Tìm hiểu pháp luật đầu tư của Việt Nam trong sự so sánh với pháp luật đầu tư của Lào

Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hoá và khu vực hoá đang diễn ra ngày càng sâu sắc mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài. Các quan hệ kinh tế quốc tế trở nên sôi động hơn bao giờ hết và có tác động to lớn đến sự phát triển của các quốc gia trên thế giới. Trong bối cảnh đó, nền kinh tế của nước CHDCND Lào đang trên đà phát triển và nhanh chóng hội nhập vào cộng đồng kinh tế thế giới .Tuy nhiên một trong những thách thức không nhỏ đối với Lào đó là có xuất phát điểm từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Lào là một trong 20 nước kém phát triển trên thế giới, người dân phần lớn cuộc sống gắn bó với nghề nông nghiệp. Công nghiệp kém phát triển kéo theo trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ phát triển năng lực thấp, nguồn lực con người có trình độ còn thiếu và yếu Để khắc phục những khó khăn hiện tại, thay đổi bộ mặt cuộc sống, CHDCND Lào cần hết sức nỗ lực tìm những hướng đi phù hợp với tình hình kinh tế của mình. Vì vậy trong quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, Chính phủ Lào chú trọng mối quan hệ với các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam - quốc gia có mối quan hệ lịch sử gắn bó tốt đẹp, nước láng giềng có sự tương đồng về nhiều mặt như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá . Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quá trình hoàn thiện pháp luật của Việt Nam luôn là những kinh nghiệm quý đối với CHDCND Lào. Việt Nam đang thiết lập các quan hệ hợp tác kinh tế – thương mại với nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và hầu hết các quốc gia trên thế giới, là thành viên mới nhất (thứ 150) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Từ nhiều năm nay, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư và kinh doanh nói riêng đã không ngừng được hoàn thiện trên lộ trình cải cách, điều chỉnh kịp thời cơ chế, chính sách, luật lệ của nước mình cho phù hợp “luật chơi” quốc tế, chú trọng việc cải thiện môi trường đầu tư . nhằm thu hút vốn đầu tư, công nghệ và khoa học kỹ thuật. Vì vậy việc tìm hiểu pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật đầu tư nói riêng là việc làm hết sức ý nghĩa đối với những sinh viên chuyên ngành luật kinh tế, hơn nữa còn góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đầu tư của Lào qua cái nhìn so sánh, qua những bài học kinh nghiệm quý báu rút ra từ chặng đường phát triển pháp luật đầu tư ở Việt Nam. Với cơ sở khoa học và thực tiễn nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Tìm hiểu pháp luật đầu tư của Việt Nam trong sự so sánh với pháp luật đầu tư của Lào”. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I 4 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ VIỆT NAM 4 VÀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ LÀO 4 1. Khái quát về pháp luật đầu tư của Việt Nam 4 1.1. Pháp luật đầu tư Việt Nam trước khi ban hành Luật Đầu tư chung 4 1.1.1. Pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 6 1.1.2. Pháp luật về khuyến khích đầu tư trong nước 10 1.2. Pháp luật đầu tư Việt Nam từ khi ban hành Luật Đầu tư năm 2005 12 1.2.1. Mục đích, yêu cầu sửa đổi pháp luật đầu tư và ban hành Luật Đầu tư chung 12 1.2.2. Nguyên tắc của việc ban hành Luật Đầu tư 17 1.2.3. Giới thiệu khái quát về Luật Đầu tư (2005) và những văn bản liên quan 18 2. Khái quát về pháp luật đầu tư của CHDCND Lào 21 2.1. Quá trình phát triển pháp luật về đầu tư tại CHDCND Lào 21 2.2. Hệ thống văn bản pháp luật về đầu tư của CHDCND Lào 22 CHƯƠNG II 25 NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ VIỆ NAM VÀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ LÀO - NHÌN TỪ GÓC ĐỘ SO SÁNH 25 1. Quy định về đối tượng, phạm vi áp dụng luật Đầu tư 25 1.1. Quy định về đối tượng, phạm vi áp dụng Luật Đầu tư theo pháp luật Việt Nam 25 1.2. Quy định về đối tượng, phạm vi áp dụng Luật Đầu tư theo pháp luật CHDCND Lào 26 2. Quy định về nhà đầu tư 27 2.1. Quy định về nhà đầu tư theo pháp luật Việt Nam 27 2.2. Quy định về nhà đầu tư theo pháp luật CHDCND Lào 29 3. Quy định về hình thức đầu tư 29 3.1. Quy định về hình thức đầu tư theo pháp luật Việt Nam 29 3.1.1. Các hình thức đầu tư trực tiếp 29 3.1.2. Các hình thức đầu tư gián tiếp 31 3.2. Quy định về hình thức đầu tư theo pháp luật CHDCND Lào 32 4. Quy định về thủ tục đầu tư 32 4.1. Quy định về thủ tục đầu tư theo pháp luật Việt Nam 33 4.2. Quy định về thủ tục đầu tư theo pháp luật CHDCND Lào 36 5. Quy định về địa bàn lĩnh vực đầu tư 37 5.1. Quy định về địa bàn lĩnh vực đầu tư theo pháp luật Việt Nam 38 5.2. Quy định về địa bàn lĩnh vực đầu tư theo pháp luật CHDCND Lào 39 6. Quy định về bảo đảm đầu tư 39 6.1. Quy định về bảo đảm đầu tư theo pháp luật Việt Nam 39 6.2. Quy định về bảo đảm đầu tư theo pháp luật CHDCND Lào 41 7. Quy định về ưu đãi đầu tư 42 7.1. Quy định về ưu đãi đầu tư theo pháp luật Việt Nam 42 7.2. Quy định về ưu đãi đầu tư theo pháp luật CHDCND Lào 43 8. Các quy định khác (Về khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao) 44 8.1. Các quy định khác của Luật Đầu tư theo pháp luật Việt Nam 45 8.2. Các quy định khác của Luật Đầu tư theo pháp luật CHDCND Lào 48 CHƯƠNG III 49 KINH NGHIỆM ĐẠT ĐƯỢC VÀ MỘT SỐ YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ 49 CỦA CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 49 1. Kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật đầu tư của Việt Nam 49 1.1. Thống nhất điều chỉnh các hoạt động đầu tư trong nước và nước ngoài 49 1.2. Xây dựng một hệ thống các quy phạm pháp luật về đầu tư hoàn thiện 50 2. Một số yêu cầu đắt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật Đầu tư của Là trong thời gian tới 52 KẾT LUẬN 56 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 57

