Tiểu luận Hội đồng hợp tác an ninh Châu Á Thái Bình Dương CSCAP

Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 đã gây ra một hậu quả nghiêm trọng mà nhiều nước trong khối vẫn chưa gượng dậy được. Yếu kém trong mô hình ASEAN: chưa giải quyết được nhiều vấn đề AN nội khối mà xung đột nội bộ Myanmar là một ví d ụ và thậm chí còn thể hiện sự không chắc chắn trong khu vực. Thực tế thì P hilippines và Singapore chưa bao h ngừng phụ thuộc và liên minh bên ngoài để bảo vệ AN của mình. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ đã ngăn cản việc xây dựng các hình thức liên minh hoặc các hiệp ước AN mà Mỹ ưa chuộng.

pdf15 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2646 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hội đồng hợp tác an ninh Châu Á Thái Bình Dương CSCAP, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận HỘI ĐỒNG HỢP TÁC AN NINH CHÂU Á THÁI BÌNH DƯƠNG CSCAP Thế kỉ 21 đang đến với bao cơ hội và thách thức. Hơn bao giờ hết, Châu Á Thái Bình Dương đã nổi lên là khu vực phát triển năng động nhất, tập hợp các chủ thể đặc trưng nhất toàn cầu, đồng thời cũng chưa đựng nhiều mâu thuẫn, xung đột nguy cơ an ninh tiềm ẩn nhất. Chuyên trách về giải quyết và hợp tác an ninh và kinh tế khu vực, đã có hàng loạt các cơ chế được lập ra: ASEAN + 3, +6, +9; APEC, ASEM… và ARF chuyên chế về an ninh. Tuy nhiên trong thời đại toàn cầu hóa, vẫn có những vấn đề an ninh mà tại ARF, chính phủ các nước chưa hoàn toàn giải quyết được. Nhu cầu cần có một cơ chế bổ sung, hỗ trợ cho ARF nhằm thúc đẩy sự hợp tác an ninh giữa các nước ngày càng bức thiết, và Hội đồng hợp tác an ninh Châu Á Thái Bình Dương CSCAP đã được lập ra. I. Bối cảnh ra đời: Chiến tranh lạnh kết thúc, môi trường an ninh có nhiều sự biến đổi lớn. Sự thống trị của nhà nước trong quan hệ quốc tế đã bị thách thức do những thay đổi cơ bản trong hệ thống quốc tế, trong thời đại toàn cầu hóa xuất hiện thêm những nguy cơ phi truyền thống bên cạnh những nguy cơ cũ cũng như sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, khoa học kỹ thuật….Chính những phát triển này làm cho lĩnh vực an ninh và chính trị không còn là lãnh địa độc quyền của nhà nước nữa mà đã có sự tham gia của các tác nhân mới – các chủ thể “phi quốc gia”. Trước sự toàn cầu hóa , buộc các quốc gia, các liên minh chính trị, các khu vực kiên kết kinh tế…. phải có những điều chỉnh về đối sách trong quan hệ với các quốc gia, các nhóm nước và khu vực khác; liên kết toàn diện với các quốc gia có cùng vị trí địa lý, trình độ phát triển kinh tế và sự tương đồng về văn hóa để hình thành một “siêu nhà nước” bao gồm nhiều quốc gia như EU. Từ sau chiến tranh lạnh, với việc mở rộng ASEAN và sự tham gia của Việt Nam, Lào và Mianma, ASEAN đã mở rộng các hoạt động về an ninh bằng việc lập ra Các nước đối thoại của ASEAN và lập ra Diễn đàn khu vực ASEAN-ARF. Nhưng ARF cũng còn rất nhiều vấn đề. Các hoạt động của các tổ chức khác ở khu vực như APEC, PECC chủ yếu bàn về các vấn đề kinh tế. Trong bối cảnh đó, ở Đông Á hai tổ chức phi chính phủ là Mạng lưới