Quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu tại Việt Nam

MỤC LỤC MỞ ĐẦU1 CHƯƠNG I HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU PHỤC VỤ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC GIAI ĐOẠN 2001-2006. 5 1.1. Sự cần thiết phải nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất trong nước. 5 1.1.1. Vài nét về phế liệu. 5 1.1.2. Sự cần thiết phải nhập khẩu phế liệu. 6 1.2. Thực trạng sử dụng và nhập khẩu phế liệu. 8 1.2.1. Thực trạng sử dụng và nhập khẩu sắt thép phế liệu. 9 1.2.2. Thực trạng sử dụng và nhập khẩu nhựa phế liệu. 14 1.2.3. Thực trạng sử dụng và nhập khẩu giấy và catông. 19 1.3. Đánh giá tác động về mặt kinh tế và môi trường của việc nhập khẩu và sử dụng phế liệu phục vụ sản xuất giai đoạn 2001 - nay. 22 1.3.1. Tác động về mặt kinh tế. 22 1.3.2. Tác động về mặt môi trường. 26 CHƯƠNG II ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU PHỤC VỤ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC GIAI ĐOẠN 2001-200639 2.1. Thực trạng áp dụng các công cụ quản lý nhập khẩu và sử dụng phế liệu39 2.1.1. Hệ thống các văn bản liên quan đến hoạt động nhập khẩu phế liệu39 2.1.2. Thực trạng áp dụng các công cụ quản lý nhập khẩu và sử dụng phế liệu44 2.1.3. Các qui định và cam kết quốc tế có liên quan. 61 2.2. Hiệu quả của các công cụ quản lý nhập khẩu phế liệu. 64 2.2.1. Đối với mục tiêu bảo vệ môi trường. 64 2.2.2. Đối với mục tiêu kinh tế. 66 2.2.3. Đối với việc đảm bảo tuân thủ các qui định quốc tế mà Việt Nam là thành viên71 2.2.4. Những vấn đề đặt ra trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nhập khẩu và sử dụng phế liệu. 73 2.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc quản lý nhập khẩu và sử dụng phế liệu phục vụ sản xuất - Bài học cho Việt Nam75 2.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc. 75 2.3.2Kinh nghiệm một số nước EU79 2.3.3. Bài học rút ra đối với Việt Nam80 CHƯƠNG III GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU PHỤC VỤ SẢN XUẤT TRONG THỜI GIAN TỚI83 3.1. Quan điểm và định hướng cho việc nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất trong thời gian tới83 3.1.1. Quan điểm83 3.1.2. Những định hướng trong việc nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất85 3.2. Dự báo nhu cầu nhập khẩu phế liệu trong thời giai tới87 3.2.1. Những nhân tố tác động tới nhu cầu nhập khẩu phế liệu. 87 3.2.2. Dự báo nhu cầu nhập khẩu phế liệu của các ngành trong thời gian tới91 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả các công cụ quản lý nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất trong thời gian tới92 3.3.1. Giải pháp về phía Nhà nước. 92 3.3.2. Giải pháp về phía hiệp hội101 3.3.3. Giải pháp về phía doanh nghiệp. 102 3.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả các công cụ quản lý nhập khẩu phế liệu105 KẾT LUẬN108 Tài liệu tham khảo. 110 NẾU CÓ THẮC MẮC GÌ VỀ BÀI VIẾT BẠN LIÊN HỆ SỐ ***********

doc115 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4175 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công ty hoạt động như một cơ sở phân phối hay kinh doanh phế liệu. Qui định này cũng hoàn toàn hợp lý khi năng lực kiểm soát các vấn đề môi trường không có. Nếu cho phép các công ty hoạt động với hình thức phân phối hay kinh doanh thì nguy cơ tác động tới môi trường là rất lớn. Hay nói một cách khác, phế liệu nhập khẩu chỉ được sử dụng cho mục tiêu sản xuất. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU PHỤC VỤ SẢN XUẤT TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1. Quan điểm và định hướng cho việc nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất trong thời gian tới 3.1.1. Quan điểm Công tác bảo vệ môi trường được Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm. Bên cạnh những tư tưởng chỉ đạo nhằm định hướng cho kinh tế phát triển, Đảng ta luôn có những chỉ đạo kịp thời trong vấn đề bảo vệ môi trường. Trong Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/06/1998 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường công tác bảo vệ môi trường Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các quan điểm về bảo vệ môi trường đã được thể hiện rõ: Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Coi phòng ngừa và ngăn chặn ô nhiễm là nguyên tắc chủ đạo kết hợp với xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên; Kết hợp phát huy nội lực tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Xem, Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/ 06/ 1998, Ban chấp hành Trung ương Đảng Quan điểm trên được khẳng định lại trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Văn kiên nêu rõ: “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo vệ sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo và môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học. Chủ động phòng tránh và hạn chế tác động xấu của thiên tai, của sự biến động khí hậu bất lợi và tiếp tục giải quyết hậu quả chiến tranh còn lại đối với môi trường. Bảo vệ và cải tạo môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, tăng cường quản lý Nhà nước đi đôi với nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi người dân. Chủ động gắn kết yêu cầu cải thiện môi trường trong mỗi quy hoạch, kế hoạch, chương trình và luận văn phát triển kinh tế – xã hội, coi yêu cầu về môi trường là một tiêu chí quan trọng đánh giá các giải pháp phát triển” Xem, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc, NXB chính trị quốc gia, Hà nội,2001, tr164 Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 được Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng thông qua đã khẳng định quan điểm phát triển của đất nước là “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế, đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Chỉ đạo thực hiện quan điểm này, ngày 15/11/2004, Bộ Chính trị đã ra Nghị Quyết số 41-NQ/TW về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết nêu rõ quan điểm về vấn đề bảo vệ môi trường, đó là xem “bảo vệ môi trường là vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an toàn an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta” Xem, Nghị Quyết 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng . Quan điểm này đã trở thành quan điểm chủ đạo trong các chủ chương, chính sách bảo vệ môi trường của chúng ta. Đối với việc quản lý hiệu quả hoạt động nhập khẩu phế liệu thời gian tới, những quan điểm này trở thành căn cứ quan trọng trong việc đề xuất các giải pháp thời gian tới. 3.1.2. Những định hướng trong việc nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất Trong sự phát triển mạnh mẽ của các ngành thép, giấy, nhựa thời gian qua, việc sử dụng nguồn nguyên liệu là phế liệu nhập khẩu đóng một vai trò nhất định. Vì vậy, yêu cầu nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu nguyên liệu nội địa, đa dạng hóa các nguồn cung ứng cũng như xu thế tận dụng ngày càng nhiều các phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, trong chiến lược phát triển thời gian tới, các ngành đã đưa ra những định hướng rất rõ ràng về việc sử dụng phế liệu, trong đó có phế liệu nhập khẩu. Việc xem xét những định hướng này sẽ là những căn cứ thực tiễn quan trọng trong việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhập khẩu phế liệu trong thời gian tới. 3.1.2.1. Ngành thép Một trong những định hướng phát triển chủ đạo của ngành thép trong những năm tới là “Xây dựng và phát triển ngành thép trở thành một ngành công nghiệp quan trọng, đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững, giảm thiểu sự mất cân đối giữa thượng nguồn và hạ nguồn, giữa sản phẩm thép dài và thép dẹt”. Để đạt được mục tiêu này, nhất là giảm sự mất cân đối giữa năng lực sản xuất phôi thép và năng lực cán thép thì giải quyết nguyên liệu đóng vai trò quan trọng. Thêm vào đó, với hầu hết công nghệ luyện phôi hiện tại là công nghệ luyện bằng lò điện hồ quang, trong đó, nguyên liệu chính là phế liệu, chính vì vậy, tận dụng tối đa nguồn sắt thép phế liệu mà chủ yếu là từ nhập khẩu trở thành một trong những giải pháp nhằm phát triển ngành thép trong thời gian tới. 3.1.2.2. Ngành giấy Với mục tiêu khai thác và phát triển các nguồn lực sản xuất hiện có, đáp ứng 85-90% nhu cầu tiêu dùng trong nước, từng bước tham gia hội nhập khu vực, cũng như các ngành khác, việc đảm bảo cung ứng nguyên liệu cho ngành giấy đóng vai trò quan trọng. Sự mất cân đối giữa nhu cầu bột giấy – giấy – nguyên liệu đã đặt ra một bài toán khó cho các doanh nghiệp ngành giấy với yêu cầu phải đa dạng hóa các nguồn nguyên liệu. Hiện tại, hầu hết nguyên liệu phục vụ ngành giấy là từ các cây nguyên liệu trong nước và nhập khẩu. Đối với bột giấy từ các cây nguyên liệu, đòi hỏi chi phí đầu tư lớn (đầu tư dây chuyền sản xuất cũng như công nghệ xử lý chất thải), đặc biệt phải gắn liền với chiến lược phát triển cây nguyên liệu. Xuất phát từ yếu tố này, mặc dù chúng ta có thể chủ động cây nguyên liệu nhưng số lượng các doanh nghiệp có đủ năng lực cung ứng bột giấy là không nhiều. Chính vì vậy, trong Qui hoạch phát triển ngành giấy đến 2010 đã coi việc sử dụng giấy phế liệu là một nguồn cung cấp nguyên liệu quan trọng. Đây sẽ là giải pháp cho các nhà máy giấy gần khu dân cư, quy mô vừa và nhỏ để giảm chi phí đầu tư hệ thống xử lý nước thải. Thu mua giấy loại trong và ngoài nước đều có ý nghĩa về bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên ở góc độ quốc gia và toàn cầu, nên cần phải khuyến khích sử dụng bằng việc áp dụng mức thuế nhập khẩu bằng 0 và được khấu trừ hoàn toàn nếu thu mua trong nước. Dự kiến mức sử dụng giấy cũ đến năm 2010 là 378.000 tấn/năm, chủ yếu thu mua và tái chế trong nước. 3.1.2.3. Ngành nhựa Một trong những định hướng chiến lược của ngành nhựa trong thời gian tới là phát triển ngành công nghiệp nhựa mạnh và vững chắc để phục vụ đắc lực cho nền kinh tế trên cơ sở xây dựng ngành công nghiệp nhựa phát triển cân đối và hoàn chỉnh và thúc đẩy việc phát triển nguồn nguyên liệu trong nước. Đối với việc phát triển nguồn nguyên liệu cho ngành nhựa: đây trở thành mục tiêu cực kỳ quan trọng của ngành nhựa Việt Nam trong thời gian tới. Ngoài việc sử dụng nguồn nguyên liệu chủ yếu từ hoá dầu việc tận dụng nguồn nhựa phế thải cũng như tăng cường việc tái chế nhựa cũng được đặt ra trong Qui hoạch phát triển ngành nhựa thời gian tới. Cụ thể: Nhà nước cần chỉ định loại doanh nghiệp, hỗ trợ vốn cũng như các chính sách để doanh nghiệp đó hoạt động trong lĩnh vực thu gom và xử lý chất thải nhựa, trước mắt có thể thí điểm một nhà máy tại khu vực phía Nam nơi chiếm tới 70% thị phần của ngành nhựa cả nước. Giai đoạn 2001 – 2005: đảm bảo tới 1.000.000 tấn nguyên liệu, ngoài 880.000 tấn nguyên liệu đầu tư mới chúng ta đã có 1 nhà máy sản xuất PVC công suất 80.000tấn/năm, nhà máy hoá dẻo DOP 30.000 tấn/năm và các nhà máy sản xuất phụ gia khác. Giai đoạn 2006 – 2010: sản xuất thêm khoảng 1.000.000 tấn nguyên liệu nữa, nghĩa là trong nước có thể cung cấp trên 2.000.000 tấn nguyên liệu/năm, đảm bảo thoả mãn 50% nhu cầu do qui hoạch đề ra. 3.2. Dự báo nhu cầu nhập khẩu phế liệu trong thời giai tới 3.2.1. Những nhân tố tác động tới nhu cầu nhập khẩu phế liệu 3.2.1.1. Xu hướng sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất đang ngày một tăng trên thế giới cũng như Việt Nam. Thương mại các loại nguyên liệu có nguồn gốc phế liệu diễn ra hết sức sôi động trên thị trường thế giới. Với những thác thức về tài nguyên thiên nhiên cũng như tác động đến môi trường trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên đã làm gia tăng yêu cầu trong việc tái chế các loại phế liệu như sắt thép, giấy, nhựa … Thông thường, các nước xuất khẩu chính các loại phế liệu này là các nước phát triển và các nước nhập khẩu cũng vậy. Một số số liệu về tình hình xuất nhập khẩu các loại phế liệu này thời gian qua cho ta thấy điều đó: Bảng 3.1- Số liệu thương mại sắt thép phế liệu giai đoạn 2002 – 2006 Năm 2002 2003 2004 2005 2006 Lượng (tấn) 92.214.147 80.965.992 96.506.141 94.227.589 75.025.385 Giá trị (ngàn USD) 8.772.072 12.880.487 23.685.908 24.228.143 23.023.116 Nguồn: ITC Bảng 3.2 - Số liệu thương mại nhựa phế liệu giai đoạn 2002 - 2006 Năm 2002 2003 2004 2005 2006 Lượng (tấn) 6.821.210 6.003.398 7.876.395 9.756.624 9.700.458 Giá trị (ngàn USD) 1.452.689 1.864.666 2.627.125 3.648.928 3.654.605 Nguồn: ITC Bảng 3.3 - Số liệu thương mại giấy và bìa cattong phế liệu giai đoạn 2002 - 2006 Năm 2002 2003 2004 2005 2006 Lượng (tấn) 27.248.100 31.768.674 37.081.682 41.778.941 37.526.000 Giá trị (ngàn USD) 2.705.341 3.562.523 4.357.275 4.965.408 4.710.372 Nguồn ITC 3.2.1.2..Sự phát triển nhanh chóng của các ngành trong thời gian qua nhằm tăng khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như mở rộng xuất khẩu là một nhân tố quan trọng thúc đẩy yêu cầu đa dạng hóa nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất, trong đó có nguồn phế liệu nhập khẩu Trong thời gian qua, tốc độ tăng trưởng bình quân của các ngành đều ở mức cao (ngành thép: ; ngành nhựa …; ngành giấy). Với yêu cầu của thị trường trong nước và định hướng xuất khẩu của các ngành trong thời gian tới tốc độ phát triển của các ngành sẽ tiếp tục ở mức cao. Bằng chứng rất rõ ràng cho điều này là rất nhiều luận văn đầu tư của các ngành được thực hiện trong thời gian qua và sẽ bắt đầu đi vào hoạt động trong thời gian tới. Chính vì vậy, lượng nguyên liệu cung ứng cũng sẽ gia tăng trong những năm tới. Các ngành, để đảm bảo sự tăng trưởng của mình cần đa dạng hóa các nguồn cung ứng, trong đó, sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất là một trong những lựa chọn quan trọng. 