doc61 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3229 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu pháp luật đầu tư của Việt Nam trong sự so sánh với pháp luật đầu tư của Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khích đầu tư trong nước: nhà đầu tư trong nước có thể đầu tư trong mọi loại hình thức doanh nghiệp được quy định trong Luật Doanh nghiệp 4. Quy định về thủ tục đầu tư Mục đích chủ yếu của việc quy định các thủ tục đầu tư là để đảm bảo sự quản lý Nhà nước đối với các dự án đầu tư cũng như các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung, tránh sự lãng phí, thất thoát và kém hiệu quả trong đầu tư. Đồng thời thông qua đó Nhà nước thừa nhận tính hợp pháp của hoạt động đầu tư, từ đó có cơ sở pháp lý để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhà đầu tư . 4.1. Quy định về thủ tục đầu tư theo pháp luật Việt Nam Theo Luật Đầu tư 2005, các thủ tục pháp lý liên quan đến đầu tư được quy định theo 3 nhóm dự án đầu tư là: Dự án đầu tư không phải làm thủ tục đăng ký đầu tư, dự án đầu tư phải làm thủ tục đăng ký đầu tư và dự án đầu tư phải thực hiện thủ tục thẩm tra đầu tư. a. Dự án đầu tư không phải làm thủ tục đăng ký đầu tư Các dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư dưới 15 tỷ đồng Việt Nam và không thuộc danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện đầu tư thì nhà đầu tư không phải làm thủ tục đăng ký đầu tư ( khoản 1, điều 45, Luật Đầu tư 2005)/ b. Dự án đầu tư phải làm thủ tục đăng ký đầu tư Đối với các dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư từ 15 tỷ đồng Việt Nam đến dưới 300 tỷ đồng Việt Nam và dự án đầu tư nước ngoài có quy mô vốn đầu tư dưới 300 tỷ đồng Việt Nam, không thuộc danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì nhà đầu tư phải làm thủ tục đăng ký đầu tư theo mẫu đăng ký đầu tư tại cơ quan Nhà nước quản lý đầu tư các tỉnh. Đối với các dự án đầu tư trong nước, nhà đầu tư phải đăng ký đầu tư trước khi thực hiện dự án. Nội dung đăng ký đầu tư gồm : - Tư cách pháp lý của nhà đầu tư; - Mục tiêu, quy mô và địa điểm thực hiện dự án đầu tư; - Vốn đầu tư, tiến độ thực hiện dự án; - Nhu cầu sử dụng đất và cam kết về bảo vệ môi trường; - Kiến nghị ưu đãi đầu tư ( nếu có) Trường hợp nhà đầu tư có nhu cầu cấp giấy chứng nhận đầu tư thì cơ quan Nhà nước quản lý đầu tư cấp tỉnh cấp giấy chứng nhận đầu tư. Đối với dự án đầu tư nước ngoài, việc nhà đầu tư phải làm thủ tục đăng ký đầu tư là để cơ quan Nhà nước quản lý đầu tư cấp tỉnh cấp giấy chứng nhận đầu tư trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đăng ký đầu tư hợp lệ. Hồ sở đăng ký đầu tư ngoài các văn bản về nội dung đăng ký đầu tư như các dự án đầu tư trong nước còn phải thêm các giấy tờ sau: - Báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư; - Hợp đồng liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh, điều lệ doanh nghiệp (nếu có) c. Dự án đầu tư phải thực hiện thủ tục thẩm tra đầu tư Đối với 1 số loại dự án phải thẩm tra theo quy định của pháp luật thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành thẩm tra hồ sơ dự án trước khi cấp giấy chứng nhận đầu tư. - Những loại dự án phải thẩm tra + Dự án có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỷ đồng Việt Nam trở lên và không thuộc danh mục dự án đầu tư có điều kiện; + Dự án thuộc danh mục dự án đầu tư có điều kiện. - Hồ sơ thẩm tra: Chủ đầu tư phải lập hồ sơ thẩm tra dự án đầu tư trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thẩm tra. Đối với mỗi nhóm dự án đầu tư thì yêu cầu về hồ sơ thẩm tra có khác nhau: + Đối với dự án có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỷ đồng Việt Nam trở lên và không thuộc danh mục dự án đầu tư có điều kiện: Văn bản đề nghị cấp giấy chứng nhận đầu tư; văn bản xác nhận tư cách pháp lý của nhà đầu tư; báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư; giải trình kinh tế – kỹ thuật với các nội dung về : mục tiêu, địa điểm đầu tư; nhu cầu sử dụng đất; quy mô đầu tư, vốn đầu tư; tiến độ thực hiện dự án; giải pháp công nghệ; giải pháp về môi trường. Đối với nhà đầu tư nước ngoài hồ sở thẩm tra còn bao gồm : hợp đồng liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh, điều lệ doanh nghiệp (nếu có) + Đối với các dự án thuộc danh mục đầu tư có điều kiện * Nếu dự án có quy mô vốn đầu tư dưới 300 tỷ đồng Việt Nam, hồ sơ gồm: Giải trình điều kiện mà nhà đầu tư phải đáp ứng; các giấy tờ khác như hồ sơ đăng ký đầu tư. * Nếu dự án có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỷ đồng Việt Nam trở lên, hồ sơ gồm: Giải trình điều kiện mà nhà đầu tư phải đáp ứng; các giấy tờ khác như hồ sơ thẩm tra đầu tư dự án có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỷ đồng Việt Nam trở lên và không thuộc danh mục dự án đầu tư có điều