Tiểu luận Thuế đánh vào tiết kiệm

Vai trò của tiết kiệm rất quan trọng trong việc ổn định xã hội. Tiết kiệm ngày hôm nay để tiêu dùng cho ngày mai. Tiết kiệm còn góp phần sự phát triển nền kinh tế quốc gia. Như khủng hỏang năm 2008 vừa qua xảy ra tại Mỹ cũng chính là do dân chúng trong Mỹ đầu tư không phải từ số tiền tiết kiệm mà do vay mượn. Vì thế cho nên để tránh trường hợp khủng hoảng xảy ra, các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng luôn đưa ra các chính sách khuy ến khích tiết kiệm, đặc biệt là ở Mỹ. Tuy nhiên, riêng đối với Việt Nam, chính sách thuế khuy ến khích tiết kiệm vẫn còn yếu kém. Chính sách khuy ến khích của thuế đối với tiết kiệm như trợ cấp thuế, miễn thuế, và đánh thuế sau khi trừ đi các khoản đóng góp vào quỹ tiết kiệm như quỹ hưu trí làm cho người dân có động lực hơn trong việc tiết kiệm. Nhưng để tránh th ất thu thu ế, thâm hụt ngân sách nhà nước thì sau khi về hưu người dân nhận tiền hưu hàng tháng sẽ bị đánh thuế. Hiện nay Việt Nam hầu như tiết kiệm bằng cách giữ tiền mặt trong nhà, làm mất đi một kho ản vốn để đầu tư tăng trư ởng kinh tế, cho nên chính phủ Việt Nam nên có những dịch vụ, chính sách khuy ến khích người dân gửi tiền tiết kiệm ở các ngân hàng, quỹ đầu tư

pdf21 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2458 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thuế đánh vào tiết kiệm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 1 Tiểu luận THUẾ ĐÁNH VÀO TIẾT KIỆM Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 2 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3 I. Thuế và tiết kiệm –Mô hình và lý thuyết minh chứng ............................................ 4 1.1. Lý thuyết truyền thống ................................................................................................ 4 1.2. Minh chứng : lãi suất sau thuế tác động đến tiết kiệm ................................................. 6 1.3. Lạm phát và thuế tiết kiệm .......................................................................................... 6 II. Các mô hình tiết kiệm khác ...................................................................................... 8 2.1. Mô hình tiết kiệm phòng ngừa rủi ro ........................................................................... 8 2.2. Mô hình tự kiểm soát .................................................................................................. 9 III. Chính sách khuyến khích của thuế đối với tiết kiệm hưu trí ................................ 10 3.1. Trợ cấp thuế hiện hành đối với tiết kiệm hưu trí ....................................................... 10 3.1.1. Trường hợp nghiên cứu điển hình- Mỹ ................................................................ 10 3.1.2. Đối với Việt Nam ................................................................................................. 14 3.2. Hiệu ứng lý thuyết đến tiết kiệm hưu trí được trợ cấp thuế ........................................ 16 3.3. Những hàm ý cho các mô hình tiết kiệm khác ............................................................ 19 KẾT LUẬN............................................................................................................ 20 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 21 Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 3 LỜI MỞ ĐẦU Tiết kiệm là phần còn lại của thu nhập cá nhân sau khi đã trừ đi tiêu dùng hiện tại. Việc tiết kiệm của người dân là nguồn vốn cho sự phát triển của đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của việc này, các nhà hoạch định chính sách trên tòan thế giới đã trở nên ngày càng quan tâm trong việc phát triển chiến lược hiệu quả để khuyến khích tiết kiệm. Quan tâm này đã trở thành đặc biệt nghiêm trọng tại Hoa Kỳ, nơi có tỷ lệ tiết kiệm hiện nay rất thấp. Những lo lắng về tiết kiệm thấp đã dẫn đến một loạt cách chính sách được thiết kế để kích thích tiết kiệm thông qua hệ thống thuế. Việc có nên đánh thuế vào tiết kiệm hay không, cách đánh như thế nào còn là vấn đề còn đang được tranh luận. Đã có nhiều câu hỏi được đặt ra : Liệu cấu trúc thuế thu nhập có làm giảm khối lượng tiết kiệm của người dân hay không ? Chính phủ có nên sử dụng luật thuế để khuyến khích người dân tíêt kiệm hơn ? Nếu có, các khuyến khích nên được cấu trúc như thế nào ? Đề tài này giới thiệu nguyên cứu các quyết định tiết kiệm. Quy mô tiết kiệm của xã hội sẽ làm cho vốn của nền kinh tế dồi dào hơn và điều này là yếu tố then chốt của tăng trưởng kinh tế. Do vậy một trong những các tranh luận chính sách ở Mỹ và thế giới là vai trò thích hợp của thuế đánh vào thu nhập từ vốn, tức là thuế đánh trên sự sinh lợi của tiết kiệm. Còn đối với Việt Nam về vấn đề này thì sao, đang nghiên cứu, đã áp dụng hay không phù hợp với nền kinh tế. Bài tiểu luận này cũng sẽ giới thiệu sơ nét thêm về vấn đề trên. Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 4 THUẾ ĐÁNH VÀO TIẾT KIỆM I. Thuế và tiết kiệm –Mô hình và lý thuyết minh chứng: 1.1. Lý thuyết truyền thống : Trong lý thuyết truyền thống về tiết kiệm, vai trò của tiết kiệm là ổn định tiêu dung theo thời gian. Một cá nhân có nhiều thu nhập hơn khi đi làm và có ít thu nhập hơn khi nghỉ hưu. Do bởi quy luật thỏa dụng biên giảm dần nên để tối đa hóa thỏa dụng cá nhân sẽ giảm chi tiêu trong những lúc thu nhập cao và tăng chi tiêu trong những lúc thu nhập nhận được thấp, khi đó tiết kiệm sẽ thể hiện vai trò ổn định hóa tiêu dùng. Mô hình này còn gọi là mô hình lựa chọn theo thời gian, việc lựa chọn số lượng tiết kiệm chính là lựa chọn cách thức phân bổ tiêu dùng cá nhân theo thời gian. Tiết kiệm chính là phần còn lại của thu nhập cá nhân sau khi đã trừ đi tiêu dùng hiện tại. Cũng giống như mô hình cung lao động, chúng ta không thể trực tiếp mô hình hóa tiết kiệm mà mô hình hóa việc tiêu dung theo thời gian.  Mô hình đơn giản: Có thể chia cuộc đời con người làm 2 giai đoạn:  Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn còn làm việc nhận được thu nhập Y.  Giai đoạn thứ hai la thời gian về hưu không kiếm được thu nhập. Chúng ta xác định tiết kiệm bằng việc phân tích sự lựa chọn của cá nhân trong việc tiêu dùng trong giai đoạn thứ nhất CW và thứ hai CR qua mô hình lựa chọn theo thời gian trong trường hợp không có thuế và có thuế. BC1BC2 IC1 Ðô dôc = - (1+r) Ðô dôc = - (1+r(1-t)) Tiêu dùng giai doan 2, CR Tiêu dùng giai doan 2, CR Y(1+r) Y(1+r(1-t)) C1 R C2 R A B C1W Y S S(1+r) Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 5 Trong đó: Cw : tiêu dùng của cá nhân trong giai đoạn làm việc. S : phần tiết kiệm mà cá nhân để dành (S=Y-Cw) r : lãi suất ngân hang. t : thuế đánh trên lãi tiết kiệm. CR : tiêu dùng của cá nhân trong giai đoạn nghỉ hưu. (CR =S(1+r)) IC1 : đường bàng quan thể hiện mong muốn của cá nhân về mức độ ồn định tiêu dùng theo thời gian. BC1,2 : đường ngân sách trước và sau thuế. Độ dốc của đường ngân sách chính là chi phí cơ hội của việc tiêu dùng trong giai đoạn thứ nhất.  Hiệu ứng thay thế và hiệu ứng thu nhập của thuế đánh vào tiết kiệm Sự thay đổi giá cả từ kết quả của việc đánh thuế vào tiết kiệm luôn gây ra hai hiệu ứng là  Hiệu ứng thay thế (giá cả của CW giảm làm cho tiêu dùng tăng trong giai đoạn thứ nhất)  Hiệu ứng thu nhập (thu nhập sau thuế thấp hơn làm cho tiêu dùng giảm trong giai đoạn thứ nhất) CW CR Y(1+r) Y(1+r(1-t)) IC2 IC1 C2 W C2 R C1 R C1 W Y BC1BC2 S2 S1 S 2 (1 +r (1 -t) ) S 1 (1 +r ) A C C1 R CW CR Y(1+r) Y(1+r(1-t)) C3 R C1 WC3 W IC1 IC3 S1 S3 Y BC1BC2 S 3 (1 +r (1 -t) ) S 1 (1 +r ) A B ( Hiệu ứng thay thế lớn hơn) ( Hiệu ứng thu nhập lớn hơn) Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 6 1.2. Minh chứng : lãi suất sau thuế tác động đến tiết kiệm Không giống như lý thuyết thực nghiệm về cung lao động, có ít sự đồng tình về tác động của thuế hay lãi suất đến các quyết định tiết kiệm. Thông qua các nghiên cứu thực nghiệm thì các ước lượng về độ co giãn của tiết kiệm với lãi suất sau thuế nằm trong khoảng 0 đến 0,67. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa lãi suất sau thuế và tiết kiệm là một vấn đề khó khăn. Xác định mức lãi suất hợp lý để áp dụng là rất khó, bởi vì: chúng ta có thể dễ dàng đo lường tiền lương của một công nhân nào đó nhưng rất khó để đo lường mức lãi suất thỏa đáng của một người tiết kiệm nào đó. Bên cạnh đó, lãi suất của bất kỳ dạng tiết kiệm nào cũng thay đổi theo thời gian với cách thức như nhau cho tất cả mọi người. Ngoài ra, sự co giãn của tiết kiệm theo lãi suất sau thuế là tham số quyết định đối với các nhà phân tích chính sách nên cần phải có những nghiên cứu thêm để xác định mức độ tác động của lãi suất đến tiết kiệm. 1.3. Lạm phát và thuế tiết kiệm Sự trườn lên ngưỡng đánh thuế (bracket creep): cá nhân có thể cảm nhận được sự tăng lên của thuế suất mặc dù thu nhập thực (theo đồng đô la cố định) của họ không hề tăng. Ví dụ: Năm 1979-1980, giá cả tăng 11,3%, lương cũng tăng tương ứng 11,3%. Năm Thu nhập Mức thuế Thuế phải trả Thu nhập sau thuế 1979 16.500 $ 21% 2.370$ 14.130$ 1980 19.365 $ 24% 2.815 $ 15.550 $ Mức tăng 11,3% 10% Thu nhập tăng lên trong năm 1980 vừa đủ để loại trừ 11,3% tỷ lệ lạm phát của năm đó, do vậy thu nhập thực (lượng hàng hóa mà người đó có thể thu được với thu nhập danh nghĩa) là không đổi nếu mức thuế vẫn là 21%. Tuy nhiên do vượt thuế lên thuế suất biên 24% nên thu nhập sau thuế chỉ tăng 10% trong khi đó giá cả tăng 11,3%. Bởi vì cơ sở đánh thuế là cố định nên tiền lương tăng với mức quá nhỏ theo đà lạm phát.  