3.2.1.3. Nguồn nguyên liệu khai thác từ thiên nhiên bị hạn chế: Quặng sắt hay dầu khí đều là những nguồn tài nguyên hữu hạn. Mặc dù trong giai đoạn hiện tại, khả năng cung ứng nguyên liệu từ các nguồn này còn ở mức cao. Tuy nhiên, trong một tương lai không xa, những nguồn nguyên liệu này có thể có nguy cơ cạn kiệt và khi đó việc tận dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất là rất hợp lý. Thông tin từ ngành thép cho ta thấy bức tranh rất rõ nét về điều này. Theo điều tra địa chất, lượng quặng khoáng sản của Việt Nam vào khoảng 1,2 tỷ tấn, nhưng trữ lượng thăm dò mới chỉ đạt 568 triệu tấn, được phân bố ở nhiều nơi với chất lượng không cao. Hay nói một cách khác thì trữ lượng quặng của Việt Nam là hữu hạn và chỉ có thể đáp ứng nhu cầu trong một vài chục năm tới. Bên cạnh đó, lượng than mỡ - nguyên liệu chính được sử dụng cho các lò luyện phôi thép của Việt Nam cũng có trữ lượng rất hạn chế, chất lượng thấp. Chính vì vậy, việc sử dụng quặng sắt làm nguyên liệu cho ngành thép không phải là những định hướng ưu tiên cho giai đoạn tới. Để đảm bảo cho sự phát triển ổn định của ngành, việc sử dụng phế liệu là hết sức cần thiết 3.2.1.4. Việc thu gom phế liệu trong nước rất hạn chế Nhu cầu sử dụng phế liệu của các ngành sản xuất ngày càng lớn trong khi khả năng thu mua từ nguồn trong nước thì tương đối hạn chế hạn chế. Điển hình như ngành thép, thép phế thu mua trong nước chủ yếu ở dạng thép phế thải trong sản xuất công nghiệp, sinh hoạt, thép phế từ phá dỡ tàu cũ, nhà xưởng, máy móc thiết bị cũ và thép phế trong chiến tranh để lại. Trước đây, lượng thép phế thu mua trong nước đáp ứng phần lớn nhu cầu thép phế của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế này sẽ có nhiều thay đổi do: - Nhu cầu thép phế tăng đột biến do có hàng loạt các doanh nghiệp luyện phôi mới đi vào hoạt động cũng như sắp đi vào hoạt động trong thời gian tới. Trong khi, mức tăng trưởng bình quân của lượng sắt thép phế liệu thu mua trong nước chỉ vào khoảng 14 – 15% thì lượng thiếu hụt sẽ là rất lớn. - Ngoài ra, lượng sắt thép phế có nguồn gốc từ chiến tranh sẽ dần bị thu hẹp do đã được khai thác rất triệt để trọng giai đoạn vừa qua. Thêm vào đó, với qui định cấm nhập khẩu tàu cũ để phá dỡ thì một lượng lớn sắt thép phế liệu từ nguồn này sẽ không còn nữa. Đối với ngành giấy cũng tương tự, với mức tiêu thụ giấy trung bình hàng năm trên đầu người của Việt Nam ở mức thấp (khoảng trên 10kg/người/năm) thì lượng giấy phế liệu có thể thu gom từ nguồn trong nước cũng không nhiều. Với những nhân tố ở trên, việc gia tăng lượng phế liệu nhập khẩu trong thời gian tới sẽ là không thể tránh khỏi. Trong định hướng phát triển của các ngành trong giai đoạn tới, một yêu cầu đặt ra hết sức rõ ràng là tăng cường khả năng cung ứng nguồn nguyên liệu nội địa, giảm sự phụ thuộc vào thị trường bên ngoài (giảm lượng phôi thép nhập khẩu, bột nhựa, bột giấy nhập khẩu) . Có rất nhiều các giải pháp đưa ra nhằm tăng khả năng cung cấp nguyên liệu cho các ngành, trong đó, việc sử dụng phế liệu là một giải pháp hết sức quan trọng. Hiện tại, hầu hết các ngành sản xuất của ta đều xảy ra tình trạng mất cân đối giữa năng lực sản xuất và khả năng cung ứng nguyên liệu. Ngành thép hiện tại chỉ đáp ứng được 30% nguồn nguyên liệu cho công đoạn cán thép. Ngành giấy, ngành nhựa cũng vậy, khả năng cung ứng từ nguồn trong nước cũng chỉ ở mức trên dưới 30%. Sự mất cân đối này đã đặt ra yêu cầu cho các ngành tăng khả năng cung ứng nguyên liệu nội địa. VD theo định hướng của ngành thép thì trong thời gian tới, với một số nhà máy luyện phôi mới đi vào hoạt động, khoảng 40% - 50% nguồn nguyên liệu cho ngành thép sẽ được cung cấp từ nguồn nguyên liệu nội địa. 3.2.2. Dự báo nhu cầu nhập khẩu phế liệu của các ngành trong thời gian tới Ngành thép Đối với ngành thép, việc dự báo nhu cầu nhập khẩu sắt thép phế liệu được căn cứ trên nhu cầu của hai nhóm sử dụng chính, bao gồm: Đối với các doanh nghiệp luyện phôi: Nhu cầu nhập khẩu sắt thép phế liệu cho nhóm đối tượng này sẽ được căn cứ vào các tiêu chí sau: Thực trạng về năng lực sản xuất phôi thép của các doanh nghiệp đã và sẽ đi vào hoạt động trong giai đoạn dự báo Nhu cầu sử dụng sắt thép phế liệu của các doanh nghiệp này Khả năng thu mua sắt thép phế liệu từ các nguồn trong nước Đối với các doanh nghiệp, hộ tư nhân tại các làng nghệ: sử dụng sắt thép phế liệu để gia công trực tiếp. Việc tính toán nhu cầu nhập khẩu của nhóm đối tượng này sẽ được căn cứ trên con số thông kê của Hiệp hội thép – đây là nhóm sử dụng khoảng 30% lượng sắt thép phế liệu nhập khẩu Bảng 3.4 - Dự báo nhu cầu NK phế liệu phục vụ SX phôi thép giai đoạn 2007 – 2010 Năm 2007 2008 2009 2010 Sản lượng phôi thép 1.735 2.460 2.922 3.382 Nhu cầu thép phế liệu 1.970 2.767 3.303 3.606 Thu mua trong nước 567 712 809 958 Nhập khẩu 1.403 2.055 2.495 2.648 Nguồn: Theo dự báo của Hiệp hội Thép Việt Nam Ngành giấy Với những hạn chế về mặt số liệu, đặc biệt là những số liệu liên quan đến khả năng thu mua phế liệu giấy trong nước cũng như năng lực cung ứng nguyên liệu trong nước thời gian tới, việc dự báo nhu cầu nhập khẩu phế liệu trong thời gian tới sẽ dự trên thực trạng nhập khẩu phế liệu và tốc độ tăng trung bình giai đoạn vừa qua. Bảng 3.5 - Dự báo nhu cầu nhập khẩu giấy và bìa cattong phế liệu giai đoan 2007 - 2010 Năm 2007 2008 2009 2010 Lượng nhập khẩu (tấn) 31.596 38.200 46.184 55.836 Nguồn : Theo tổng hợp Ngành nhựa Tương tự như ngành giấy, việc dự báo nhu cầu nhập khẩu của ngành nhựa cũng dựa trên thực trạng nhập khẩu phế liệu thời gian qua và tốc độ tăng trưởng bình quân của nhu cầu đối với nguồn nguyên liệu này. Bảng 3.6 - Dự báo nhu cầu nhập khẩu nhựa phế liệu giai đoan 2007 - 2010 Năm 2007 2008 2009 2010 Lượng (tấn) 137.688 187.256 254.668 346.348 Nguồn : Theo tổng hợp 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả các công cụ quản lý nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất trong thời gian tới 3.3.1. Giải pháp về phía Nhà nước 3.3.1.1. Nâng cao hiệu quả của các công cụ quản lý nhập khẩu phế liệu hiện tại Công cụ mệnh lệnh hành chính Các quy định về nhập khẩu phế liệu có tác động trực tiếp đối với hành vi của các chủ thể liên quan đến hoạt động nhập khẩu phế liệu sắt thép như: Hải quan, thuế, cơ quan môi trường… và các doanh nghiệp nhập khẩu. Vì vậy, để hoạt động nhập khẩu phế liệu diễn ra theo đúng định hướng phát triển chung của đất nước, chúng ta phải không ngừng hoàn thiện các biện pháp có liên quan, đặc biệt là các công cụ mệnh lệnh hành chính. Cụ thể Mở rộng đối tượng tham gia vào hoạt động nhập khẩu: Theo những qui định hiện tại, chủ thể được phép tham gia vào hoạt động nhập khẩu phế liệu gồm: nhà sản xuất và các doanh nghiệp thương mại. Đối với chủ thể là các doanh nghiệp