các Viện nghiên cứ chiến lược và quốc tế ASEAN ASEAN – ISIS và Diễn đàn hợp tác Châu Á Thái Bình Dương CSCAP đã ra đời. Trong phạm vi và khuôn khổ đề tài thuyết trình chúng tôi chỉ đề cập đến CSCAP trên tư cách là ngoại giao kênh II của CSCAP với hoạt động chủ yếu là của các tác nhân phi chính phủ trong việc tăng cường hiểu biết quốc tế để thúc đẩy hòa bình và an ninh được gọi là ngoại giao kênh II, song song với kênh chính thức ( kênh I ) – ngoại giao nhà nước. II. Cơ cấu hoạt động CSCAP: a. Lịch sử hình thành: Ý tưởng thành lập CSCAP bắt đầu phát triển tại một hội nghị tổ chức ở Seunl 11/1992 và chính thức được thông báo 8/6/1993 tại Kuala Lumpur (Malaixia) với 10 thành viên ban đầu. Đến nay Hợp tác đã có tổng cộng 21 thành viên là các viện, trung nghiên cứu chiến lược của các nước: Australia, Canada, Trung Quốc, Indonesia, Campuchia, Brunei, Nhật Bản, CHDCND Triều Tiên, Đài Loan, Malayxia, Mông Cổ, Tân Tây Lan, Philippin, Nga, Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan, Mỹ, Việt Nam; hai thành viên liên kết là Liên minh Châu Âu EU, PNG, IDSA, viên nghiên cứu giải trừ quân bị và hòa bình Hàn Quốc, viện nghiên cứu của Ấn Đô, một thành viên phụ thuộc là trung tâm khu vực vì hòa bình và giải trừ quân bị ở CATBD của Liên Hợp Quốc. b. Tôn chỉ mục đích Trước hết ta cần phải hiểu: Ngoại giao kênh 2 là ngoại giao không chính thức,ra đời để bù đắp các thiếu sót của NG chính thức. NG kênh 2 thường do các vị quan chức, giới học giả chuyển gia đảm nhiệm được coi là sự bổ sung cần thiết và hiệu quả cho NG kênh 1. Mang tính linh hoạt có bối cảnh NG nhưng không bị ràng buộc bởi NG kênh 1, có thể đạt được những mục đích mà NG chính thức cần đạt nhưng lẩn tránh được nghĩa vụ và rủi ro mà NG chính thức phải đảm nhận. Trong khuôn khổ đối thoại an ninh đa phương, tại ngoại giao kênh II tất cả các chính phủ quan tâm đến an ninh khu vực đã gặp nhau và thảo luận những vấn đề tác động tới an ninh QG của họ trên cơ sở bình đẳng, ko có khái niệm thù địch, phân biệt đối tác hay đối tượng như kênh I từ đó tìm ra những điểm tương đồng và hình thành nên nhận thức chung. Ở Châu Á Thái Bình Dương và đặc biệt tại khu vực Đông Nam Á thì mô thức đối thoại và tham khảo, tiếp cận không chính thức, mềm dẻo tôn trọng sự đa dạng của ngoại giao kênh 2 rất phù hợp với “phương cách ASEAN”. Theo điều 2 của Hiến Chương Hiệp ước CSCAP được lập ra nhằm tạo dựng các mối liên kết xã hội rộng rãi trong khu vực, làm cơ sở vững chắc cho việc xây dựng cộng đồng; tạo điều kiện thúc đẩy một quá trình xây dựng lòng tin ở khu vực, xây dựng ngoại giao phòng ngừa và hợp tác an ninh giữa các nước và các lãnh thổ ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và CSCAP là một tổ chức mở cho mọi nước và mọi lãnh thổ ở khu vực tham gia. Song song với kênh I ARF, những cơ sở chuẩn mực do kênh II CSCAP cung cấp là cơ sở quan trọng, là định hướng tích cực giúp kênh I dễ dàng đi đến thống nhất hơn về đường hướng hợp tác. c. Cơ cấu hoạt động Ủy ban chỉ đạo điều hành là cơ quan ra quyết sách tối cao của CSCAP. Hiện tại CSCAP có năm nhóm làm việc:  Nhóm làm việc về các biện pháp an ninh và xây dựng lòng tin: thảo luận về các vấn đề như: Ra sách trắng về an ninh quốc phòng, an ninh năng lượng và ngoại giao phòng ngừa.  