kiện. Chủ đầu tư chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính xác thực và tính hợp pháp của các thông tin, số liệu, tài liệu gửi theo hồ sơ dự án. - Nội dung thẩm tra + Đối với dự án có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỷ đồng Việt Nam trở lên và không thuộc danh mục dự án đầu tư có điều kiện thì nội dung thẩm tra gồm: Sự phù hợp với quy hoạch kết cấu kỹ thuật – hạ tầng, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng, quy hoạch sử dụng các nguồn tài nguyên và khoáng sản; Nhu cầu sử dụng đất; Tiến độ thực hiện dự án; Giải pháp bảo vệ môi trường; + Đối với các dự án thuộc danh mục dự án đầu tư có điều kiện thì nội dung thẩm tra là những điều kiện mà nhà đầu tư phải đáp ứng. Nếu dự án có quy mô từ 300 tỷ đồng Việt Nam trở lên, nội dung thẩm tra còn bao gồm các nội dung như nội dung thẩm tra đối với dự án có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỷ đồng Việt Nam trở lên và không thuộc danh mục dự án đầu tư có điều kiện như đã trình bày ở trên. - Thời hạn và quy trình thẩm tra đầu tư: Thời gian thẩm tra đầu tư không qúa 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, trường hợp cần thiết thời hạn trên có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày. Quy trình thẩm tra đầu tư được thực hiện theo quy định của Chính phủ. - Cơ quan thẩm tra và cấp giấy chứng nhận đầu tư. Cơ quan có thẩm quyền thẩm tra đầu tư và cấp giấy chứng nhận đầu tư là những cơ quan Nhà nước quản lý về đầu tư theo sự phân cấp của Chính phủ. Những cơ quan này phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những đề xuất và những quyết định của mình đối với dự án. 4.2. Quy định về thủ tục đầu tư theo pháp luật CHDCND Lào Thủ tục xin đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư có mục đích đầu tư trong ngành kinh tế quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước phải làm đơn theo mẫu in của Uỷ ban khuyến khích và quản lý đầu tư và gồm kèm theo các tài liệu như : bản sao sổ hộ khẩu, lý lịch trích ngang của nhà đầu tư, bản thỏa thuận kinh tế công nghệ hoặc kế hoạch hoạt động kinh doanh, thông tin về kinh doanh nếu là doanh nghiệp; hợp đồng hợp tác đầu tư nếu là đầu tư trong hình thức doanh nghiệp hợp danh, rồi gửi lên Uỷ ban khuyến khích đầu tư trong nước xem xét. Ngoài các hoạt động kể trên còn phải nộp đơn xin đầu tư lên Bộ Thương mại.(Điều 12) Sau khi nhận được đơn và các tài liệu kèm theo đã quy định tại điều 12 của luật này, Uỷ ban khuyến khích và quản lý đầu tư trong nước, Bộ Thương mại xem xét, đánh giá và trả lời bằng cách ký với nhà đầu tư trong thời hạn như sau: Đối với hoạt động kinh doanh liên quan đến việc hưởng quyền Uỷ ban khuyến khích đầu tư phải có thông báo không quá 30 ngày, còn hoạt động kinh doanh không quá 20 ngày. Nhà đầu tư trong nước đã nộp đơn tới Uỷ ban khuyến khích đầu tư nếu đủ điều kiện sẽ được nhận giấy chứng nhận đầu tư, giấy đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế tại đây. Nhà đầu tư trong nước đã nộp đơn tới Bộ Thương mại nếu đủ điều kiện sẽ được cấp giấy đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế tại Bộ Thương mại. Sau đó sẽ được coi là doanh nghiệp hợp pháp, trong vòng 90 ngày doanh nghiệp đầu tư đó phải tiến hành hoạt động kinh doanh của mình, nếu không thực hiện theo thời hạn trên mà không có lý do chính đáng thì giấy phép đầu tư và giấy đăng ký kinh doanh sẽ bị huỷ bỏ. Thủ tục đầu tư nước ngoài phức tạp hơn, theo quy định đơn xin đầu tư nước ngoài bao gồm 2 loại: - Đơn xin đầu tư trong biên lai kinh doanh khuyến khích hoặc dự án không liên quan đến việc xin nhượng quyền của CHDCND Lào hoặc quyền liên quan đến tài nguyên thiên nhiên nhưng không có ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe và văn hóa của đất nước. - Đơn xin đầu tư trong biên lai kinh doanh mở nhưng phải có điều kiện hoặc dự án liên quan với việc xin nhượng quyền của CHDCND Lào hoặc quyền liên quan đến tài nguyên thiên nhiên nhưng không có ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe và văn hóa của đất nước. Trong việc lập đơn xin đầu tư dựa theo mục đích của nhà đầu tư phải bao gồm những tài liệu sau: Đơn xin đầu tư Nội quy Công ty Hợp đồng kinh doanh ( đối với doanh nghiệp hợp doanh) Bản thoả thuận kinh tế công nghệ hoặc kế hoạch hoạt động kinh doanh Tài liệu chứng nhận tổ chức hoặc hoàn cảnh tài chính Đơn và các tài liệu phải nộp cho Bộ khuyến khích đầu tư kiểm tra, Bộ khuyến khích đầu tư sẽ cấp giấy chứng nhận tính chính xác của các tài liệu cho nhà đầu tư trong thời hạn 3 ngày. Sau đó nhà đầu tư gửi đơn xin Bộ nghiên cứu xem xét để tiến hành trong các bước tiếp theo của hoạt động đầu tư. 5. Quy định về địa bàn lĩnh vực đầu tư Lĩnh vực, địa bàn đầu tư liên quan mật thiết tới chính sách của các Nhà nước về bảo đảm và khuyến khích đầu tư. Trong mỗi thời kỳ, việc ngăn cấm hay khuyến khích đầu tư vào các địa bàn, lĩnh vực của nền kinh tế được pháp luật quy định cụ thể phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong nước cũng như bối cảnh quốc tế. Thông thường, lĩnh vực, địa bàn đầu tư được pháp luật quy định theo 3 nhóm cơ bản là: lĩnh vực cấm đầu tư, lĩnh vực đầu tư có điều kiện và lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư. 5.1. Quy định về địa bàn lĩnh vực đầu tư theo pháp luật Việt Nam Trong giai đoạn hiện nay nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia và để phù hợp với thông lệ quốc tế, Nhà nước Việt Nam cấm các dự án đầu tư gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích công cộng; gây phương hại đến di tích lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam; gây tổn hại đến sức khoẻ nhân dân, làm huỷ hoại tài nguyên, phá huỷ môi trường; các dự án xử lý phế thải độc hại đưa từ bên ngoài vào Việt Nam; sản xuất các loại hóa chất độc hại hoặc sử dụng tác nhân độc hại bị cấm theo điều ước quốc tế. Trong một số lĩnh vực đầu tư có ảnh hưởng quốc phòng, an ninh quốc gia và các lợi ích kinh tế, xã hội quan trọng như tài chính, ngân hàng, văn hóa, báo chí, xuất bản, giải trí…Nhà đầu tư chỉ được thực hiện đầu tư với các điều kiện cụ thể do pháp luật quy định. Bên cạnh đó nhằm thúc đẩy sự phát triển cân đối trong các lĩnh vực, địa bàn của nền kinh tế quốc dân, thực hiện có hiệu quả mục đích của Luật Đầu tư, Nhà nước khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn nhất định. Việc xác định các dự án được ưu đãi dựa trên nhiều yếu tố khác nhau (sản xuất sản phẩm công nghệ cao, sử dụng nhiều lao động, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển giáo dục đào tạo…). Các địa bàn khuyến khích đầu tư, các dự án khuyến khích, đặc biệt khuyến khích đầu tư, các lĩnh vực đầu tư có điều kiện được quy định bằng danh mục cụ thể, căn cứ vào quy hoạch, định hướng phát triển trong từng thời kỳ và cam kết quốc tế về đầu tư. Để cụ thể hóa lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư, lĩnh vực đầu tư có điều kiện, lĩnh vực cấm đầu tư và có những thay đổi hợp lý, phù hợp với thực tế cuộc sống, Luật Đầu tư giao Chính phủ căn cứ vào quy hoạch, định hướng phát triển KT-XH trong từng thời kỳ và cam kết trong các điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là thành viên, ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư, danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện, danh mục lĩnh vực cấm đầu tư, danh mục địa bàn ưu đãi đầu tư. Để đảm bảo các quy định về ưu đãi đầu tư được áp dụngthống nhất trong cả nước, tránh việc hạn chế hoặc quy định các điều kiện, lĩnh vực ưu đãi tuỳ tiện ở mỗi ngành, mỗi địa phương, Luật quy định các Bộ, Cơ quan ngang Bộ, Uỷ ban ND Tỉnh, Thành phố trực thuộc TW không được ban hành quy định lĩnh vực cấm đầu tư, lĩnh vực đầu tư có điều kiện và các ưu đãi đầu tư vượt khung quy định của pháp luật. 5.2. Quy định về địa bàn lĩnh vực đầu tư theo pháp luật CHDCND Lào Theo Luật Khuyến khích và đầu tư nước ngoài thì nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư hoạt động sản xuất, kinh doanh trong ngành nghề kinh tế đặc biệt như nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp chế biến năng lượng, khai thác mỏ, thủ công, giao thông vận tải, xây dựng, du lịch, thương mại, dịch vụ… trừ hoạt động kinh doanh ảnh hưởng tới an ninh quốc gia hoặc gây nguy hại tới môi trường, sức khoẻ, văn hóa hoặc vi phạm pháp luật của CHDCND Lào (Điều 2). Các nhà đầu tư trong nước cũng tham gia đầu tư vào mọi lĩnh vực kinh tế theo quy định của Luật Doanh nghiệp, trừ các trường hợp gây ảnh hưởng tới sự phát triển, bền vững của quốc gia hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường trong thời gian hiện tại cũng như trong tương lai (Điều 3). Nhà nước quy định khu vực khuyến khích đầu tư dựa vào vị trí, địa lý, môi trường kinh tế xã hội bằng cách chia làm 3 khu vực như sau: - Khu vực 1: Miền núi, đồng bằng có cơ sở kinh tế thuận lợi cho việc đầu tư. - Khu vực 2: Miền núi, đồng bằng có cơ sở kinh tế có thể đáp ứng 1 phần đầu tư. - Khu vực 3: Miền núi, đồng bằng có cơ sở kinh tế đáp ứng tốt cho việc đầu tư. Việc phân chia cụ thể khu vực khuyến khích đầu tư là do Nhà nước quy định (Điều 10). 6. Quy định về bảo đảm đầu tư 6.1. Quy định về bảo đảm đầu tư theo pháp luật Việt Nam Mục đích cơ bản của một cơ chế bảo đảm đầu tư là nhằm tạo lòng tin cho các nhà đầu tư, để nhà đầu tư yên tâm khi bỏ vốn đầu tư, Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam đã quy định rõ các nguyên tắc và nội dung bảo đảm của Nhà nước đối với vốn, tài sản của nhà đầu tư, cũng như hoạt động đầu tư, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Luật khẳng định sự tuân thủ nguyên tắc của Hiến pháp là vốn đầu tư và tài sản hợp pháp của nhà đầu tư không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản của nhà đầu tư thì nhà đầu tư được thanh toán hoặc bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm công bố việc trưng mua, trưng dụng. Việc thanh toán hoặc bồi thường phải bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, việc thanh toán hoặc bồi thường tài sản được thực hiện bằng đồng tiền tự do chuyển đổi và quyền được chuyển ra nước ngoài ( Điều 6). Đáp ứng yêu cầu của quá trình đàm phán gia nhập WTO và phù hợp với các quy định trong điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là thành viên, Luật quy định cam kết của Nhà nước Việt Nam về việc mở cửa thị trường đầu tư phù hợp với lộ trình đã cam kết. Đồng thời, Nhà nước Việt Nam không bắt buộc nhà đầu tư phải thực hiện các yêu cầu ưu tiên mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ từ nhà sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ nhất định trong nước; xuất khẩu hàng hóa hoặc xuất khẩu dịch vụ đạt một tỷ lệ nhất định; hạn chế số lượng, giá