thương mại thì cần kèm theo các ràng buộc nhất định (có hợp đồng ủy thác nhập khẩu với nhà sản xuất ..). Những qui định này đã gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp này, đặc biệt, là giảm tính chủ động của học trong hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy, việc mở rộng quyền được tham gia vào hoạt động nhập khẩu phế liệu của loại chủ thể này là hết sức cần thiết. Các biện pháp nhằm khuyến khích việc tham gia của các doanh nghiệp trong thời gian tới là: Thay thế các hợp đồng ủy thác bằng các hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường khác. Với biện pháp này, các doanh nghiệp thương mại và các doanh nghiệp sản xuất sẽ chủ động trong việc đàm phán, đặc biệt là vấn đề giá cả. Đối với các trường hợp đặc biệt như các hợp đồng cung cấp dài hạn của các doanh nghiệp thương mại đối với các nhà sản xuất nhưng được nhập thành nhiều lần, cần có những qui định cụ thể nhằm giảm phiền hà của các doanh nghiệp khi thông quan. Thay thế các biện pháp kiểm soát năng lực của các chủ thể sử dụng phế liệu nhập khẩu hiện tại bằng các biện pháp kinh tế, linh hoạt và hiệu quả hơn. Xây dựng các chế tài xử lý đối với các trường hợp vi phạm: Để đảm bảo tính thực thi của các biện pháp đưa ra, một trong những vấn đề hết sức quan trọng đó là các chế tài đi kèm. Theo các văn bản pháp qui hiện hành, việc xử lý đối với các trường hợp vi phạm là tịch thu hàng hoá và phạt vi phạm hành chính với mức cao nhất chỉ là 70 triệu đồng; tuy nhiên, trên thực tế thì chưa có một doanh nghiệp nào phải chịu mức phạt này. Ngoài ra, so với mức thiệt hại mà các doanh nghiệp gây ra khi vi phạm các qui định của Nhà nước trong hoạt động nhập khẩu phế liệu thì con số này là quá nhỏ. VD như vụ nhập khẩu trái phép trên 40 contener ác qui chì, thì chi phí cho việc xử lý các vấn đề môi trường khi lưu kho bãi tại cảng cũng như xử lý bản thân các contener này trong trường hợp các doanh nghiệp trốn tránh trách nhiệm sẽ lớn hơn rất nhiều. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng các chế tài mới và hoàn thiện các chế tài hiện hành như thế nào để tránh tình trạng đã lỡ nhập khẩu rác thải vào Việt Nam mà không thể xử lý được như hiện nay; đồng thời các chế tài mới sẽ phải có tính giáo dục và thuyết phục cao đối với các cá nhân và tổ chức nhập khẩu phế liệu để họ cân nhắc thận trọng giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm pháp lý của họ trước khi có quyết định nhập hàng. Muốn thế, các chế tài này phải đồng bộ và có tính khả thi cao. Trong việc xây dựng hệ thống các chế tài xứ lý các trường hợp vi phạm trong nhập khẩu phế liệu nên tăng thêm số lượng và mức độ các chế tài kinh tế, cụ thể là: Chế tài áp dụng nguyên tắc: đối tượng vi phạm, gây ra sự cố ô nhiễm môi trường phải chịu kinh phí để khắc phục và bồi thường thiệt hại. Xây dựng và ban hành sớm các quy định cụ thể về việc bồi thường thiệt hại về môi trường đối với các tổ chức cá nhân có hành vi gây ô nhiễm môi trường do hoạt động kinh doanh phế liệu sắt thép nhập khẩu gây ra Công cụ kỹ thuật Xây dựng bộ tiêu chuẩn hoàn chỉnh đối với từng loại phế liệu được phép nhập khẩu. Hiện nay, tiêu chuẩn được xây dựng chung cho tất cả các loại phế liệu, tuy nhiên, mỗi loại phế liệu khác nhau lại có những đặc thù khác nhau. Chính vì vậy, cần xây dựng bộ tiêu chuẩn cho từng loại phế liệu một. Trong bộ tiêu chuẩn đó chứa các quy định cụ thể về: chủng loại phế liệu được phép nhập khẩu, tỷ lệ tạp chất không nguy hại, nguồn gốc phế liệu ... Những tiêu chuẩn này sẽ trở thành căn cứ cho doanh nghiệp trong đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu, về phía nhà nước, công tác kiểm tra giám sát của Hải quan cũng trở nên nhanh chóng và rõ ràng hơn. Một số cân nhắc trong việc xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật cho các loại phế liệu được phép nhập khẩu là: Căn cứ trên năng lực của các doanh nghiệp trong việc xử lý các phế thải, các tạp chất đi kèm trong quá trình nhập khẩu và sử dụng phế liệu. Căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước, đặc biệt là các mục tiêu về bảo vệ môi trường quốc gia Dựa vào kinh nghiệp của một quốc gia trong việc xây dựng các bộ tiêu chuẩn này Công cụ kinh tế Thực tế cho thấy, biện pháp quản lý nhập khẩu phế liệu thời gian quan chủ yếu tập trung vào các biện pháp mệnh lệnh hành chính, hiệu quả mang lại không cao, chưa thực sự gắn kết lợi ích của doanh nghiệp trong việc thực thi các qui định này. Với những ưu điểm của việc áp dụng công cụ kinh tế cũng như thực tiễn áp dụng các công cụ này cho thấy cần tăng cường việc sử dụng công cụ kinh tế trong thời gian tới. Các biện pháp có thể là: Nghiên cứu áp dụng thuế/phí môi trường đối với phế liệu nhập khẩu. Mức thuế/phí này sẽ thay đổi theo từng loại phế liệu khác nhau. Ví dụ, tiêu chuẩn thép phế liệu được chia làm nhiều loại khác nhau dựa trên khả năng tác động đến môi trường. Căn cứ vào mức tiêu chuẩn này, mức thuế/phí môi trường sẽ được xây dựng theo hướng điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp lựa chọn loại phế liệu ít gây ảnh hưởng đến môi trường, đồng thời vẫn hiệu quả về mặt kinh tế. Với biện pháp này doanh nghiệp sẽ chủ động hơn trong những lựa chọn của mình, mặt khác tạo nguồn kinh phí cần thiết dùng để xử lý ô nhiễm môi trường do hoạt động nhập khẩu phế liệu gây ra. Nghiên cứu áp dụng công cụ đặt cọc hoàn trả trong hoạt động nhập khẩu sắt thép phế liệu. Khi áp dụng công cụ này, doanh nghiệp nhập khẩu cần đóng một khoản tiền đặt cọc nhất định (tỷ lệ tương ứng với giá trị nhập khẩu) cho cơ quan quản lý. Trong trường hợp các doanh nghiệp này không tuân thủ các quy định của Nhà nước về quản lý hoạt động nhập khẩu, cơ quan chức năng liên quan sẽ thực hiện xung công quỹ một phần hoặc toàn bộ khoản tiền này. Nguồn kinh phí thu được sẽ sử dụng vào mục đích khắc phục hậu quả về môi trường do những hành vi của chính các tổ chức cá nhân nhập khẩu phế liệu. Với việc áp dụng công cụ này có thể phần nào giải quyết được hậu quả do tình trạng nhập khẩu trái qui định, nhập khẩu rác thải mà doanh nghiệp không thể tái xuất cũng như không thể tự xử lý. Số tiền đặt cọc này sẽ ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu với những tác động môi trường do họ gây ra. Trong trường hợp doanh nghiệp không vi phạm qui định, số tiền này sẽ được bồi hoàn trong một khoảng thời gian nhất định. Những quy định về đặt cọc đối với các tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu sắt thép phải thể hiện đầy đủ các nội dung, từ mức nộp, trình tự thủ tục nộp, trả tiền đặt cọc cũng như xử lý nó khi xảy ra vi phạm… Công cụ giáo dục tuyên truyền Đối với đối tượng là các cơ quan quản lý, đặc biệt là các đơn vị quản lý cấp địa phương, cần phổ biến quán triết quan điểm của Nhà nước trong việc cho phép nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất. Với các qui định mới có liên quan tới hoạt động này, cần tổ chức phổ biến rộng rãi, tổ chức các lớp tập huấn nhằm giúp các cán bộ thực hiện hiểu rõ cũng như thống nhất cách hiệu đối với những qui định nhằm tránh những vướng mắc không cần thiết cho doanh nghiệp. Đối với đối tượng là các doanh nghiệp tham gia nhập khẩu, sử dụng phế liệu nhập khẩu, công tác tuyên truyền cần tập trung vào các nội dung sau: Tuyên truyền và phổ biến về các qui định, chủ trương, chính sách liên quan đến việc nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất. Ngoài các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan quản lý chuyên ngành như Bộ Tài nguyên và Môi trường có thể tổ chức các lớp tập huấn cho doanh nghiệp về các qui định này giúp doanh nghiệp hiểu và thực thi một cách dễ dàng. Tuyên truyền về ý thức và trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường trong việc nhập khẩu, sử dụng phế liệu nhập khẩu nói riêng. Giới thiệu cho doanh nghiệp về những công nghệ tiên tiến, công nghệ xử lý chất thải phù hợp nhằm nâng cao khả năng xử lý các vấn đề môi trường trong khâu sử dụng phế liệu. Đối với đối tượng là cộng đồng dân cư: Tuyên truyền, phổ biến thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về chính sách, chủ trương, pháp luật của Nhà nước trong vấn đề bảo vệ môi trường nói chung và trong hoạt động nhập khẩu phế liệu nói riêng. Tạo dư luận xã hội, lên án mạnh mẽ đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường của các cá nhân và tổ chức trong kinh doanh phế liệu nhập khẩu. Vai trò của dư luận xã hội là rất quan trọng đối với sự phát triển và sống còn của một doanh nghiệp. Khi ý thức bảo vệ môi trường của người dân được nâng cao thì thái độ của họ đối với việc làm ô nhiễm môi trường (nhập chất thải độc hại, để các tạp chất độc hại phát tán ra môi trường…) của các doanh nghiệp là rất quyết liệt và có thể tạo áp lực đối với những doanh nghiệp đó. Vì vậy trong kinh doanh, các doanh nghiệp không thể quá chú ý đến mục tiêu lợi nhuận mà quên đi trách nhiệm bảo vệ môi trường. Ngoài ra, một số nội dung tuyên truyền khác cần trú trọng như: Tổ chức các lớp tập huấn về chính sách pháp luật, nêu rõ nguy cơ và tác hại của chất thải đối với môi trường và sức khoẻ cộng đồng cho các đối tượng liên quan đến hoạt động nhập khẩu, sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất. Có các hình thức khuyến kích bằng cả vật chất và tinh thần hay tuyên dương trên các phương tiện truyền thông đối với các cơ sở nhập khẩu phế liệu thực hiện tốt các quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường. Làm tốt công tác tuyên dương đối với những cán bộ gương mẫu trong công tác quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu. Nâng cao hiểu biết các điều ước quốc tế về môi trường cũng như thương mại, nhất là những quy định của WTO liên quan đến môi trường trong thương mại quốc tế cho các nhà hoạch định chính sách nhập khẩu phế liệu. Có như vậy, chính sách nhập khẩu phế liệu của chúng ta mới phù hợp với pháp luật quốc tế nhất là trong giai đoạn tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của Việt Nam. 3.3.1.2. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động nhập khẩu phế liệu Hiện nay, cơ chế kiểm soát đối với phế liệu nhập khẩu chủ yếu là do Hải quan cửa khẩu đảm trách. Việc kiểm soát của cơ quan môi trường tại cửa khẩu hầu như chỉ xuất hiện khi có đề nghị từ phía Hải quan. Nghiệp vụ kỹ thuật cũng như sự hiểu biết về quản lý ô nhiễm môi trường của cán bộ Hải quan còn hạn chế vì lĩnh vực này không phải là chuyên môn chính của họ. Do đó cần có những biện pháp sau nhằm tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng trong hoạt động này: Thường xuyên mở các lớp tập huấn trang bị cho cán bộ hải quan những kiến thức, kỹ năng cơ bản trong công tác đánh giá, kiểm tra phế liệu nhập khẩu. Lập trạm kiểm soát liên ngành bao gồm Hải quan - Môi trường - Cảng vụ… tại các cửa khẩu có khối lượng phế liệu nhập khẩu lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hải phòng… để việc kiểm soát hoạt động nhập khẩu phế liệu được chặt chẽ và nhanh gọn hơn, tạo điều kiện thông quan dễ dàng. Đầu tư, trang bị cho lực lượng kiểm soát hoạt động nhập khẩu phế liệu tại các cửa khẩu những thiết bị giám định phế liệu tiên tiến, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Với các thiết bị này, các cơ quan chức năng sẽ có những căn cứ xác định lô hàng nhập khẩu là “phế liệu” hay “rác thải”, tránh tình trạng đánh giá theo “cảm quan”. Tăng cường hơn nữa hiệu lực xử lý các vi phạm về môi trường cho các cơ quan chức năng như Cục Hải quan, Sở Tài nguyên và Môi trường nhằm xử lý, ngăn chặn kịp thời những hành vi gây tác động xấu đến môi trường của các doanh nghiệp khi doanh nghiệp nhập khẩu sai qui định hay lợi dụng việc cho phép nhập khẩu phế liệu để đưa rác thải vào Việt Nam. Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, nhất là các tỉnh có đường biên giới trên bộ như Lạng Sơn, Nghệ An, Hà Tĩnh, Tây Ninh… chủ động phối hợp với các lực lượng liên quan như quản lý thị trường, bộ đội biên phòng, hải quan… để kiểm soát và xử lý những hành vi nhập lậu phế liệu, phế thải vào nước ta. Đẩy mạnh công tác “hậu kiểm” đối với các doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu thép nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những vi phạm về bảo vệ môi trường từ đó nâng cao trách nhiệm đối với môi trường của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra là biện pháp tích cực để phát hiện và xử lý các doanh nghiệp nhập khẩu rác thải vào nước ta. Đồng thời, nhờ làm tốt công việc nói trên, các cơ quan có thẩm quyền có điều kiện bám sát thực tiễn, từ đó bổ sung, hoàn chỉnh các chính sách, quy định để giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc nhập khẩu phế liệu, hạ giá thành sản phẩm, phát triển sản xuất và bảo vệ môi trường. 3.3.1.3. Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất. Nâng cấp hệ thống cảng biển hiện tại, đồng thời nghiên cứu xây dựng các cảng nước sâu có trọng tải lớn nhằm đảm bảo cho việc nhập phế liệu với quy môi lớn. Cải thiện và nâng cao khả năng bốc xếp tại các cảng biển để đảm bảo cho việc nhập khẩu phế liệu được nhanh chóng, hạn chế thời gian lưu kho bãi cho doanh nghiệp, góp phần giảm thời gian và tiết kiệm chi phí. Cần có những quy hoạch phát triển hệ thống kho bãi chứa phế liệu nhập khẩu phù hợp, ổn định và lâu dài, đảm bảo được một số yếu tố như: Đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn kỹ thuật đối với nơi tập kết phế liệu. Trong thiết kế, xây dựng hệ thống kho bãi cần phải tìm hiểu và học tập kinh nghiệm của các nước phát triển, đặc biệt là các nước sử dụng phế liệu thép làm nguyên liệu sản xuất và có điều kiện tự nhiên tương tự Việt Nam. Trong quy hoạch hệ thống kho bãi chứa phế liệu nhập khẩu phải chú ý tạo điều kiện thuận lợi nhằm đảm bảo cho công tác bốc dỡ, vận chuyển, bóc tách làm sạch không gây ô nhiễm môi trường. 