Hướng giải quyết: năm 1981, Quốc hội đã điều chỉnh cơ sở đánh thuế với thu nhập thường xuyên, thuế suất biên đặt trên cơ sở thu nhập thực, không phải trên cơ sở thu nhập danh nghĩa. Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 7 Lạm phát và thuế vốn: điều chỉnh theo giá cả đối với cơ sở đánh thuế cũng chưa chắc hoàn toàn loại trừ tác động của lạm phát bởi vì quy định đối với thuế thu nhập trên vốn vẫn giữ không đổi. Tình huống Tỷ lệ lạm phát Thuế suất đ/v tiền lãi Tiết kiệm Lãi suất danh nghĩa Tiền lãi Tổng nguồn lực sau thuế Giá mỗi túi không khí Số lượng túi k. khí Không có lạm phát 0% 0% 100 10% 10 110 1,0 110 0% 50% 100 10% 10 105 1,0 105 Lạm phát 10% 0% 100 10% 10 110 1,1 100 10% 50% 100 10% 10 105 1,1 95,5 Lãi suất thực cố định 10% 0% 100 21% 21 121 1,1 110 10% 50% 100 21% 21 110,5 1,1 100,5  Tình huống thứ nhất: không có lạm phát  Không có thuế , số túi xách là 110  Với đánh thuế 50% , chỉ mua 105 túi xách  Tình huống thứ hai: lạm phát bằng lãi suất danh nghĩa tức lãi suất thực bằng 0  Với lạm phát nhưng không có đánh thuế , mua được 100 túi xách.  Với lạm phát và thuế , mặc dù sức mua không thay đổi , đánh thuế vào tiền lời danh nghĩa thì chỉ mua được 95,5. Khi một cá nhân quyết định tiết kiệm họ quan tâm đến lãi suất thực hay sức mua của đồng tiền. Kết quả là ngân hàng và doanh nghiệp phải gia tăng lãi suất danh nghĩa để thu hút tiết kiệm.  Tình huống thứ ba: lãi suất danh nghĩa tăng vừa đủ bù đắp lạm phát, có nghĩa là lãi suất thực cố định (đến 21 %). Nếu không có đánh thuế, lạm phát sẽ không bào mòn sức mua của tiêt kiệm. Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 8 Vấn đề đặt ra là thuế đánh vào tiền lãi với lãi suất danh nghĩa danh nghĩa, chứ không phải là với lãi suất thực. Khi bị đánh thuế thì cô ta chỉ có thể mua được 100,5 túi khí, nhỏ hơn 105 túi khí trong tình huống 1 khi không có lạm phát. Bởi vì thuế đánh vào tiền lời danh nghĩa, nên ngân hàng cũng không thể hoàn toàn bù đắp được lạm phát. Trên thực tế, lạm phát tăng sẽ làm giảm thu nhập thực sau thuế từ tiết kiệm. II. Các mô hình tiết kiệm khác Trong mô hình tiêu chuẩn lựa chọn theo thời gian, chúng ta đã thấy lý do duy nhất để tiết kiệm là mong muốn ổn định tiêu dùng theo thời gian. Phần này, chúng ta xem các mô hình khác và một số dẫn chứng trong thực tế hiện nay. 2.1. Mô hình tiết kiệm phòng ngừa rủi ro Ở Việt Nam hay ở nước ngoài, khi được hỏi về lý do tiết kiệm, câu trả lời nhận được nhiều nhất, bên cạnh việc tiết kiệm cho thời gian hưu trí, là việc để dành cho những “tình huống khẩn cấp” như: khi mất việc làm, gặp vấn đề về sức khỏe hay những cú sốc bất lợi về tài chính. Kết quả khảo sát này dẫn đến hình thành mô hình tiết kiệm phòng ngừa rủi ro. Cũng giống như việc sử dụng tiết kiệm để ổn định tiêu dùng theo thời gian, tiết kiệm cũng có thể được sử dụng để ổn định tiêu dùng trước sự thay đổi của thế giới hiện thực. Trong mô hình này, cá nhân phải đối mặt với những rủi ro từ những cú sốc bệnh tật (ví dụ như một cơn đau tim), thất nghiệp, ly dị... Mô hình này giả định rằng cá nhân không có khả năng vay mượn nếu họ gặp phải những cú sốc vì họ phải đối mặt với giới hạn thanh khoản (liquidity constrians), những rào cản khi vay mượn. Giới hạn thanh khoản có thể do bởi ngân hàng không muốn cho vay với khách hàng đang bệnh nặng hay là những khách hàng vừa mới mất việc làm. Kết quả là cá nhân phải tự mình để dành từ việc tiết kiệm phòng khi những cú sốc bất lợi xảy ra, do vậy cá nhân có thể ổn định tiêu dùng trong cuộc sống của mình.  Minh chứng về mô hình phòng ngừa rủi ro Một số nghiên cứu đã được thực hiện nhằm kiểm định mô hình phòng ngừa rủi ro, kết quả cho thấy khi sự bất trắc tăng lên sẽ dẫn đến tiết kiệm tăng, sự bất trắc giảm đi sẽ làm cho tiết kiệm giảm. Một số nghiên cứu khác lại cho thấy việc mở rộng các chương trình bảo hiểm xã hội nhằm làm giảm sự bất định thu nhập cũng sẽ làm giảm tiết kiệm, và Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 9 kết quả nhận được là phù hợp với quan điểm cho rằng tiết kiệm có động cơ từ việc phòng ngừa rủi ro. 2.2. Mô hình tự kiểm soát Một số ý kiến khác về quyết định tiết kiệm được xây dựng trên kiểu mô hình tự kiểm soát. Trong mô hình này, cá nhân sẽ phải đối mặt với sự mâu thuẫn giữa sự ưa thích có hại trong ngắn hạn (tôi cần hút thuốc hôm nay) và sự ưa thích có lợi trong dài hạn (ngày mai tôi sẽ bỏ thuốc lá). Vấn đề tự kiểm soát cũng có thể áp dụng với việc tiết kiệm. Sự ưa thích có lợi của cá nhân trong dài hạn là việc đảm bảo có đủ tiền tiết kiệm để ổn định tiêu dùng suốt đời, nhưng sự ưa thích bất lợi trong ngắn hạn có thể dẫn đến việc họ tiêu dùng toàn bộ thu nhập của mình và không tiết kiệm đủ cho giai đoạn tương lai. Trong mô hình này, yếu tố chủ yếu để xác định hành vi tiết kiệm là khả năng của cá nhân trong việc tìm ra cách thức tự mình tiết kiệm, để dành thu nhập ngoài phạm vi “tự thỏa mãn trong ngắn hạn”.  