trị, loại hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu hoặc sản xuất, cung ứng trong nước, nhập khẩu hàng hóa với số lượng giá trị tương ứng với số lượng và giá trị hàng hóa xuất khẩu hoặc phải tự cân đối ngoại tệ từ nguồn vốn xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu; đạt được tỷ lệ nội địa hóa nhất định trong hàng hóa sản xuất; đạt được một mức độ nhất định hoặc giá trị nhất định trong hoạt động nghiên cứu và phát triển ở trong nước; cung cấp hàng hóa, dịch vụ tại một địa điểm cụ thể ở trong nước hoặc nước ngoài; đặt trụ sở chính tại một địa điểm cụ thể (điều 8). Đây là điểm rất quan trọng mà các nước đối tác đàm phán WTO rất quan tâm. Quy định thể hiện sự nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong việc tạo ra sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, xóa bỏ dần những bảo hộ theo yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Trước đây, khi đầu tư vào Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài nói riêng và các tổ chức, cá nhân nước ngoài nói chung thường bị áp dụng giá, phí khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ trong nước cao hơn so với cá nhân, tổ chức là người Việt Nam. Điều này đã tạo sự bất bình đẳng, phân biệt đối xử giữa tổ chức, cá nhân nước ngoài và tổ chức, cá nhân Việt Nam, gây ra sự cản trở đối với hoạt động đầu tư nước ngoài và Việt Nam, vì vậy, Luật Đầu tư đã có quy định về vấn đề này. Cụ thể là: trong quá trình hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Nhà đầu tư được áp dụng thống nhất giá, phí, lệ phí đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước kiểm soát (Điều 10). Một nội dung quan trọng được Luật Đầu tư quy định là vấn đề bảo đảm đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật, chính sách ( Điều 11). Theo đó: trường hợp pháp luật , chính sách mới được ban hành có các quyền lợi và ưu đãi cao hơn so với quyền lợi, ưu đãi mà nhà đầu tư đã được hưởng trước đó thì nhà đầu tư được hưởng các quyền lợi, ưu đãi theo quy định mới kể từ ngày pháp luật, chính sách mới đó có hiệu lực. Trường hợp pháp luật, chính sách mới ban hành làm ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích hợp pháp mà nhà đầu tư đã được hưởng trước khi quy định của pháp luật, chính sách đó có hiệu lực thì nhà đầu tư được bảo đảm hưởng các ưu đã như quy định tại Giấy chứng nhận đầu tư hoặc được giải quyết bằng một, một số hoặc các biện pháp như tiếp tục hưởng các quyền lợi, ưu đãi; được trừ thiệt hại vào thu nhập chịu thuế; được điều chỉnh mục tiêu hoạt động của dự án; được xem xét bồi thường trong một số trường hợp cần thiết. Căn cứ vào quy định của pháp luật và cam kết trong điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Chính phủ quy định cụ thể về việc bảo đảm lợi ích của nhà đầu tư do việc thay đổi pháp luật, chính sách ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của nhà đầu tư. 6.2. Quy định về bảo đảm đầu tư theo pháp luật CHDCND Lào Theo nguyên tắc đảm bảo việc quản lý đầu tư trong nước và nước ngoài thì tài sản của nhà đầu tư sẽ được quản lý bởi pháp luật, bao gồm nhiều lĩnh vực như Luật lao động, Luật bảo hiểm, Luật bảo hiểm trong hợp đồng, Luật cam kết ngoài hợp đồng… với mục tiêu tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi khuyến khích đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài. Cụ thể là theo điều 3 Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài thì: tài sản và vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài tại CHDCND Lào sẽ được bảo vệ bằng pháp luật của CHDCND Lào, không bị Nhà nước trưng thu trưng dụng, quốc hữu hóa. Trường hợp cần thiết sử dụng vào lợi ích chung, nhà đầu tư nước ngoài sẽ được Nhà nước Lào bồi thường nhanh chóng và hợp lý. Cũng theo Điều 5 của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước tài sản, vốn của các nhà đầu tư bảo đảm bằng các quy định cụ thể của pháp luật. Nhà nước không tịch thu vốn và tài sản đầu tư của các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong những trường hợp cần thiết phải sử dụng những tài sản, vốn đầu tư đó thì các nhà đầu tư sẽ được bồi thường và thanh toán theo quy định của pháp luật CHDCND Lào. 7. Quy định về ưu đãi đầu tư 7.1. Quy định về ưu đãi đầu tư theo pháp luật Việt Nam Ưu đãi, hỗ trợ đầu tư là một trong những nội dung cơ bản của các đạo luật về đầu tư, là công cụ, chính sách nhằm thu hút đầu tư hoặc định hướng đầu tư theo những mục tiêu phát triển nhất định. Ưu đãi đầu tư không chỉ có ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư mà ưu đãi đầu tư có thể tác động đến cơ cấu đầu tư. Trong thực tế có rất nhiều ưu đãi đầu tư dành cho các nhà đầu tư, trong đó phổ biến nhất là ưu đãi liên quan đến thuế doanh nghiệp, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và được thể hiện thông qua hình thức thuế xuất ưu đãi, miễn thuế. Đồng thời, có một số ưu đãi khác xung quanh vấn đề lao động, việc làm, ưu đãi về đào tạo, ưu đãi theo vùng…Thực tế cho thấy, sự đơn giản, minh bạch của hệ thống chính sách ưu đãi có ý nghĩa thực sự quan trọng; ngược lại, một hệ thống chính sách ưu đãi không rõ ràng, phức tạp sẽ làm giảm mục đích của hoạt động ưu đãi, hỗ trợ đầu tư. Xây dựng một hệ thống chính sách ưu đãi đơn giản, minh bạch và áp dụng thống nhất cho cả nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, đồng