3.3.1.4. Hình thành các doanh nghiệp chuyên tái chế Nhà nước cần khuyến khích việc hình thành các doanh nghiệp chuyên tái chế với công nghệ sản xuất cũng như công nghệ xử lý chất thải phù hợp nhằm khuyến khích việc tận dụng nguồn nguyên liệu này. Kêu gọi đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài – những doanh nghiệp có ưu thế về vốn và công nghệ tham gia vào lĩnh vực tái chế thông qua những ưu đãi về môi trường đầu tư. 3.3.1.5. Nhanh chóng xây dựng những biện pháp hạn chế ô nhiễm môi trường ở các làng nghề tái chế Các biện pháp đó có thể là: Có các chính sách tạo điều kiện để nhanh chóng đưa công nghệ mới vào các làng nghề thủ công sản xuất. Công nghệ mới cần phải giải quyết được những vấn đề như: giảm lượng chất thải, sử dụng tiết kiệm và hợp lý nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, tài nguyên, áp dụng các biện pháp quản lý và xử lý chất thải phù hợp nhằm bảo vệ môi trường; Các cơ quan quản lý khoa học, công nghệ và môi trường ở các địa phương cần có kế hoạch chủ động phối hợp với các viện nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ của trung ương nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường ở địa phương mình. Trong đó cần chú trọng tới cải tiến công nghệ sản xuất và áp dụng công nghệ môi trường đơn giản, dễ ứng dụng và rẻ tiền trong xử lý chất thải từ sử dụng phế liệu; Tăng cường mạng lưới quản lý môi trường tới các khu vực sản xuất. Tại các địa phương có các làng nghề, cần tổ chức quản lý theo mô hình tăng cường công tác giáo dục cộng đồng về trách nhiệm bảo vệ môi trường và tạo các điều kiện để thúc đẩy việc áp dụng công nghệ môi trường vào sản xuất; Cần tổ chức đội bảo vệ môi trường, từ cấp xã đến cấp làng nghề, hoạt động theo các quy định về môi trường do địa phương đề ra, tiến hành thu phí môi trường theo các hộ sản xuất, tổ chức triển khai và kiểm soát chặt chẽ các ứng dụng công nghệ môi trường ở địa phương; Qui hoạch các cụm sản xuất làng nghề với cơ sở hạ tầng được đầu tư (hệ thống xử lý nước thải, khí thải, chất thải rắn …) nhằm hạn chế các tác động đến môi trường xung quanh cũng như bảo vệ môi trường một cách hiệu quả. 3.3.2. Giải pháp về phía hiệp hội Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới, các Hiệp hội ngành hàng đóng vai trò hết sức quan trọng trọng việc giải quyết những vấn đề liên quan tới cộng đồng doanh nghiệp như: việc đưa ra các định hướng lớn trong chiến lược phát triển ngành, phát triển sản phẩm đến việc tham gia xây dựng và thực hiện các chính sách nhập khẩu phế liệu, hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết các tranh chấp trong hoạt động thương mại ... Hơn nữa, Hiệp hội còn là diễn đàn cho các doanh nghiệp gặp gỡ trao đổi học hỏi lẫn nhau, là nơi để các doanh nghiệp có thể phản ánh nguyện vọng, ý kiến đến Chính phủ, các cơ quan quản lý Nhà nước. Những giải pháp từ phía Hiệp hội góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhập khẩu phế liệu thời gian tới là: Tạo ra kênh thông tin chặt chẽ giữa doanh nghiệp với Hiệp hội nhằm tiếp thu những ý kiến của doanh nghiệp trong vấn đề thực thi các chính sách, qui định trong hoạt động nhập khẩu phế liệu, những khó khăn thuận lợi, từ đó có những phản ánh kịp thời tới cơ quan nhà nước có liên quan nhằm nhanh chóng giải quyết những vướng mắc của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các Hiệp hội cũng nắm bắt nhu cầu của doanh nghệp trong việc tham mưu, tư vấn các biện pháp phát triển ngành hàng cũng như bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Với vai trò đại diện cho tiếng nói của doanh nghiệp, các Hiệp hội cần chủ động tham gia vào quá trình xây dựng các chính sách, văn bản có liên quan tới ngành nói chung và hoạt động nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất nói riêng. Từ trước tới nay, hầu như các văn bản được đưa ra chưa tính đến phản ứng của những đối tượng chịu tác động (như các doanh nghiệp), chính vì vậy, trong quá trình triển khai thực hiện, rất nhiều khó khăn không lường trước được đã xảy ra. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng không thể đứng độc lập để đưa ra những ý kiến của mình, do đó, việc các Hiệp hội tích cực tham gia vào quá trình này là hết sức quan trọng. Các Hiệp hội có thể phối hợp với các cơ quan quản lý hoặc tự tổ chức các lớp đào tạo và tập huấn cho doanh nghiệp về các chủ chương, chính sách liên quan đến hoạt động nhập khẩu cho doanh nghiệp, hướng dẫn doanh nghiệp về thủ tục, trình tự việc nhập khẩu; tiêu chuẩn phế liệu được phép nhập khẩu; các chế tài xử lý trong trường hợp vi phạm cũng như các vấn đề có liên quan khác. 3.3.3. Giải pháp về phía doanh nghiệp 3.3.3.1. Nâng cao nhận thức của bản thân doanh nghiệp về bảo vệ môi trường trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất nói riêng Bản thân mỗi doanh nghiệp cần được nâng cao nhận thức của mình đối với mục tiêu bảo vệ môi trường, khi đó, doanh nghiệp có thể chủ động đưa ra những biện pháp phù hợp nhằm hướng tới mục tiêu bảo vệ môi trường cũng như đảm bảo các lợi ích về mặt kinh tế của mình. Các giải pháp cụ thể có thể là: Tham gia các lớp đào tạo và tập huấn của các cơ quan quản lý Nhà nước, Hiệp hội về vấn đề bảo vệ môi trường trong doanh nghiệp cũng như bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu. Tích cực tham gia các lớp quán triệt các chủ chương, văn bản và qui định có liên quan đến hoạt động nhập khẩu phế liệu. Chủ động tìm kiếm thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các diễn đàn của doanh nghiệp về các vấn đề liên quan đến hoạt động nhập khẩu phế liệu, những thuận lợi, khó khăn và hướng giải quyết. 3.3.3.2. Nâng cao khả năng của doanh nghiệp trong việc xử lý các vấn đề môi trường phát sinh Bên cạnh những nguyên nhân từ cơ chế quản lý của Nhà nước, một nhân tố quan trọng làm phát sinh các tác động đến môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất là khả năng của doanh nghiệp trong việc xử lý các vấn đề môi trường, mà cụ thể là nó được thể hiện ở trình độ công nghệ sản xuất cũng như trình độ công nghệ xử lý chất thải của doanh nghiệp. Chính vì vậy, để đảm bảo các mục tiêu về môi trường, thời gian tới, các giải pháp cho vấn đề nên hướng vào những điểm sau: Đối với các doanh nghiệp có nguồn vốn đầu tư lớn cần chủ động lựa chọn những công nghệ hiện đại, hiệu quả, tận dụng tối đa các yếu tố đầu vào nhằm tránh những tác động đến môi trường trong quá trình sản xuất. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với nguồn đầu tư tương đối hạn chế, giải pháp đưa ra là cần cải tạo từng bước, theo hướng ngày một hiện đại, tận dụng những công nghệ hiện có. Đối với doanh nghiệp trong làng các làng nghề tái chế thì việc hình thành các cụm sản xuất là một giải pháp hiệu quả. Thực hiện một cách hiệu quả công tác quản lý môi trường trong doanh nghiệp. Áp dụng các hệ thống quản lý môi trường như: ISO 14000, TQM …; Áp dụng phương pháp sản xuất sạch hơn. Không ngừng hoàn thiện điều kiện kho bãi cho việc lưu trữ các phế liệu trong quá trình sản xuất 3.3.3.3. Nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý của các doanh nghiệp. Trong bối cảnh nền kinh tế mở, hội nhập kinh tế quốc tế sâu như hiện nay, các doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm thị trường, đối tác, công nghệ… chủ động đầu tư vốn, mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh. Để có thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh quốc tế, điều cần thiết là các doanh nghiệp phải chuẩn bị cho mình một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi, am hiểu nghiệp vụ và tinh thông ngoại ngữ. Đối với các cán bộ quản lý doanh nghiệp, trước hết họ cần có đủ kiến thức về quản lý doanh nghiệp, nắm vững các quy định của Nhà nước về quản lý nhập khẩu phế liệu, sản xuất và kinh doanh phế liệu; Họ phải có năng lực phân tích kinh tế và môi trường, biết gắn kết lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường, có khả năng phân tích chi phí - lợi ích khi phải tiến hành đồng thời cả hai nhiệm vụ: vừa sản xuất, kinh doanh, vừa phải đảm bảo các quy định về môi trường. Nhờ có các cán bộ quản lý doanh nghiệp như vậy, chắc chắn hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp sẽ đạt được kết quả tốt và tránh những vi phạm pháp luật do không biết hoặc không nắm vững các quy định, chính sách của Nhà nước. Đối với các cán bộ kinh doanh của doanh nghiệp, họ phải nắm vững được các kỹ thuật, nghiệp vụ, linh hoạt và nhạy bén đối phó với những biến động của thị trường nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Cần phải có cán bộ chuyên trách, có trình độ về luật pháp, am hiểu tường tận các quy định của Nhà nước về nhập khẩu, xử lý chất thải trong quá trình tái chế và các tiêu chuẩn cụ thể đối với phế liệu. Chính họ sẽ là người tư vấn cho lãnh đạo doanh nghiệp trong các phương án kinh doanh, sản xuất từ phế liệu. Các cán bộ của doanh nghiệp, dù là cán bộ quản lý hay là nhân viên kinh doanh, cán bộ chuyên trách về môi trường cần được thường xuyên tập huấn để bổ sung, cập nhật những kiến thức nghiệp cụ cần thiết (về ngoại thương, thị trường…, những kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp, những chính sách quy định mới của Nhà nước có liên quan đến nhập khẩu phế liệu sắt thép cũng như công nghệ tiên tiến trong xử lý chất thải) để áp dụng và thực hiện trong doanh nghiệp một cách linh hoạt và hiệu quả. 3.3.3.4. Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về môi trường Bảo vệ môi trường là do con người và vì con người. Chính vì vậy trước hết cần phải có sự thay đổi căn bản trong nếp nghĩ, cách nhìn của mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ về sự cần thiết phải bảo vệ môi trường. Phải có ý thức tự giác cao về hậu quả của việc nhập khẩu và xử lý không tốt phế liệu gây ra ô nhiễm môi trường. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải có những kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhân viên những kiến thức về môi trường. Trên cơ sở nắm vững, có ý thức bảo vệ môi trường thì họ mới tự giác chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về môi trường. Mặt khác, các doanh nghiệp sử dụng phế liệu hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này thường sử dụng công nghệ lạc hậu, máy móc thiết bị cũ kỹ, các trang thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường còn thiếu, không đủ điều kiện để xử lý các chất thải ra trong quá trình tái sản xuất, tái chế phế liệu. Do đó, trong thời gian tới chính các doanh nghiệp này nhất thiết cần áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường theo ISO 14.000. Các doanh nghiệp sản xuất, tái chế phế liệu cần chủ động áp dụng các biện pháp phòng ngừa ô nhiễm môi trường, tiến tới mục tiêu “sản xuất sạch”. 3.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả các công cụ quản lý nhập khẩu phế liệu Nhà nước cần khuyến khích việc nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất thông qua việc quán triệt quan điểm này trong các văn bản, chính sách thời gian tới nhằm, một mặt đảm bảo nhu cầu sản xuất trong nước, khai thác các lợi thế về mặt kinh tế và môi trường của việc nhập khẩu phế liệu này, đồng thời hạn chế tới mức thấp nhất các tác động đến môi trường.; Mở rộng quyền kinh doanh của nhóm chủ thể là các doanh nghiệp thương mại nhằm khai thác những lợi thế của đối tượng này trong hoạt động nhập khẩu phế liệu. Thay thế các thủ tục hành chính bằng các biện pháp kinh tế linh hoạt và hiệu quả trong việc hướng tới mục tiêu bảo vệ môi trường. Nghiên cứu khả năng áp dụng công cụ thuế/phí môi trường và công cụ đặt cọc hoàn trả trong việc nhập khẩu phế liệu. Việc áp dụng những công cụ này sẽ giúp doanh nghiệp có thể tự lựa chọn một phương án tối ưu vừa đảm bảo các mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp đồng thời đạt được các mục tiêu môi trường của nhà nước. Xây dựng và hoàn thiện bộ tiêu chuẩn kỹ thuật đối với từng loại phế liệu được phép nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất vào Việt Nam. Trong bộ tiêu chuẩn đó quy định về: tỷ lệ tạp chất không nguy hại, chủng loại phế liệu, nguồn gốc xuất xứ … cần được làm rõ. Bộ tiêu chuẩn này phải dựa trên khả năng xử lý phế thải của các doanh nghiệp Việt Nam, điều kiện kinh tế - xã hội đất nước và kinh nghiệm của một số nước; Sớm ban hành Thông tư liên ngành điều chỉnh hoạt động nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất. Thông tư này thể hiện đầy đủ ý chí của các Bộ như: Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, Bộ Công thươngi nhằm gắn trách nhiệm cũng như tạo ra cơ chế phối hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa các ngành đó trong vấn đề quản lý phế liệu nhập khẩu; Xây dựng các chế tài vừa đảm bảo tính nghiêm minh vừa mang tính giáo dục ý thức bảo vệ môi trường đối với các chủ thể vi phạm các quy định vể quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất. Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát đối với hoạt động nhập khẩu phế liệu nói chung và nhập khẩu phế liệu sắt thép nói riêng; Có những phương án khắc phục và hạn chế ô nhiễm môi trường ở các làng nghề sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất – nơi tập trung chủ yếu các doanh nghiệp sử dụng phế liệu, đồng thời cũng là nơi mà nguy cơ tác động đến việc sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất lớn nhất. Nhà nước cần khuyến khích việc hình thành các doanh nghiệp chuyên tái chế cũng như kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này, đặc biệt là các nhà đầu tư có kinh nghiệm, năng lực trong lĩnh vực tái chế. Rà soát và điều chỉnh nhằm đảm bảo tính tương thích của các qui định hiện tại trong hoạt động nhập khẩu phế liệu với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên KẾT LUẬN Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu trong thời gian tới trên cơ sơ những phân tích và đánh giá thực tiễn của hoạt động nhập khẩu phế liệu cũng như thực trạng các công cụ quản lý để đưa ra những giải pháp trong thời gian tới là mục tiêu của luận văn: “Quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu tại Việt Nam”. Với những nỗ lực bản thân, luận văn đã có những đóng góp và kết quả nhất định. Cụ thể như sau: Luận văn đã đạt được một số kết quả chính như sau: Thứ nhất: Làm rõ thực trạng việc sử dụng và nhập khẩu phế liệu của Việt Nam trong thời gian qua. Tiến hành phân tích đánh giá nhằm tạo tiền đề cho việc dự báo nhu cầu nhập khẩu phế liệu trong thời gian tới. Thứ hai: Luận văn đã làm rõ những nhân tố tác động đến môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu, những tác động xét trên khía cạnh kinh tế và môi trường. Với những phân tích của luận văn cho thấy rằng: ngoài những nguy cơ tới môi trường của việc sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, hoạt động này còn mang lại những lợi ích không nhỏ về kinh tế (giảm chi phí khai thác tài nguyên, giảm chi phí xử lý chất thải, phát triển sản xuất trong nước, giảm tiêu hao nguyên nhiên liệu cho doanh nghiệp) và môi trường (giảm khai thác tài nguyên đặc biệt là những tài nguyên không thể tái tạo, giảm lượng rác thải bị loại bỏ ra môi trường, giảm lượng chất thải …). Đây sẽ là những căn cứ để đưa ra định hướng trong hoạt động nhập khẩu thời gian tới. Thứ ba: Luận văn đã phân tích được thực trạng các công cụ quản lý đối với hoạt động nhập khẩu phế liệu, đồng thời đánh giá hiệu quả của các công cụ này dự trên các tiêu chí: Hiệu quả môi trường, hiệu quả về mặt thương mại và tính tương thích đối với các qui định quốc tế. Luận văn cũng tổng kết được những vấn đề cơ bản đặt ra cần phải giải quyết trong việc quản lý hoạt động nhập khẩu thời gian tới. Thứ tư: Luận văn tìm hiểu kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc xây dựng cơ chế chính sách nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất đồng thời nghiên cứu một số điều ước quốc tế có liên quan đến vấn đề này. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Thứ năm: Trên cơ sở quan điểm trong việc bảo vệ môi trường, định hướng của các ngành về việc sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất; thực trạng nhập khẩu và sử dụng phế liệu thời gian qua, đặc biệt, là căn cứ và nhu cầu của việc nhập khẩu phế liệu trong thời gian tới, luận văn đã đề xuất một số giải pháp đối với Nhà nước, hiệp hội và doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và giám sát hoạt động nhập khẩu phế liệu thời gian tới nhằm đảm bảo các mục tiêu về kinh tế, môi trường cũng như việc tuân thủ các cam kết quốc tế có liên quan. Cho phép nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, trong thời gian qua, đối với công tác quản lý hoạt động này đã có không ít những vướng mắc. Cũng đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, do những hạn chế về mặt thông tin và số liệu điều tra từ doanh nghiệp cũng như hạn chế về chuyên môn cũng như tư liệu nghiên cứu, tôi nhận thấy còn có những vấn đề chưa được giải quyết một cách thấu đáo trong luận văn này. Vì vậy, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của hội đồng khoa học để luận văn tiếp tục được hoàn thiện hơn nữa. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô, các cơ quan phối hợp đã nhiệt tình giúp đỡ tạo điều kiện hoàn thành luận văn này. Tài liệu tham khảo A. Tài liệu Tiếng Việt Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam- NXB Chính trị Quốc gia Bộ Luật Hình sự nước CHXHCN Việt Nam - NXB Chính trị Quốc gia, 2001. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc, NXB chính trị Quốc gia, 2001 Công ước Basel. Luật Bảo vệ môi trường ban hành ngày 29/11/2005 Luật Thương mại năm 2005 Luật Ngoại thương Trung Quốc. Nghị định 80/2006/NĐ-CP của chính phủ ngày 09 tháng 8 năm 2006 Quyết định 46/2001/QĐ-TTg ngày 04 tháng 4 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ Quyết định 10/2001/QĐ-BKHCNMT ngày 11 tháng 5 năm 2001 của Bộ Khoa học, Công nghệ & Môi trường Quyết định 134/2001/QĐ-TTg ngày 10 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ Quyết định 65/2001/QĐ-BKHCNMT ngày 12 tháng 11 năm 2001 của Bộ Khoa học, Công nghệ & Môi trường Quyết định 11/2004/QĐ-BCN ngày 17 tháng 2 năm 2004 của Bộ Công nghiệp Quyết định số 03/2004/QĐ-BTNMT ngày 02 tháng 04 năm 2004 của Bộ Tài nguyên & Môi trường Quyết định 12/2006/QĐ-BTNMT ngày 08 tháng 9 năm 2006 của Bộ Tài nguyên và môi trường Quyết định 07/2007/QĐ-BCN ngày 30 tháng 1 năm 2007 của Bộ Công nghiệp Thông tư liên tịch 2880/KCM-TM ngày 19 tháng 12 năm 1996 của liên Bộ Khoa học công nghệ & Môi trường-Thương mại. Công văn số 6551/BTM-XNK ngày 20/10/2006 của Bộ Thương mại Công văn sô 4677/ TCHQ/GSQL ngày 28 tháng 9 năm 2004 của Tổng cục Hải quan Giáo trình Luật Môi trường - Trường Đại học Luật Hà nội - NXB Công an nhân dân, 1999. Tạp chí Luật học- Trường Đại học Luật Hà nội, 1999, 2000. Tạp chí thương mại, năm 2003. Tạp chí Khoa học và đời sống, 2004. Tạp chí bảo vệ môi trường 2002, 2004, 2005, 2006. Thời báo kinh tế Việt Nam, số ngày 12/11/2003 Bộ Thương mại - Kết quả vòng đàm phán Uruguay về hệ thống thương mại đa biên , NXB Thống kê, 2000 Trung tâm thông tin Thương mại - Các văn bản pháp quy về Khoa học công nghệ Môi trường trong lĩnh vực thương mại, 2001. Luận văn NEU-JICA - Ngành sắt thép Thái Lan sau khủng hoảng tiền tệ, 2003. UNDP - Chúng ta đang phát triển, 2004 Đinh Văn Thành - Báo cáo hiện trạng môi trường của ngành thương mại Việt Nam năm 2003 - Viện nghiên cứu Thương mại, 2004 Hồ Trung Thanh - Cơ sở khoa học giải quyết mối quan hệ giữa chính sách thương mại và chính sách môi trường nhằm phát triển thương mại bền vững ở Việt nam - Viện Nghiên cứu Thương mại, 2003. Hoàng Văn Thành - Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ điển Bách Khoa. Nguyễn Như Ý - Từ điển Tiếng Việt thông dụng, NXB Giáo dục, 2003 B. Tài liệu Tiếng Anh: The First Global Revolution, New York 1991 K.Pilakoutas and H.Tlemat - The University of Sheffield - Demonstrating Steel Firbes from Waste Tyres as Reinforcement in Concrete England 2002 World Bank – Viêt Nam Environmental Monitor, 2002 World Bank – World Development Report 2000, Development and the Environment. Washington/Oxford: IBRD/ Oxford University Press, 2001. C. Các Website: MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu tại Việt Nam.DOC