Minh chứng mô hình tự kiểm soát: Ngày nay có nhiều minh chứng về tính phù hợp của mô hình tiết kiệm tự kiểm soát. Cá nhân với vấn đề tự kiểm soát phải cần đến những công cụ có thể tin tưởng để giúp họ tự kiểm soát. Các công cụ này cũng phổ biến trong khía cạnh tiết kiệm. Minh chứng là việc tích lũy tài sản ở Mỹ, với đặc điểm rất lạ: cá nhân có tiết kiệm đáng kể ở những dạng rất khó tiếp cận (các tài khoản mua nhà hưu trí) nhưng lại tiết kiệm rất ít ở các dạng dễ tiếp cận hơn, như ở tài khoản phát hành séc. Khó hiểu hơn, rất nhiều người để tiền tiết kiệm dưới dạng khó tiếp cận như các tài khoản hưu trí với lãi suất khá bình thường (5% và thậm chí thấp hơn), trong khi đó đồng thời lại vay tiền từ thẻ tín dụng với lãi suất cao (10% và thậm chí cao hơn). Trong mô hình tiêu chuẩn, cá nhân sẽ tự làm cho mình tốt hơn bằng việc tiết kiệm ở mức ít hơn với lãi suất 5% nhằm không phải đi vay với lãi suất 10%. Thực tế này thực sự phù hợp với mô hình tự kiểm soát: người ta sẽ lo lắng về việc có tiền trong tay, bởi vì họ sẽ tiêu xài nó một cách nhanh chóng, nhưng nếu họ có công cụ có thể tin tưởng được để giữ tiền khỏi tầm tay thì tiền sẽ được tiết kiệm. Do vậy, cá nhân có thể thành công trong việc tiết kiệm ở dạng như bỏ tiền vào tài khoản hưu trí hay tài khoản mua nhà, nhưng họ không thể thành công khi tiết kiệm ở dạng mà họ có thể chạm tay vào tiền của mình. Cuối cùng, minh chứng rất thuyết phục về mô hinh tự kiểm soát là thử nghiệm của Richard Thaler và Shlomo Benartzi (2004). Hai nhà kinh tế ngày đưa ra kế hoạch tiết kiệm Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 10 hưu trí duy nhất dành cho người lao động ở một nhà máy quy mô vừa. Với kế hoạch “tiết kiệm nhiều hơn ngày mai”, người lao động cam kết giành một phần trong sự tăng lên của thu nhập tương lai để vào tiết kiệm hưu trí. Người lao động được quyền chọn lựa tiết kiệm theo cam kết sớm hơn, trước khi tiền lương mà họ được trả tăng lên nhằm làm cho quyết định này bớt khó khăn hơn. Khi người lao động tham gia, đóng góp của họ vào kế hoạch tiết kiệm tăng lên mỗi khi tiền lương mà họ nhận được tăng lên. Kế hoạch này không có gì hấp dẫn đối với người tiết kiệm dựa trên lý trí trong mô hình tiêu chuẩn về tiêu dùng theo thời gian. Họ có thể tiết kiệm tùy thích từ thu nhập, cho nên không cần thiết phải có sự cam kết trước theo một kế hoạch tiết kiệm cố định. Nói cách khác, dường như không có lý do gì để hạn chế hành vi từ cách làm này. Nếu một người lao động không có lý do gì để hạn chế hành vi từ cách làm này. Nếu một người lao động muốn chia sẽ một phần thu nhập tăng thêm trong tương lai, họ đơn giản sẽ làm được một khi thu nhập của họ tăng lên. Nhưng kế hoạch nói trên, chính là một điều hấp dẫn lớn đối với những người phải đối mặt với vấn đề tự kiểm soát, những người mong muốn giữ một phần trong thu nhập tăng thêm ở tương lai ngoài tầm tay nhằm hạn chế sự thỏa mãn bất lợi trong ngắn hạn. các cá nhân với vấn đề tự kiểm soát e ngại rằng nếu họ không cam kết tiết kiệm phần thu nhập tăng thêm từ bây giờ thì khi thu nhập thực sự tăng lên, họ sẽ chi tiêu hết vào thỏa mãn sở thích ngắn hạn không có lợi. Thực tế, khi kế hoạch tiết kiệm này được đưa ra, 78% số người lao động được mời đã quyết định tham gia và 80% số người tham gia vẫn còn tham gia kế hoạch sau bốn lần tăng lương. Cụ thể hơn, tỷ lệ tiết kiệm của những người tham gia kế hoạch này nhảy từ 3,5% lên mức 13,6% sau 40 tháng. Vấn đề tiết kiệm theo cam kết vốn dĩ vô ích trong mô hình tiêu chuẩn giờ đây lại tác động lớn đến hành vi tiết kiệm; một lần nữa phù hợp với quan điểm cho rằng người lao động phải đối mặt với vấn đề tự kiểm soát về hành vi tiết kiệm. III. Chính sách khuyến khích của thuế đối với tiết kiệm hưu trí 3.1. Trợ cấp thuế hiện hành đối với tiết kiệm hưu trí 3.1.1. Trường hợp nghiên cứu điển hình- Mỹ Như phần trên đã trình bày, người lao động (và cả người chủ lao động) có hai mốc thời kỳ chính trong cuộc đời: (i) khoản thời gian lao động, là thời gian cá nhân đó có thu nhập cao hơn và (ii) khoản thời gian nghỉ hưu, là thời gian cá nhân đó có thu nhập thấp hơn hoặc trong một số trường hợp là không có thu nhập. Do đó, người lao động có xu Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 11 hướng tiết kiệm trong thời gian còn làm việc để có thể làm tăng thu nhập trong lúc hưu trí của họ. Tuy nhiên, nếu chính phủ đánh thuế trên tiền lãi phát sinh có thể ảnh hưởng đến quyết định của cá nhân đó trong việc giảm đi các khoản tiết kiệm này. Từ đó, các quốc gia trên thế giới thường đưa ra những chính sách nhằm khuyến khích người dân không thay đổi các quyết định tiết kiệm của mình vì tính chất đặc biệt của những khoản tiết kiệm này so với các loại tiết kiệm thông thường khác (do chúng có những tác động có thể ảnh hưởng đến nỗ lực ổn định về mặt xã hội của chính phủ quốc gia đó). Điển hình ở Mỹ, các nhà chính sách của Mỹ đã đưa ra những tài khoản và quỹ đặc biệt được thiết kế nhằm trợ cấp về thuế đối với tiết kiệm hưu trí của người dân. Đặc điểm chung của các chính sách trợ cấp này là tất cả tiền lãi phát sinh từ các tài khoản, quỹ này đều không phải chịu thuế. Thay vào đó, người chủ tài khoản (người lao động) sẽ phải trả thuế lúc anh ta nhận tiền khi về hưu như là những khoản thu nhập thường xuyên.  