thời bảo đảm sự phù hợp trong các quy định của pháp luật hiện hành không tạo ra sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật là mục tiêu mà Luật Đầu tư hướng tới. Theo đó, Luật Đầu tư quy định các ưu đãi liên quan đến thuế ( Thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất khẩu, nhập khẩu), chuyển lỗ, khấu hao tài sản cố định, sử dụng đất ( các điều từ Điều 33 đến Điều 36); giao Chính phủ quy định ưu đãi cho các nhà đầu tư đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế (Điều 37). Trong đó, ưu đãi về thuế, về sử dụng đất được dẫn chiếu đến các luật chuyên ngành. Cụ thể: thuế suất ưu đãi, thời hạn hưởng thuế suất ưu đãi, thời gian, miễn giảm thuế theo quy định của pháp luật về thuế; nhà đầu tư được miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, vật tư, phương tiện vận tải và hàng hóa khác để thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam theo quy định của luật thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu; thời hạn sử dụng đất, miễn giảm tiền thuê đất, sử dụng đất, thuế sử dụng đất được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai…Đồng thời, Luật Đầu tư quy định về hỗ trợ đầu tư trong chuyển giao công nghệ và đào tạo… Bảo đảm tự chủ trong hoạt động của nhà đầu tư và nhằm thực hiện cải cách hành chính trong việc cấp ưu đãi, bảo đảm tính đồng bộ giữa các quy định của Luật Đầu tư với các luật khác có liên quan, tránh tình trạng cấp ưu đãi không sáp với thực tế triển khai dự án đầu tư, điều 38 Luật Đầu tư quy định về thủ tục thực hiện ưu đãi đầu tư như sau: - Đối với dự án đầu tư trong nước thuộc diện không phải đăng ký đầu tư và dự án thuộc diện đăng ký đầu tư, nhà đầu tư căn cứ vào các ưu đãi và điều kiện ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật để tự xác định ưu đãi và làm thủ tục hưởng ưu đãi đầu tư tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trường hợp nhà đầu tư có yêu cầu xác nhận ưu đãi đầu tư thì phải làm thủ tục đăng ký đầu tư để cơ quan Nhà nước quản lý đầu tư ghi ưu đãi đầu tư vào giấy chứng nhận đầu tư. - Đối với dự án đầu tư trong nước thuộc diện thẩm tra đầu tư đáp ứng điều kiện được hưởng ưu đãi, cơ quan Nhà nước quản lý đầu tư ghi ưu đãi đầu tư vào giấy chứng nhận đầu tư. - Đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài đáp ứng điều kiện được hưởng ưu đãi, cơ quan Nhà nước quản lý đầu tư ghi ưu đãi đầu tư vào giấy chứng nhận đầu tư. 7.2. Quy định về ưu đãi đầu tư theo pháp luật CHDCND Lào Theo Điều 10 Luật đàu tư nước ngoài nhà đầu tư nước ngoài được phép thuê đất và chuyển giao các lợi ích phát sinh từ hợp đồng thuê bất động sản, được phép sở hữu các lợi ích từ đất và động sản khác và chuyển giao các lợi ích phát sinh từ mối quan hệ sở hữu các tài sản đó. Nhà đầu tư nước ngoài được tự do vận hành doanh nghiệp của mình trong khuôn khổ pháp luật CHDCND Lào. Chính phủ không can thiệp vào việc quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài. Theo Điều 12, Chính phủ CHDCND Lào tạo thuận lơi cho các nhà đầu tư nước ngoài và nhân sự của họ, gia đình của nhà đầu tư nước ngoài được vào lãnh thổ Lào, đi lại, lưu trú trên lãnh thổ Lào và rời khỏi lãnh thổ Lào. Tất cả những người này phải tuân thủ pháp luật CHDCND Lào. Theo Điều 17, đầu tư nước ngoài phải trả thuế nhập khẩu đối với trang thiết bị, phương tiện sản xuất, phụ tùng và các tư liệu khác được sử dụng trong quá trình vận hành dự án đầu tư hoặc trong quá trình sản xuất, với mức thuế thống nhất tối đa là 1%. Nguyên liệu và các vật liệu trung gian được nhập khẩu với mục đích chế biến để tái xuất khẩu được miễn thuế nhập khẩu. Tất cả các sản phẩm thành phẩm xuất khẩu đều được miễn thuế xuất khẩu. Nguyên liệu và vật liệu trung gian nhập khẩu vì mục đích thực hiện thay thế nhập khẩu được giảm thuế phù hợp với chính sách khuyến khích đầu tư của Chính phủ. Theo Điều 18, trong những trường hợp ngoại lệ, nếu có quyết định đặc biệt của Chính phủ CHDCND Lào, nhà đầu tư nước ngoài có thể được hưởng ưu đãi và lợi ích đặc biệt như được giảm hoặc miễn thuế lợi tức quy định tại điều 16, giảm hoặc miễn thuế nhập khẩu quy định tại điều 17 nếu nhà đầu tư đầu tư với quy mô lớn và có ảnh hưởng rất tích cực đối với sự phát triển KTXH của CHDCND Lào. 8. Các quy định khác (Về khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao) Trên thế giới, ở các nước phát triển và đặc biệt ở các nước đang phát triển, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghiệp cao, khu kinh tế (ở phần này gọi chung là khu công nghiệp) là mô hình phát triển kinh tế quan trọng. Khi các nước bắt đầu quan tâm đến thương mại quốc tế và có sử dụng hàng rào thuế quan khắt khe đối với hàng hóa được nhập khẩu vào lãnh thổ của mình thì cũng là thời điểm ra đời của các khu công nghiệp (với đặc điểm ban là một khu vực kinh tế tự do có nhiều ưu đãi). Hiện nay, các nước có thể không đồng nhất với nhau khi quan niệm về khu công nghiệp nhưng họ đều cho rằng đây là khu vực có hàng rào giới hạn riêng biệt với các vùng lãnh thổ còn lại của nước sở tại, có môi trường ưu đãi đặc biệt dành cho các nhà đầu tư, nhằm thực hiện mục tiêu của nước chủ nhà là thu hút vốn, kỹ thuật hiện đại, thúc đẩy nhanh quá trình hình thành và phát triển cơ sở hạ tầng công nghiệp, phát triển công nghiệp, đổi mới cơ cấu kinh tế và thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia. 8.1. Các quy định khác của Luật Đầu tư theo pháp luật Việt Nam Hoạt động đầu tư vào các khu công nghiệp phải tuân thủ quy định của pháp luật đầu tư nói chung. Tuy nhiên Nhà nước Việt Nam luôn coi các khu công nghiệp là những địa bàn cần khuyến khích đầu tư, do vậy đã dành cho nó những quy chế pháp lý đặc thù nhất định. Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân mà theo quy định của pháp luật Việt Nam được tiến hành các hoạt động đầu tư với các hình thức : đầu tư hình thành tổ chức kinh tế; đầu tư theo dự án, đầu tư mua cổ phần, góp vốn trực tiếp vào các tổ chức kinh tế; đầu tư sáp nhập, mua lại doanh nghiệp…với mục đích thu hút đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, Nhà nước khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ tại các khu công nghiệp. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo Luật Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo luật hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (trước khi Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp 2005 có hiệu lực), hộ kinh doanh, cá nhân, tổ chức và cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở Việt Nam và các tổ chức khác theo quy định của pháp luật Việt Nam…đều có thể tìm kiếm cơ hội đầu tư vào các khu công nghiệp. Pháp luật Việt Nam cho phép nhà đầu tư được phép đầu tư kinh doanh trong mọi lĩnh vực, trừ một số lĩnh vực cấm, hạn chế đầu tư được quy định trong danh mục các ngành nghề bị cấm, danh mục các lĩnh vực địa bàn bị cấm đầu tư và các danh mục điều kiện đầu tư kèm theo. Bên cạnh đó pháp luật cũng quy định những địa bàn, lĩnh vực khuyến khích đầu tư và đặc biệt là khuyến khích đầu tư. Các ưu đãi đầu tư mà các nhà đầu tư được hưởng đó là những quyền , lợi ích vật chất, phi vật chất khi tiến hành đầu tư như ưu đãi về thủ tục hành chính: pháp luật quy định thủ tục hành chính tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao được thực hiện theo cơ chế “một cửa, tại chỗ”; hoạt động đầu tư tại tỉnh thì các ban quản lý các khu công nghiệp cấp tỉnh là đầu mối tiếp nhận hồ sơ liên quan đến các khu công nghiệp tại tỉnh mình; ưu đãi về tài chính : Nhà nước miễn hoặc giảm nghĩa vụ tài chính cho các nhà đầu tư như thuế, được hỗ trợ các nguồn vốn tín dụng khi triển khai dự án; ưu đãi về sử dụng đất… Thủ tục đầu tư vào các khu công nghiệp ở Việt Nam, Nhà nước tạo ra những thuận lợi về thủ tục hành chính thông qua các quy định đơn giản, theo nguyên tắc “ một cửa, tại chỗ” để triển khai và thực hiện dự án, nhà đầu tư chỉ làm các thủ tục tại ban quản lý các khu công nghiệp cấp tỉnh. Đây là cơ quan được phân cấp, uỷ quyền quản lý hoạt động đầu tư tại các khu công nghiệp, từ khâu thẩm định, cấp, thu hồi giấy chứng nhận đầu tư…đến quá trình thực hiện quyền, nghĩa vụ của nhà đầu tư. Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, việc phát triển công nghiệp thông qua các khu công nghiệp là cần thiết để xây dựng nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững của nền KT-XH. Các khu công nghiệp có tác động rất lớn đến hoạt động đầu tư và do đó có vai trò quan trọng đối với phát triển nền kinh tế. Khu công nghiệp đóng vai trò khởi động quá trình phát triển công nghiệp tại một số địa điểm chọn lọc, tạo điều kiện phát triển công nghiệp rộng rãi trên phạm vi cả nước, góp phần quan trọng thực hiện các mục tiêu KT-XH được Đảng và Nhà nước Việt Nam đặt ra trong từng thời kỳ. Vai trò đó được biểu hiện cụ thể : Khu công nghiệp là công cụ quy hoạch sản xuất công nghiệp, góp phần tạo đà tăng trưởng công nghiệp, từng bước thực hiện chủ trương phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh hình thành và phát triển các cơ sở công nghiệp một cách tự phát. Khu công nghiệp là phương tiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, thực hiện mục tiêu tăng nguồn hàng xuất khẩu, đẩy mạnh dịch vụ thu ngoại tệ, thúc đẩy các cơ sở sản xuất dịch vụ cùng phát triển, phân bổ lực lượng sản xuất. Khu công nghiệp được thành lập tạo môi trường thuận lợi để mở rộng thu hút đầu tư, bao gồm cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, góp phần thực hiện chính sách kinh tế mở và chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Trong điều kiện cơ sở hạ tầng trên phạm vi toàn quốc còn nhiều yếu kém thì việc hình thành những “khu vực riêng” với những điều kiện ưu việt về thủ tục thuê đất, mặt bằng hoạt động, chính sách thuế khóa …sẽ tạo nên sức hấp dẫn với các nhà đầu tư. Thành lập khu công nghiệp là giải pháp khắc phục yếu kém về kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Trong điều kiện Nhà nước chưa có khả năng triển khai trên quy mô lớn về việc xây dựng kết cấu hạ tầng thì trên một địa bàn giới hạn của khu công nghiệp, Nhà nước có thể tập trung những điều kiện cần thiết để nâng cấp cơ sở hạ tầng đạt tới trình độ quốc tế mà các doanh nghiệp thường đòi hỏi, mặt khác cho phép thực hiện mục tiêu tiết kiệm đất, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, phát triển hạ tầng, thực hiện tốt việc kiểm soát và bảo vệ môi trường, hạn chế ô nhiễm do chất thải công nghiệp gây ra. Khu công nghiệp là nơi tiếp nhận và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học tiên tiến trên thế giới, tiếp thu những kinh nghiệm quản lý và khai thác tiềm năng vật chất vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Tạo