Nhóm làm việc về an ninh toàn diện và an ninh hợp tác: tập trung vào các vấn đề cụ thể hóa khái niệm an ninh toàn diện và an ninh hợp tác.  Nhóm làm việc về hợp tác trên biển: bàn về các vấn đề đảm bảo tự do an toàn đi lại trên biển, tránh các va chạm trên biển.  Nhóm làm việc về an ninh ở Bắc Thái Bình Dương: tập trung thảo luận các vấn đề an ninh liên quan đến bán đảo Triều Tiên, vấn đề sản xuất và kiểm soát vũ khí ở tiểu khu vực.  Nhóm làm việc về tội phạm xuyên quốc gia: nhằm ngăn chặn tội phạm xuyên quốc gia có tổ chức, vấn đề buôn bán ma túy và tác động tới an ninh khu vực. III. Tác động của tình hình an ninh Châu Á Thái Bình Dương tới hoạt động của CSCAP 1. Bối cảnh chính trị an ninh: Sau chiến tranh Lạnh, cục diện thế giới đã nảy sinh nhiều thay đổi. Châu Á Thái Bình Dương nổi lên là một khu vực năng động nhất, đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất sau những tác động sâu sắc của cuộc khủng hoảng Kinh tế - Tài chính toàn cầu và tập trung nhiều của cải nhất thế giới, quy tụ nhiều các nước lớn ảnh hưởng nhất đồng thời cũng là nơi tập trung nhiều mâu thuẫn về lợi ích có tính chiến lược của các nước lớn với lực lượng quân sự dày đặc và vấn đề phổ biến vũ khí hạt nhân nghiêm trọng nhất thế giới. Thế giới đang và sẽ phát triển theo hướng đa cực hơn. Trong những thập kỉ đầu của thế kỉ 21, trật tự “Nhất siêu đa cường” sẽ vẫn tiếp tục được duy trì nhưng vị trí của Mỹ sẽ dần yếu đi và địa thế của các cường quốc khác sẽ ngày một tăng lên. Tuy vậy với ưu thế tuyệt đối về khoa học, quân sự, kỹ thuật… Mỹ vẫn tiếp tục là quốc gia đứng đầu song các cường quốc còn lại sẽ tìm mọi cách để phát huy các ưu thế của mình hòng cạnh tranh với Mỹ. Các nước nhỏ và trung bình cũng tiếp tục tìm cách liên kết thành các trung tâm kinh tế khu vực nhằm tạo vị thế mới trong quan hệ các nước lớn. Xu hướng đa phương hóa, đa dạng hóa khu vực không ngừng tăng lên và khả năng nhất thể hóa cũng tăng theo. Nếu như thập kỉ 90 Châu Á Thái Bình Dương chỉ được biết đến với 4 cột trụ: Mỹ - Trung – Nga – Nhật thì nay đã nổi lên sự xuất hiện cực mới : ASEAN và Ấn Độ. Điều này góp phần đảm bảo giảm nguy cơ chiến tranh và duy trì hòa bình hợp tác cùng có lợi. Sự nổi lên của Trung Quốc một mặt đã đem đến cơ hội phát triển cho kinh tế các nước xung quanh mặt khác lại làm cho họ cảm thấy e ngại và lo lắng trước sự cạnh tranh gay gắt thậm chí lấn át toàn diện của người “hàng xóm lớn”. Lực lượng và so sánh lực lượng đã hoàn toàn thay đổi, các quan niệm an ninh: an ninh tập thể, phòng thủ tập thể và an ninh chung cũng không còn phù hợp đồng nghĩa việc tạo ra phe khối chống lại kẻ thù cụ thể và tạo ra quan hệ đồng minh như VACSAVA, NATO, SEATO, ANZUS cũng không còn phù hợp nữa mà thay vào đó là các quan niệm an ninh mới: an ninh toàn diện, an ninh hợp tác và can dự linh hoạt. Hình thành tư duy an ninh: “An ninh Quốc gia