Trợ cấp thuế đối với tiền hưu do người sử dụng lao động trả. Đây là một kế hoạch hưu trí mà các công ty chịu trách nhiệm về sự đóng góp vào quỹ hưu bổng do công ty quản trị. Đây là một phần của phúc lợi (benefits) do công ty cung cấp cho nhân viên, và đây cũng là một phương thức giữ chân nhân viên cho đến ngày về hưu. Trong trường hợp này, nhân viên có thể không phải đóng góp gì cả hay chỉ đóng góp một phần, do đó gánh nặng tiết kiệm sẽ được giảm đi. Tương tự như bảo hiểm y tế do người sử dụng lao động đóng góp thì  Tất cả các khoản tiền góp hình thành nên quỹ hưu trí đều không phải chịu thuế khi tính thuế thu nhập đối với người lao động.  Tiền lãi phát sinh từ sự tích luỹ các khoản tiết kiệm hưu trí cũng không phải chịu thuế.  Người lao động phải nộp thuế đối với tiết kiệm hưu trí như là thu nhập thường xuyên lúc anh ta nhận tiền khi về hưu.  Tài khoản 401 (k) hay còn được gọi là Quỹ hưu trí 401(k) Quỹ hưu trí 401(k) là một hình chương trình tiết kiệm kiểm soát mang tính cá nhân được cung cấp thông qua nơi làm việc. Các quỹ này cho phép cá nhân tiết kiệm cho giai đoạn về hưu trên cơ sở được ưu đãi về thuế và người sử dụng lao động thường đóng góp theo mức đóng góp của người lao động Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 12 Số tiền người công nhân có thể quyết định để dành trong loại quỹ hưu này được ấn định mức giới hạn. Trong năm 2004, mỗi người lao động được quyền bỏ vào quỹ hưu 401(k) với mức cao nhất là $13,000 cho phần đóng góp của họ. Trường hợp người công nhân chọn quỹ hưu trí SIMPLE 401 (k) để bỏ tiền hưu trích từ lương của họ, mức cao nhất cho năm 2004 người này có thể đóng góp vào quỹ hưu này là $9,000. Cả hai mức giới hạn sẽ tăng hay giảm theo tỉ lệ lạm phát. Ngoài ra, từ độ tuổi 50 trở đi, người công nhân tham gia chương trình hưu trí 401 (k) có thể để dành nhiều tiền hơn vào quỹ hưu trí; số tiền để dành nhiều hơn ở độ tuổi này gọi là “catch-up contributions” có thể lên đến $3,000 cho năm 2004, hay $1,500 đối với quỹ hưu SIMPLE 401 (k). Người nhận tiền phân phối từ quỹ hưu 401 (k) có thể chọn cách rút tiền một lần (lump-sum distribution treatment) hoặc cách chuyển tiền sang một quỹ hưu khác nếu họ có đủ tiêu chuẩn quy định. Có nhiều quỹ hưu cho phép người chủ sở hữu được rút tiền dành dụm trong quỹ hưu để giải quyết hoàn cảnh khó khăn của họ khi cần thiết. Tiền rút ra từ quỹ hưu 401 (k) trong những tình huống khó khăn được giới hạn ở mức đóng góp của người chủ sở hữu của quỹ hưu này, không kể phần lãi phát sinh từ số tiền dành dụm bỏ vào quỹ. Trong trường hợp như vậy, các khoản tiền rút ra không được xem như các khoản tiền mượn tạm trong vòng 60 ngày hay tiền chuyển từ quỹ hưu này sang quỹ hưu khác. Tiền hưu được phân phối cho người chủ sở hữu trước khi được 59 tuổi rưỡi là tiền hưu non, khi đó, người chủ sở hữu quỹ hưu phải đóng phạt. Mức phạt cho các khoản tiền hưu non là 10% ngoài các khoản thuế phải đóng trên khoản lợi tức này. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp ngoại lệ sẽ không phải đóng phạt. Tất cả các quy định cũng như các tiêu chuẩn, điều kiện về việc mở và duy trì các quỹ hưu trí dành cho người chủ lao động hay người lao động đều được chi tiết hóa trong các ấn bản (publication) 525 – Lợi tức phải đóng thuế và Lợi tức không phải đóng thuế (Taxable and Nontaxable Income); hay 560 – Quỹ Hưu Cho Các Cơ Sở Kinh Doanh Nhỏ (Publication 560 – Retirement Plans for Small Business); hay 575 – Thu Nhập Từ Quỹ Hưu Trí và Lợi Tức Hằng Năm, phần “Lump-Sum Distributions” (Publication 575 – Pension and Annuity Income).  Tài khoản hưu trí cá nhân (IRAs) hay còn được gọi là Quỹ Hưu trí cá nhân Quỹ hưu trí 401(k) hoặc trợ cấp thuế cũng có những hạn chế nếu người lao động không được người sử dụng lao động cung cấp tiền hưu trí. Năm 1974, Quốc hội Mỹ đưa Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 13 ra một kế hoạch tiết kiệm hưu trí cá nhân khác, mang tên IRA (Individual Retirement Arrangement – Quỹ hưu trí Cá nhân), một cơ chế tiết kiệm hưu trí được ưu đãi thuế dành cho cá nhân không bao gồm tiền hưu trí do người sử dụng lao động cung cấp. Vào năm 1981, IRA mở rộng đến mức người nào cũng có thể sử dụng, ngay cả đối với những người mà tiền hưu trí được người sử dụng lao động chi trả. Sau năm 1981, IRA hoạt động với nguyên tắc:  Đây không phải là loại hình tiết kiệm đặt biệt. Hầu hết tất cả các tài sản đều có thể đưa vào tài khoản IRA.  