhà nước giao đã thu tiền thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài, không phải chuyển sang thuê. Doanh nghiệp tư nhân được dùng giá trị quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn ngân hàng hoặc góp cổ phần liên doanh với doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nhà nước có chính sách xây dựng các khu công nghiệp với cơ sở hạ tầng cần thiết, áp dụng giá cho thuê phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể thuê làm mặt bằng kinh doanh. Trong thời gian tới, cần đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở cho nhân dân, từng bước hình thành và phát triển thị trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Chính sách lao động tiền lương: để khắc phục một số hạn chế về điều kiện làm việc và thu nhập của người lao động, kinh tế tư nhân phải thực hiện đúng quy định của Luật lao động về việc ký kết hợp đồng lao động, tiền lương, tiền công ... đồng thời có chế tài cần thiết để xử lý vi phạm. Kinh tế tư nhân thực hiện chế độ, chính sách tiền lương, tiền công, tiền thưởng theo nguyên tắc thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động. Bên cạnh đó, cần ban hành một cách đồng bộ các quy định về bảo hiểm xã hội để người lao động trong hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân đều được tham gia, bổ sung chế tài bắt buộc người sử dụng lao động phải thực hiện nghiêm túc. Mặt khác cần nghiên cứu, ban hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo hướng người sử dụng lao động và người lao động cùng đóng góp, có sự hỗ trợ của Nhà Nước. Chính sách hỗ trợ về đào tạo, khoa học và công nghệ: nhằm hỗ trợ, nâng cao khả năng cạnh tranh của kinh tế tư nhân. Nhà nước hỗ trợ mở các lớp ngắn hạn, miễn phí để bồi dưỡng kiến thức khoa học công nghệ. Chính sách hỗ trợ về thông tin, xúc tiến thương mại: Đây cũng là một chính sách quan trọng góp phần giúp kinh tế tư nhân tiếp cận với các thông tin về chính sách, pháp luật ... 3.2. NHÀ NƯỚC CẦN CÓ NHỮNG BIỆN PHÁP HỖ TRỢ KINH TẾ TƯ NHÂN. Nhà nước khẳng định kinh tế tư nhân la bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phát triển mạnh kinh tế tư nhân được coi là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tôn trọng và phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi và định hướng quản lý kinh tế tư nhân theo pháp luật. Nhà nước bảo vệ lợi ích hợp pháp của cả người lao động và sử dụng lao động trên cơ sở pháp luật,đôi bên cùng có lợi và tinh thần đoàn kết tương thân tương ái. Nhà nước cần có những biện pháp hỗ trợ kinh tế tư nhân như: hỗ trợ về vốn, tạo điều kiện rhuận lợi về đất đai, cơ sở sản xuất kinh doanh; để ra các biện pháp hỗ trợ sản xuất kinh doanh. Trong thời gian gần đây, Nhà Nước đã có những biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp, ví dụ như việc quyết định ngày doanh nhân 23-10, là ngày để tôn vinh những doanh nghiệp tư nhân có đóng góp cho nền kinh tế đất nước là một sự động viên, khích lệ đối với cácdoanh nghiệp. 3.3 PHÁT TRIỂN NHỮNG MỐI QUAN HỆ HỢP DOANH Đểphát triển quy mô và loại hình kinh tế tư nhân cần khuyến khích, phát triển kinh tế tư nhân như: Nhà nước với tư nhân, tư nhân trong nước với tư nhân nước ngoài. Các mối quan hệ này nhằm làm cho kinh tế tư nhân đa dạng về loại hình hoạt động, hơn nữa kết hợp với các doanh nghiệp nhà nước và cácdoanh nghiệp nước ngoài còn làm cho quy mô sản xuất phát triển, vốn đầu tư lớn. Các hình thức kinh tế tư nhân liên doanh với kinh tế nhà nước có thể áp dụng là: Liên doanh giữa nhà nước với các tư nhân trong nước hoặc nước ngoài. Hình thức các công ty cổ phần mà cổ đông là nhà nước và tư nhân. Xây dựng cácđặc khu kinh tế, khu chế xuất. Cho tư nhân trong và ngoài nước thuê kinh doanh các cơ sở sản xuất hoặc đất đai thuộc sở hữu nhà nước. Xây dựng các hợp tác xã cổ phần của những người sản xuất nhỏ. 3.4. HƯỚNG KINH TẾ TƯ NHÂN PHÁT TRIỂN THEO CON ĐƯỜNG TƯ BẢN NHÀ NƯỚC. Chính sách của Đảng và Nhà Nước ta là kinh tế tư bản tư nhân bỏ vốn đầu tư và phát triển sản xuất, đáp ứng nhu cầu của dân cư. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ, xoá bỏ định kiến và tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng và về khoa học công nghệ, về đào tạo cán bộ kinh tế tư bản tư nhân. Tuy nhiên kinh tế tư nhân có tính tự phát rất cao. Đầu cơ, buôn lậu … là những hiện tượng thường xuất hiện ở kinh tế tư nhân. Nếu để cho nó phát triển một cách tự nhiên thì sễ phát triển thành nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, trái với mục đích xây dựng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Do vậy, hướng sự phát triển kinh tế tư nhân đi vào con đường tư bản nhà nước dước các hình thức thích hợp, có sự kiểm kê, kiểm soát của nhà nước là một hướng đi đúng đắn và phù hợp. 3.5. ĐỔI MỚI CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH NHẰM THÚC ĐẨY KINH TẾ TƯ NHÂN PHÁT TRIỂN. Đây là một vấn đề quan trọng để phát triển kinh tế tư nhân, nhằm giải quyết các vấn đề về vốn. Việc giải quyết vấn đề tài chính một cách thông