không thể tách rời khỏi ổn định chính trị, thành công kinh tế và hòa hợp xã hội”, “An ninh hợp tác là thái độ mở - Thói quen đối thoại – Hợp tác sâu rộng”, “Can dự linh hoạt là khi một vấn đề nội bộ đe dọa tới ổn định khu vực, một vài lời khuyên hữu hảo đúng lúc có thể hữu ích”. Ưu tiên trong chính sách an ninh giờ đây là láng giềng, khu vực, toàn cầu. Bắt đầu một kỷ nguyên mới của loài người - kỷ nguyên chống lại các nguy cơ phi truyền thống. Nguy cơ hủy diệt toàn cầu của phong trào phổ biến vũ khí hạt nhân và việc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo của Mỹ tại khu vực đều có khả năng làm cho cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực thêm gay gắt, sự bức xúc của những vấn đề toàn cầu, những lợi ích to lớn của phát triển kinh tế trong điều kiện hòa bình và ổn định cũng như những thất bại tất yếu và hậu quả tai hại của việc dùng chiến tranh để giải quyết xung đột là cơ sở khách quan của xu hướng phát triển. Sự kiện 11/9 có thể coi là một hồi chuông báo động thức tỉnh thế giới trước nguy cơ an ninh bị xâm hại nghiêm trọng bởi vấn nạn khủng bố nổi lên khắp nơi. Chưa bao giờ an ninh trong Châu Á Thái Bình Dương lại được chú trọng như vậy, việc chống khủng bố được đặt lên hàng đầu dưới người cầm chuông là Mỹ. Mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của chủ nghĩa khủng bố quốc tế đồng thời cũng mở ra kỷ nguyên cho sự hợp tác chống khủng bố. Cuộc khủng bố 11/9 và các cuộc đánh bom liều chết ở Malaysia, Indonesia đưa đến cho các quốc gia cách nhìn nhận đánh giá khác nhau về tính chất và mức độ nguy hiểm của chủ nghĩa khủng bố, an ninh con người được đề cao hơn bao giờ hết, an ninh quốc gia, an ninh khu vực và an ninh toàn cầu được quan tâm nhiều hơn. Sự xích lại gần nhau dựa trên những mối quan tâm chung về an ninh tạo một động lực mới trong khuôn khổ hợp tác CSCAP nhất là khi nguy cơ xuyên quốc gia này phải được xử lý bằng nỗ lực hợp tác đa phương. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu xuất phát từ Mỹ cuối năm 2008 là một minh chứng rằng an ninh kinh tế không thể chỉ trông chờ vào sự xoay chuyển của một quốc gia nhất là ở Châu Á Thái Bình Dương, khu vực mà kim ngạch thương mại với Mỹ lên tới hơn 1000 tỷ $ chiếm 2/3 tổng lượng thế giới. Bên cạnh đó, Châu Á Thái Bình Dương còn như một di sản chiến tranh lạnh để lại. Sự nghi kỵ, can thiệp lẫn nhau giữa các nước lớn. Ở đây “tốt đẹp” nhất có lẽ là Mỹ Nhật tuy chỉ về hợp tác chính trị an ninh; Trung Mỹ luôn kiềm chế nhau qua vấn đề nhân quyền, tranh chấp thương mại, vấn đề Đài Loan, sự nghi ngờ về một Trung Quốc muốn thay Nga soán ngôi của Mỹ; còn quan hệ Trung Nhật bất các các quan hệ kinh tế to lớn nhưng mối cừu hận lịch sử vẫn như một vết hằn sâu giữa hai bên. Những bất đồng, xung đột khu vực vốn bị che lấp trong cuộc đối đầu Đông – Tây và đến nay các mối hận thù truyền thống nổi lên sôi sục nhất là các vấn đề biên giới lãnh thổ hậu quả của các tồn tại lịch sử và các đường biên giới không rõ ràng từ thời thực dân: Bán đảo Triều Tiên, Đảo Điếu Ngư – Sensaku giữa Trung Quốc và Nhật Bản, Vịnh Kuril giữa Nga và Nhật, Biển Đông giữa Trung Quốc và ASEAN, giao tranh biên giới Singapore và Malaysia, giữa Philippines và Malaysia và Thái Lan – Campuchia xung quanh ngôi đền cổ Preah Vihear… Tuy vậy chính những di sản này lại mang đến cho khu vực những động cơ để xích lại trong một cơ chế an ninh để giải quyết. 