Cá nhân có thể đóng góp với mức tối đa được miễn thuế là 3.000$.  Không giống như tiền lãi các tiết kiệm thông thường, tiền lãi từ tài khoản IRA được cộng dồn vào thu nhập miễn thuế.  Số dư trong tài khoản IRA không được rút ra trước khi cá nhân tròn 59,5 tuổi; việc rút tiền chỉ được bắt đầu khi cá nhân được 70 tuổi (rút trước thời điểm đó bị phạt 10% thuế).  Tiền rút từ tài khoản IRA bị đánh thuế như là thu nhập thường xuyên. Cải cách thuế toàn diện năm 1986 đã hạn chế hình thức IRA. Đối với các hộ gia đình thu nhập trung bình và thu nhập thấp (dưới 40.000$ đối với người độc than, 60.000$ đối với một cặp vợ chồng) thì được tiếp tục tham gia IRA. Nhưng đối với các hộ gia đình thu nhập cao thì chỉ có thể sử dụng hình thức IRA không được giảm trừ khi tính thuế thu nhập. Với IRA thì tiền đóng vào cũng chịu thuế thu nhập nhưng tiền lãi phát sinh vẫn được giảm trừ khỏi thu nhập chiu thuế.  Tài khoản Keough Các tài khoản Keough được lập ra là dành cho các cá nhân lao động tự do và các chủ doanh nghiệp cá thể hoặc những người hành nghề chuyên môn. Trong loại lao động tự do gồm cả các nhà thầu độc lập, các nhà tư vấn, các văn nghệ sỹ độc lập và bất kỳ người nào có hồ sơ và đã nộp các loại thuế an sinh xã hội đối với nghề nghiệp tự do. Thuật nhữ “Chủ doanh nghiệp cá thể” được dùng để chỉ các chủ sở hữu độc lập dựa vào doanh nghiệp của họ để sinh sống, bao gồm các doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn mà trong đó mỗi người góp vốn vào cũng phải làm việc như một người lao động tại đó. Những cá nhân có tài khoản Keough có thể tiết kiệm đến 40.000 USD mỗi năm từ thu nhập mà mình tạo ra mà không phải chịu thuế để có thể rút ra sử dụng (và bị đánh Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 14 thuế) khi nghỉ hưu. Tài khoản Keough có mọi tính năng giống hệt tài khoản 401(k), chỉ khác ở chỗ nó không bị kiểm soát bởi người sử dụng lao động. 3.1.2. Đối với Việt Nam Việt Nam không có những quỹ hưu trí như ở Mỹ. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn có những chính sách nhằm hỗ trợ người lao động có được khoản thu nhập ổn định khi nghỉ hưu. Đối với người lao động làm việc ở cơ quan nhà nước, theo hướng dẫn của Bảo hiểm xã hội thành phố Hồ Chí Minh, cách tính tiền lương hưu sẽ được tính theo công thức sau: Trong đó, tỷ lệ hưởng lương hưu tính theo thời gian đóng bảo hiểm xã hội như sau: 15 năm đầu = 45%, cộng thêm 2% (nam) hoặc 3% (nữ) cho mỗi năm tiếp theo. Lương hưu không quá 75% lương bình quân đóng bảo hiểm xã hội. Toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội được hưởng lương (hệ số) theo khu vực nhà nước: tính bình quân 5 năm cuối (nếu tham gia bảo hiểm xã hội từ trước 1995); tính bình quân 6 năm cuối (nếu tham gia bảo hiểm xã hội từ trước 2007); tính bình quân 10 năm cuối (nếu tham gia bảo hiểm xã hội từ 2007 trở đi) Đối với trường hợp toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội được hưởng lương không theo hệ thống thang, bảng lương Nhà nước: tình bình quân toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Đối trường hợp người lao động vừa có thời gian hưởng lương theo khu vực Nhà nước và thời gian không theo thang, bảng lương Nhà nước, lương hưu được tính bằng công thức: Trong đó:  L1 = lương trong khu vực nhà nước tính bình quân (như trên) x Tổng số tháng trong khu vực Nhà nước  L2 = tổng tiền lương toàn bộ bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội trong khu vực không Nhà nước. Điều kiện để được hưởng lương hưu là ngoài tuổi lao động (nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi) và cá nhân đó đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội. Trường hợp không đủ thời gian đóng Lương hưu = Tỷ lệ lương hưu x Lương bình quân đóng bảo hiểm xã hội. Lương hưu = (L1 + L2) / toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 15 bảo hiểm như quy định nhưng còn thiếu không quá 5 năm thì được đóng tiếp cho đến khi đủ 20 năm. Khi đạt đủ điều kiện, ngoài tiền lương hưu, người lao động còn được hưởng trợ cấp một lần. Mức trợ cp một lần được tính theo số năm đóng bảo hiểm xã hội kể từ năm thứ 31 trở đi đối với nam và năm thứ 26 trở đi đối với nữ. Cứ mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì được tính bằng 0.5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội. * Đó là tiền lương hưu được tính căn cứ theo mức đóng bảo hiểm xã hội hàng tháng của người lao động. Số tiền đóng bảo hiểm xã hội