thoáng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển. Cần thực hiện chính sách tài chính tín dụng đối với kinh tế tư nhân bình đẳng như đối với doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, bảo đảm để kinh tế tư nhân tiếp nhận và thụ hưởng các ưu đãi của nhà nước cho kinh tế hộ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho đầu tư của doanh nghiệp vào các mục tiêu được nhà nước khuyến khích. Cần sớm ban hành cơ chế tài chính phù hợp với doanh nghiệp tư nhân, cải tiến chế độ kê khaivà nộp thuế phù hợp với đặc điểm của các hộ kinh doanh cá thể, nhằm hạn chế phiền hà cho người kinh doanh và chống thất thu thuế; có chính sách bảo hiểm rủi ro cho hoạt động của kinh tế tư nhân trong cơ chế thị trường, khuyến khích các doanh nghiệp thành lập và tham gia quỹ bảo hiểm tương hỗ có sự giúp đỡ của nhà nước. 3.6. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ, KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN. - Chức năng quản lý đối với khu vực kinh tế tư nhân là xây dung, hoàn thiện khung pháp lý và ban hành các chính sách, cơ chế quản lý. Đồng thời, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở các bộ, ngành và UBND tỉnh, thành phố. Các cơ quan bảo vệ pháp luật chỉ kiểm tra, thanh tra khi doanh nghiệp tư nhân có những dấu hiệu vi phạm pháp luật. - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của MTTQ, các đoàn thể và các hiệp hội doanh nghiệp đối với việc phát triển kinh tế tư nhân.Xây dung tổ chức, cơ sở Đảng và các tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên, hội liên hiệp thanh niên trong các doanh nghiệp tư nhân có đủ điều kiện. Đồng thời đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng trong khu vực kinh tế tư nhân để nâng cao nhận thức chính trị, ý thức chấp hành pháp luật. KẾT LUẬN Trong 20 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta lãnh đạo, kinh tế tư nhân đã phát triển rộng khắp cả nước đã khẳng định một điều quan trọng, đó là thành phần không thể thiếu của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế tư nhân đã nhah chóng góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, giảI quyết việc làm, cảo thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giảI pháng lực lượng sản xuất, thúc đảy phân công lao động xã hội. Đạt được kết quả trên là nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng như sự hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và bình đẳng hơn nữa giữa các thành phần kinh tế, sự chỉ đạo thực hiện kiên trì của Chính phủ và các cấp ngành. Đồng thời do yêu cầu của cuộc sống, với tiềm năng to lớn, sự năng động và tinh thần doanh nghiệp vốn có vươn lên không cam chịu đói nghèo, hăng hái đầu tư vào sản xuất kinh doanh làm giàu cho bản thân, cộng đồng và xã hội. Trong những năm qua, kinh tế tư nhân đã đat được những thành tựu nhất định nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém: quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc hậu. Trònh độ quản lý thấp, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu, ít đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, tập trung vào những ngành nghề đòi hỏi cần ít vốn, thời gian thu hồi vốn nhanh, tính hợp tác thấp. Một trong nhữngnguyên nhân quan trọng của những yếu kém là do quan điểm của Đảng về kinh tế tư nhân trong nhiều năm còn chữ được làm rõ, một số cơ chế, chính sách của Nhà nước còn chưa phù hợp với đặc điểm của kinh tế tư nhân, quản lý có phần buông lỏng và có nhiều sơ hở, hạn chế việc thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đúng hướng. Bản thân em qua bài viết này em tin tưởng rằng trong tương lai không xa khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta còn phát triển hơn nữa dưới sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng, sự quan tâm và tạo mọi điều kiện thuận lợi của Nhà nước khuyến khích, thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển một cách nhanh chóng và bền vững trên cơ sở kết hợp hài hoà giữa kinh tế- xã hội – môi trường. Đặc biệt là sự kiện Việt Nam ra nhập WTO vào năm 2007 đã mở ra một cơ hội lớn thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ góp phần đưa Việt Nam thành một nước có nền kinh tế hùng mạnh có thể sánh vai với các cường quốc trên thế giới như Bác Hồ hằng mong đợi. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin (dùng cho khối ngành kinh tế - Quản trị kinh doanh), trong các trờng Đại học, Cao đẳng - NXB Chính trị Quốc gia. 2. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam - NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội 2001. 3. GS.TS. Dơng Phú Hiệp: "Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ T bản chủ nghĩa ở Việt Nam" - NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội 2001. 4. Nghiên cứu Kinh tế số 324, 358 5. Kinh tế Chính trị Mác - Lênin, Phơng thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. 6. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhát triển kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.DOC
Luận văn liên quan