2. Sự thay đổi chính sách giữa các nước lớn: a. Mỹ: Từ trước luôn coi trọng các dàn xếp AN song phương hơn cơ chế đa phương và trong chính sách Châu Á luôn đặt trọng tâm vào Đông Bắc Á và Bắc Triều Tiên. Tuy nhiên 10 năm trở lại đây, khu vực này đã nảy sinh những thay đổi căn bản nhất mà buộc chính quyền Obama phải có những chuyển đổi chính sách, Mỹ đã tỏ ra là một siêu cường “thân thiện và bớt cao ngạo hơn” từ chỗ bác bỏ hoài nghi và né tránh Mỹ đã chuyển sang thừa nhận và ủng hộ thành lập các cơ chế AN đa phương, sau các cuộc chiến thất bại ở Iraq và Afghagistan, nhằm kiềm chế Trung Quốc và tăng khả năng khống chế khu vực Hoa Kỳ tỏ ra có xu hướng chuyển dịch quân sự từ Trung Đông sang Châu Á Thái Bình Dương. Hiệp ước thân thiện và hợp tác 2009 phần nào minh chứng điều đó, giúp thay đổi vai trò can dự, đồng thời mở ra bước tiếp cận mới cho Mỹ. Châu Á TBD chiếm 1 vị trí quan trọng trong chính sách Hoa Kỳ, bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Robert Gates khẳng định: “Mỹ không phải là một khách mời của Châu Á mà là một nước cư trú ở Châu Á”. HK không ngừng cải tiến quân sự tại các đồng minh 2/2009 ký với Nhật “Hiệp định quốc tế đảo Guam”, phát triển quan hệ các nước không phải đồng minh: đối thoại với Nga, Ấn Độ; đối thoại chiến lược kinh tế chính trị với Trung Quốc; xây dựng đối tác toàn diện với Indonesia , phát triển đối tác mới và lâu dài với Việt Nam và Singapore. Mỹ đặt sự quan tâm tới các nước ASEAN bởi nỗi lo Đông Nam Á ngày càng chịu ảnh hưởng Trung Quốc, chính sách ở đây chuyển từ “không can dự” thành “can dự có chừng mực”. 21/7/2010 tại Băng kok H.Clinton đã tuyên bố: “Mỹ đã trở lại”, tiếp đó 2 ngày khẳng định tại Hà Nội: “Mỹ có quyền lợi QG tại biển Đông cũng như việc Hoa Kỳ ủng hộ tuyên bố ứng xử về Biển Đông DOC, nhấn mạnh tầm quan trọng giải pháp hòa bình cho tranh chấp, quyền tự do hàng hải và sự tôn trong các luật Biến quốc tế ở biển Đông” và nhận được sự phản đối gay gắt từ Trung Quốc khi quốc tế hóa vấn đề Biển Đông. Thêm nữa Mỹ cần duy trì sự ủng hộ quốc tế về cuộc chiến chống khủng bố nhằm tranh thủ sự ủng hộ và hợp tác giữa các nước trong lĩnh vực chia sẻ thông tin. b. Trung Quốc: từ thập niên 90 Trung Quốc đã bắt đầu điều chỉnh hợp tác an ninh của mình theo hướng linh hoạt hơn. Mặc dù luôn xoa dịu láng giềng rằng sự phát triển kinh tế và hiện đại hóa quốc phòng của mình chỉ để bảo vệ chủ quyền quốc gia, TQ không theo đuổi chủ nghĩa bá quyền và cường quyền và không gây phương hại cho an ninh thế giới song các hành động tiến hành quân sự trên biển tại các vùng tranh chấp: đảo Điếu Ngư Sensaku với Nhật 9/2010; hiện thực hóa đường lưỡi bò bằng cách quấy rối, bắn tàu cá, cắt cáp tàu Bình Minh 02 và Viking II của Việt Nam 26/5 