hàng tháng của người lao động sẽ do người chủ lao động và người lao động cùng đóng góp. Trong đó, chủ lao động đóng 15% và người lao động đóng 5% trên tổng số lương. Và toàn bộ số tiền đóng góp này cũng như số tiền lương hưu hàng tháng người lao động nhận được hoàn toàn không phải đóng thuế. Đây cũng là một biện pháp khuyến khích người lao động tăng tiết kiệm để tăng thu nhập trong thời gian nghỉ hưu. Bên cạnh đó, một số ngân hàng thương mại cũng đưa ra các hình thức tương tự như các quỹ hưu trí ở Mỹ. Cụ thể như Sacombank có sản phẩm bảo đảm hưu trí do người mở tài khoản, là những người lao động có thu nhập, đóng góp nhằm đảm bảo thu nhập của bản thân họ hoặc thậm chí là người thân (nếu họ mở và đóng góp vào tài khoản cho người thân) trong thời kỳ hưu trí. Trong khi đó, các quy định về thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam hoàn toàn không đánh thuế trên số phát sinh lời từ việc tiết kiệm. Trong khi đó, dân số Việt Nam đang già hóa một cách nhanh chóng, do tuổi thọ bình quân ngày càng tăng lên trong khi tỷ suất sinh và tỷ suất tử ngày càng giảm. Dân số già đồng nghĩa với người cao tuổi sống lâu hơn, số tiền chi trả cho họ nhiều hơn, trong khi đó những người trong độ tuổi lao động ngày càng “mỏng” đi nhưng lại phải gánh gánh nặng chi trả cho những người cao tuổi ngày càng nhiều. Chẳng hạn như, năm 2009, cứ 100 người dưới 15 tuổi thì có 36 người cao tuổi. Nhưng theo dự báo, con số này đến năm 2049 sẽ là 100 người dưới 15 tuổi thì có tới 158 người cao tuổi. Bên cạnh đó là những bất cập về độ tuổi về hưu, những đóng góp của khu vực công và khu vực tư, việc đầu tư cho quỹ hưu trí hiện nay vẫn còn thấp đều là những nguyên nhân khiến quỹ này đối mặt với nguy cơ cạn kiệt trong tương lai. Trước thực trạng trên, các chuyên gia trong nước và quốc tế đã đưa ra những gợi ý như cải cách chế độ hưu trí hiện hành hướng tới một hệ thống các tài khoản cá nhân với mức đóng góp được xác định trước và coi đây là một bước chuyển tiếp. Đa dạng hóa các loại hình bảo hiểm nhằm nâng Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 16 cao khả năng tiếp cận của các nhóm dân số khác nhau, trong đó, bảo hiểm tự nguyện cần được liên kết và liên thông với các chương trình bảo hiểm bắt buộc và các loại hình bảo hiểm khác. Song song đó là các chính sách để tạo công ăn việc làm cho những người cao tuổi vẫn còn khỏe mạnh để họ có thể tăng thêm thu nhập. 3.2. Hiệu ứng lý thuyết đến tiết kiệm hưu trí được trợ cấp thuế Về mặt lý thuyết, trợ cấp thuế đối với tiết kiệm hưu trí tác động theo cơ chế ngược với cơ chế tác động của thuế đánh trên thu nhập từ tiền lãi – như hình minh họa dưới đây: Y(1+r) Y(1+r(1-t)) C3 R C2R B YS4 BC3 = BC1BC2 IC1Ðô dôc = - (1+r(1-t.a) Ðô dôc =- (1+r(1-t)) C2 W C4 WC3 W C4 R CW CR S2 S3 A C S 2 (1 +r (1 -t) ) Trong đó: Cw : tiêu dùng của cá nhân trong giai đoạn làm việc. S : phần tiết kiệm mà cá nhân để dành (S=Y-Cw) r : lãi suất ngân hàng. t : thuế đánh trên lãi tiết kiệm. CR : tiêu dùng của cá nhân trong giai đoạn nghỉ hưu. (CR =S(1+r)) IC : đường bàng quan thể hiện mong muốn của cá nhân về mức độ ồn định tiêu dùng theo thời gian. BC2,3 : đường ngân sách sau thuế và khi tiết kiệm được miễn thuế. Độ dốc của đường ngân sách chính là chi phí cơ hội của việc tiêu dùng trong giai đoạn thứ nhất. Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 17 Khi tiết kiệm hưu trí được trợ cấp thuế, thì việc trì hoãn trả thuế làm giảm gánh nặng thuế đến mức còn t.a (với a < 1), làm tăng độ dốc của đường giới hạn ngân sách. Như vậy khi một người đang tiêu dùng tại điểm A trên đường BC2, khi có trợ cấp thuế thì đường BC2 sẽ dịch chuyển lên thành đường BC3 có độ dốc cao hơn. Điều này gây ra hiệu ứng thay thế tiết kiệm nhiều hơn và hiệu ứng thu nhập hướng tới tiết kiệm ít hơn. Như đã thảo luận ở trên, hiệu ứng tổng thể của sự thay đổi trong lãi suất sau thế là không rõ ràng. Như vậy điểm A này sẽ có 2 hướng để dịch chuyển lên đường BC3, hoặc là điểm B hoặc điểm C (điểm B trong trường hợp nếu hiệu ứng thay thế lớn hơn hiệu ứng thu nhập và điểm C trong trường hợp hiệu ứng thu nhập lớn hơn hiệu ứng thay thế)  Các giới hạn đối với trợ cấp thuế trên tiết kiệm hưu trí Hầu hết các cơ chế đối với tiết kiệm hưu trí mà chúng ta xem xét đều có đặc điểm là giới hạn việc đóng góp hàng năm, ví dụ là mức giới hạn 3000$ vào IRA. Hình sau cho thấy ảnh hưởng của IRA đên đường giới hạn ngân sách của cô. Y(1+r(1-t)) Y 3000$ BC2 C2 W CW CR Ðô dôc = - (1+r(1-t)) Ðô dôc = - (1+r(1-t)) Ðô dôc = - (1+r(1-t.a)) B E D A Ban đầu đường giới hạn ngân sách của cô là BC2, giá cả tiêu dùng trong giai đoạn thứ nhất là (1+r(1-t)). Nếu cá nhân quyết định bỏ tiền vào IRA thì trong 3.000$ đầu tiên cá nhân sẽ có đường ngân sách mới BC3 với giá cả tiêu dùng (độ dốc của đường giới hạn ngân sách) trong giai đoạn thứ nhất là (1+r(1-t.a)); với số tiết kiệm trên 3.000$ thì độ dốc của đường giới hạn ngân sách giống như giá trị ban đầu là (1+r(1-t)). Vậy IRA tác động đến tiết kiệm như thế nào? Xét 2 trường hợp:  Trường hợp thứ nhất: Cá nhân chỉ tiết kiệm được một lượng nhỏ trước khi có IRA. Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 18 Y(1+r(1-t)) Y A C3 W CW CR C B S3=500$ S1=1000$ C1WC2W S2=1500$ Đối với những người có tiết kiệm thấp (tiết kiệm dưới mức giới hạn đối với trợ cấp thuế) thì tác động của trợ cấp thuế không rõ ràng, do có việc bù trừ giữa hiệu ứng thay thế ( xu hướng tăng tiết kiệm vì lãi suất sau thuế tăng lên) và hiệu ứng thu nhập ( xu hướng tiết kiệm giảm vì thu nhập sau thuế giảm)  Trường hợp thứ hai: Cá nhân tiết kiệm được nhiều khoản 5.000$ trước khi có IRA Y(1+r(1-t)) Y A CW CR S2=4000$ S1=5000$ C1 W C2 W B Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 19 Với những người có tiết kiệm cao (tiết kiệm trên mức giới hạn đối với trợ cấp thuế) thì tác động của trợ cấp thuế là rõ ràng, đường giới hạn ngân sách có độ dốc không đổi nhưng ở vị trí cao hơn, việc trợ cấp thuế làm người ta giàu hơn. Tuy nhiên, hiệu ứng thu nhập đối với những người có tiết kiệm cao trong trường hợp nay phát sinh khi họ tái sắp xếp các tài khoản hiện có vào trong các cơ chế tiết kiệm hưu trí có trợ cấp thuế: chính phủ làm cho họ nhận được mức thu nhập cao hơn từ tiền tiết kiệm mà họ dự định để dành, như vậy nếu việc tái sắp xếp tài sản được ưa thích thì nhiều khả năng sẽ làm giảm tiết kiệm cá nhân thông qua hiệu ứng thu nhập. 3.3. Những hàm ý cho các mô hình tiết kiệm khác Quyết định tiết kiệm được xác định bởi những cân nhắc về việc phòng ngừa rủi ro và tự kiểm soát. - Tiết kiệm phòng ngừa rủi ro: Có những rủi ro luôn tồn tại như rủi ro mất việc làm, rủi ro bệnh tật… làm cho người ta cảm thấy bị hạn chế nếu phải tham gia các chương trình tiết kiệm hưu trí như trên (không được phép rút tiền trước khi về hưu). Như vậy hàm ý là có thể sẽ có nhiều tài khoản tiết kiệm hưu trí nhưng không phải vì lý do mục tiêu hưu trí mà vì lý do phòng ngừa rủi ro. - Mô hình tự kiểm soát: Dấu hiệu của mô hình tiết kiệm tự kiểm soát là việc tìm kiếm các công cụ mang tính cam kết nhằm thực hiện việc tự kiểm soát. Việc cam kết đóng góp hàng tháng làm cá nhân không thể tiếp cận tiền tiết kiệm cho đến khi họ về hưu và thỏa mãn các nhu cầu có lợi trong dài hạn. Các tài khoản tiết kiệm hưu trí do vậy sẽ làm tăng tiết kiệm nhiều hơn, ngoài nhu cầu phát sinh do bởi được ưu đãi thuế, nhu cầu còn xuất phát từ sự cam kết. - Tiết kiệm cá nhân và tiết kiệm quốc gia: Các chính sách khuyến khích thuế đối với tiền hưu trí làm tăng tiết kiệm cá nhân thì bù lại các khuyến khích này sẽ tạo ra những tác động tiêu cực đối với tiết kiệm quốc gia, bởi vì chúng được tài trợ bởi cơ sở đánh thuế. Năm 1975 chi tiêu cho những khuyến khích tiết kiệm chỉ dưới 20 tỷ đôla nhưng đến năm 2004 tăng lên mức 150 tỷ đôla (ở Mỹ). Các nhà lập chính sách tin rằng khuyến khích sẽ tạo ra sự khác biệt trong quyết định tiết kiệm của cá nhân. Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 20 KẾT LUẬN Vai trò của tiết kiệm rất quan trọng trong việc ổn định xã hội. Tiết kiệm ngày hôm nay để tiêu dùng cho ngày mai. Tiết kiệm còn góp phần sự phát triển nền kinh tế quốc gia. Như khủng hỏang năm 2008 vừa qua xảy ra tại Mỹ cũng chính là do dân chúng trong Mỹ đầu tư không phải từ số tiền tiết kiệm mà do vay mượn. Vì thế cho nên để tránh trường hợp khủng hoảng xảy ra, các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng luôn đưa ra các chính sách khuyến khích tiết kiệm, đặc biệt là ở Mỹ. Tuy nhiên, riêng đối với Việt Nam, chính sách thuế khuyến khích tiết kiệm vẫn còn yếu kém. Chính sách khuyến khích của thuế đối với tiết kiệm như trợ cấp thuế, miễn thuế, và đánh thuế sau khi trừ đi các khoản đóng góp vào quỹ tiết kiệm như quỹ hưu trí làm cho người dân có động lực hơn trong việc tiết kiệm. Nhưng để tránh thất thu thuế, thâm hụt ngân sách nhà nước thì sau khi về hưu người dân nhận tiền hưu hàng tháng sẽ bị đánh thuế. Hiện nay Việt Nam hầu như tiết kiệm bằng cách giữ tiền mặt trong nhà, làm mất đi một khoản vốn để đầu tư tăng trưởng kinh tế, cho nên chính phủ Việt Nam nên có những dịch vụ, chính sách khuyến khích người dân gửi tiền tiết kiệm ở các ngân hàng, quỹ đầu tư… Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 21 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sử Đình Thành, Bùi Thị Mai Hoài (2010), Tài chính công và Phân tích chính sách thuế, NXB Lao Động. 2. Một số trang tin điện tử: c424a344033.html

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthue_danh_vao_tiet_kiem_303.pdf
Luận văn liên quan