và 9/6; tương tự với các nước khác ở đảo Trường Sa, xây dựng dàn khoan dầu ở đây… không khiến các nước lo ngại một Trung đang ngày càng bành trướng và tham vọng thay Mỹ lãnh đạo khu vực không những thế còn đẩy mạnh nguy cơ chạy đua vũ trang hải quân ở Châu Á Thái Bình Dương. Bắc Kinh cũng tích cực ủng hộ thể chế đa phương: công khai thực hiện kiềm chế cũng như viện trợ Khủng Hoảng kinh tế các nước Đông Nam Á 1997, 2008; tham gia các tổ chức đa phương khu vực: APEC, ASEM, ARF, ASEAN + 3…. Qua đó thúc đẩy thế giới đa cực chống lại Mỹ. c. Các cường quốc khác như Nga cũng có chính sách “Hướng Đông” đang dần mở rộng phạm vi ảnh hưởng khu vực này, còn Nhật Bản, Ấn Độ cũng bày tỏ ý muốn trở thành một cường quốc đúng nghĩa. Tuy nhiên sự tham gia của Nga ở đây là hạn chế do phải tập trung khắc phục khủng hoảng trong nước, còn NB cũng phải gượng dậy sau thảm họa thiên tai và sự cố hạt nhân 3/2011, vị trí chiến lược Ấn Độ thích hợp với phát triển ảnh hưởng ở Nam Á hơn. Theo đó, các nước khác Australia, New Zealand, Hàn Quốc… cũng phải điều chỉnh chính sách đối ngoại với khu vực Đông Nam Á. Sau chiến tranh lạnh, tại Châu Á Thái Bình Dương xuất hiện một sân chơi quyền lực mới mà ASEAN là người kiến tạo và vận hành. IV. CSCAP đối với an ninh Việt Nam Cùng với ARF việc tham gia vào CSCAP góp phần bổ sung và hỗ trợ trong việc đảm bảo an ninh của Việt Nam, tiếp tục khẳng định vị trí ở khu vực. Gần đây, với 2 sự kiện nổi cộm tại biển Đông là 26/5 tàu Bình Minh 02 và 9/6 tàu Viking II của Việt Nam bị tàu hải giám Trung Quốc đe dọa và cắt cáp thăm dò dầu khí. Tại diễn đàn CSCAP chúng ta sẽ có cơ hội khẳng định lại chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa… phản bác lại những lời buộc tội vô căn cứ của Trung Quốc, vấn đề hợp tác bảo vệ an toàn các tuyến đường biển. V. Đánh giá CSCAP 1. Thành tựu CSCAP đã đóng góp trong việc gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định chính trị và AN khu vực. Lần đầu tiên tại khu vực có một sân chơi, đối thoại rõ nét, các quốc gia có một nơi để nói cho “đối thủ” đã từng của mình trong quá khứ biết được quan điểm của mình, đây là điểm tập hợp của khu vực ANCATBD. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến bất ổn và xung đột là sự nghi kị hoặc hiểu sai ý đồ chiến lược giữa các nước. Với những cuộc họp thường niên và thông qua các hoạt động hợp tác, CSCAP đã bắt đầu tạo ra các mối liên kết rộng rãi làm cho mối quan hệ ổn định giữa các nước trong khu vực và góp phần tăng cường hiểu biết và tin cậy lần nhau giữa các quốc gia, phần nào giảm thiểu sự khác biệt hoặc lợi ích của mỗi nước, từ đó tạo ra những cơ sở để tiến tới làm dịu tình hình căng thẳng tránh dẫn đến xung đột khu vực. CSCAP ko chỉ đặt ra nền tảng và triển vọng cho cơ chế đối thoại và tham khảo đa phương thiết lập những nguyên tắc hiệu quả cho đối thoại, hình thành thói quen đối thoại cũng như tư duy an ninh và tham khảo ý kiến của mọi thành viên về các vấn đề chính trị và an ninh theo sự sắp đặt đa phương mà còn thúc đẩy hợp tác và tăng cường đối thoại về các vấn đề an ninh truyền thồng và phi truyền thông. Tiêu biểu là cùng với ARF, CSCAP đã thiết lập bộ Nguyên tắc cư xử ở biển Đông DOC 2002 giữa Trung Quốc và ASEAN, và đang trong giai đoạn hình thành bộ Nguyên tắc NOC. Hợp tác đã tạo ra cơ hội để các nước trong khu vực – với sự đa dạng về đặc điểm địa lý chính trị văn hóa, xã hội và trình độ phát triển… có cơ hội gặp gỡ trao đổi để đạt được những nhận thức chung. Tạo môi trường thuận lợi để khai thác các ý tưởng, vấn đề và sự lựa chọn một cách phong phú hơn. Do đó diễn đàn này đã trở thành kênh đối thoại, điều hòa quan hệ giữa các nước thành viên, là nơi các quốc gia trong khu vực ngồi lại với nhau giải quyết các vấn đề an ninh – chính trị và tìm biện pháp củng cố hòa bình ổn định và phát triển khu vực Cùng với ARF góp phần dàn xếp những xung đột, hay giải quyết những vấn đề chung liên quan đến việc duy trì hòa bình, ổn định chính trị và an ninh khu vực,từng bước tiến hành xây dựng nền ngoại giao phòng ngừa và xây dựng cách tiếp cận đối với những cuộc xung đột. Đây là những yếu tố quan trọng giúp ổn định tương đối tình hình hòa bình và an ninh cho khu vực Châu Á Thái Bình Dương. CSCAP đã tập hợp được hầu hết các cường quốc trên thế giới: Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Úc, New Zealand. Đặc biệt iệc lôi kéo TQ vào các cuộc thảo luận đa phương về các vấn đề AN và TQ đã tỏ ra ôn hòa hơn . Mỹ hiện nay đã chấm dứt sự thiếu nhất quán về chính sách ở Đông Nam Á như đã diễn ra kể từ khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam bởi lợi ích mà Mỹ có được ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương và đặc biệt ở ASEAN là rất quan trọng. Cùng với ARF phối hợp đưa ra nhiều sáng kiến nhằm duy trì AN khu vực từ đó nhiều văn kiện quan trọng đã được thông qua, góp phần giảm bớt những khuynh hướng có hại trong môi trường an ninh tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương. 2. Hạn chế  Các cuộc thảo luận chỉ thực hiện được một phần hoặc giảm nghi kỵ ở mức độ nhất định do trong quá trình hợp tác giảm thiểu sự nghi kỵ giữa các quốc gia, giữa các quốc gia – vốn đã tồn tại nghi kỵ lại tiếp tục nảy sinh những va chạm, điều này tạo ra vòng luẩn quẩn. Vẫn từ chối đưa ra bàn thảo luận những vấn đề liên quan đến quốc gia mình dựa trên việc biện minh về chủ quyền độc lập quốc gia. Về vấn đề biển Đông Trung Quốc luôn phản đối đàm phán đa phương và áp lực lên các quốc gia ASEAN nhằm giải quyết theo đàm phán song phương. Diễn đàn vẫn chưa thật sự hiệu quả khi các vấn đề an ninh cơ bản trong khu vực chỉ là bản thảo những vấn đề AN 1 cách chung chung. Mặc dù nhóm làm việc về các biện pháp an ninh và xây dựng lòng tin đã đề cập về việc ra sách trắng về an ninh quốc phòng, an ninh năng lượng và ngoại giao phòng ngừa, thế chỉ số chi tiêu quốc phòng giữa các quốc gia vẫn không ngừng tăng lên, các điểm nóng vẫn ngoài tầm kiểm soát. Tiêu biểu là Trung Quốc, 2011 đã tăng chi phí quốc phòng lên 12,7% (91,5 tỷ $ ). ( budget.shtml) An ninh nguồn nước, hợp tác sông Mê công dù là một vấn đề nhức nhối nhưng vẫn là một bài toán bỏ ngỏ. Vẫn chưa tiến triển khi số lượng các đập thủy điện đầu nguồn ko ngừng tăng lên. Hiệp hội An ninh châu Á TBD CSCAP vẫn chỉ đứng ngoài và trở thành khán giả của những vấn đề AN khu vực và trước những hành động của chính các nước thành viên. Bắt nguồn từ thực tiễn AN của khu vực còn nhiều khác biệt và phức tạp đặc biệt là sự khác nhau trong những tính toán của các nước tham gia, mỗi nước đều có những chiến lược riêng nên ko dễ tìm được tiếng nói chung. Ví dụ như vấn đề biển Đông: hiện nay biển Đông đang là một điểm nóng trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, tại đó diễn ra tranh chấp liên quan đến rất nhiều Quốc gia trong khu vực. Tuy nhiên chưa có một cơ chế hữu hiệu nào có thể đưa ra đề xuất các biện pháp để triệt để vấn đề này kể cả CSCAP. 3. Vai trò ASEAN với tư cách người lãnh đạo: a. Ở đây đặt ra câu hỏi lớn tại sao vị trí lãnh đạo của ASEAN – 1 nhóm các nước nhỏ lại được các cường quốc chấp thuận? Theo ý kiến chủ quan nhóm cho rằng câu hỏi này có 3 lý do. Do nghi kị mà khó có một nước lớn nào có thể đứng ra thành lập được một diễn đàn an ninh đa phương lại được sự tán thành của những nước lớn khác trong khu vực. Lúc đó ASEAN được chấp thuận bởi ASEAN vốn là một nhóm các quốc gia nhỏ ko mang tính đe dọa, ko làm cho nước nào phải lo lắng về việc tranh giành bá quyền khi ASEAN đảm nhận vai trò trụ cột. ASEAN có truyền thống ưa sử dụng NG, đối thoại và hợp tác trong việc giải quyết các vấn đề AN chính trị, kinh tế, xã hội. Tại thời điểm đó, ASEAN đang được công nhận rộng rãi như một tổ chức trong khu vực với những thành công trong việc tạo dựng sự đồng nhất và kiểm soát trật tự khu vực. b. Vị trí ngày 1 lung lay: Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 đã gây ra một hậu quả nghiêm trọng mà nhiều nước trong khối vẫn chưa gượng dậy được. Yếu kém trong mô hình ASEAN: chưa giải quyết được nhiều vấn đề AN nội khối mà xung đột nội bộ Myanmar là một ví dụ và thậm chí còn thể hiện sự không chắc chắn trong khu vực. Thực tế thì Philippines và Singapore chưa bao h ngừng phụ thuộc và liên minh bên ngoài để bảo vệ AN của mình. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ đã ngăn cản việc xây dựng các hình thức liên minh hoặc các hiệp ước AN mà Mỹ ưa chuộng. 4. Triển vọng : Tuy mới thành lập được 8 năm nhưng các hoạt động của CSCAP đã thu hút sự quan tâm và tham gia của nhiều viện nghiên cứu và các tổ chức phi chính phủ ở Châu á - TBD và các khu vực khác; đã đưa ra những định hướng hoạt động và đóng góp tích cực cho các hoạt động cố gắng củng cố an ninh ở khu vực ARF. Như vậy có thể thấy CSCAP hoạt động tương đối hiệu quả trong việc gắn với ngoại giao kênh I vì đó nên triển vọng của CSCAP luôn gắn liền với tiến trình phát triển của ARF, là nguồn cung cấp ý tưởng cho ARF làm ARF hoạt động có hiệu quả hơn. Cùng với ASEAN-ISIS, ARF; CSCAP luôn bổ sung, hỗ trợ, ganh đua và phát triển để đóng góp cho công cuộc đoàn kết và hợp tác về các vấn đề liên quan đến an ninh khu vực.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcop_6307.pdf
Luận văn liên quan