ra những điều kiện thuận lợi để đào tạo và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực có trình độ cao. Các khu công nghiệp có vai trò quan trọng trong việc tạo thêm việc làm, đào tạo, nâng cao trình độ quản lý cho cán bộ, nâng cao tay nghề cho công nhân… Những vai trò to lớn trên đây đã khẳng định việc phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế là giải pháp đúng đắn để khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nước và ngoài nước, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay. Luật Đầu tư của Việt Nam còn đề cập đến các hình thức hợp đồng như BOT, BTO, và BT. Những hợp đồng này có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng (giao thông, sản xuất và kinh doanh điện, cấp thoát nước, xử lý chất thải…). Thay vì phải đầu tư vốn xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng quan trọng, Nhà nước áp dụng những chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư để có được hệ thống cơ sở hạ tầng thông qua việc nhận chuyển giao quyền sở hữu các công trình từ nhà đầu tư bằng những phương thức chuyển giao khác nhau. Về mặt pháp lý, sự khác nhau của yếu giữa các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT thể hiện ở thời điểm chuyển giao quyền sở hữu công trình gắn với quyền quản lý, vận hành, khai thác công trình của nhà đầu tư cho Nhà nước và phương thức thanh toán, đền bù của Nhà nước cho nhà đầu tư. Trong hình thức BOT, sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư quản lý và kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý, hết thời hạn kinh doanh, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình cho Nhà nước. Với hình thức BTO, sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư chuyển giao quyền sở hữu công trình cho Nhà nước; nhà đầu tư được Nhà nước giành cho quyền kinh doanh công trình trong thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. ở hình thức BT, sau khi xây dựng công trình, nhà đầu tư chuyển giao quyền sở hữu công trình cho Nhà nước; nhà đầu tư được Nhà nước tạo điều kiện thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. 8.2. Các quy định khác của Luật Đầu tư theo pháp luật CHDCND Lào Những quy định cơ bản về hoạt động đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế và các hợp đồng BOT ,BTO, BT dường như chưa đề cập đến nhiều trong pháp luật đầu tư của CHDCND Lào CHƯƠNG III KINH NGHIỆM ĐẠT ĐƯỢC VÀ MỘT SỐ YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ CỦA CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 1. Kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật đầu tư của Việt Nam Pháp luật đầu tư của Việt Nam trong thời gian qua đã có những thay đổi linh hoạt nhằm hoàn thiện môi trường đầu tư và phù hợp với quá trình hội nhập. Điều này được thể hiện ở những vấn đề sau. 1.1. Thống nhất điều chỉnh các hoạt động đầu tư trong nước và nước ngoài Trong xu thế hội nhập để phát triển, các quốc gia thường cố gắng tạo ra một nền tảng pháp luật có tính tương đồng. Chính vì vậy việc sửa đổi, bổ xung vào hệ thống pháp luật đầu của Việt Nam những quy định mới phù hợp với pháp luật của một số nước trong khu vực, đặc biệt là trong các khối hợp tác thương mại là hết sức cần thiết. Đối với pháp luật đầu tư của Việt Nam, việc chia các hoạt động đầu tư thành đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài để điều chỉnh đã có tính lịch sử. Trong khi đó, ở một số quốc gia láng giềng, việc dùng một luật để điều chỉnh mọi hoạt động đầu tư, từ lâu đã được coi là một trong những biện pháp khuyến khích đầu tư rất có hiệu quả. Theo đó, các nhà đầu tư nước ngoài, một khi được coi như các nhà đầu tư trong nước với đầy đủ những quyền, nghĩa vụ, thậm chí với các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư như nhau, sẽ yên tâm hơn khi tiến hành các dự án đầu tư. Trước khi có Luật Đầu tư năm 2005, ở Việt Nam, các hoạt động đầu tư nước ngoài chủ yếu được điều chỉnh bằng Luật Đầu tư nước ngoài ở Việt Nam (Luật này được ban hành lần đầu tiên vào năm 1987); trong khi các hoạt động đầu tư trong nước được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật Doanh nghiệp, Luật hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước… Sự phân chia như vậy có một ưu điểm chủ yếu là Nhà nước có thể chủ động điều chỉnh các dòng vốn đầu tư trong và ngoài nước một cách tách biệt. Tuy nhiên, với cách phân chia này, cảm giác an toàn của các nhà đầu tư nước ngoài đối với nước tiếp nhận đầu tư là không có. Hơn nữa, cách điều chỉnh như vậy tạo nên một sự phân biệt đối xử không cần thiết giữa các nhà đầu tư trên cùng lãnh thổ, ảnh hưởng đến các quyền lợi cần được bảo vệ của các nhà đầu tư mà điển hình trong đó là quyền được hưởng sự đối xử công bằng từ phía Nhà nước tiếp nhận đầu tư và quyền tự do kinh doanh . Hội nhập được nhìn nhận trước hết trên khía cạnh thương mại, theo đó, các nước theo đuổi xu hướng này sẽ phải chấp nhận đối mặt với quá trình tự do hóa thương mại, tháo bỏ dần những rào cản thuế quan và phi thuế quan nhằm tạo ra một môi trường thương mại mà trong đó, đường biên giới quốc gia hầu như không có mấy ý nghĩa trong giao lưu thương mại; quốc tịch của các nhà đầu tư không còn nhiều ý nghĩa. Nhằm đáp ứng những đòi hỏi khách quan trên đây, Luật Đầu tư 2005 là một trong những ví dụ minh chứng rõ nét nhất. Luật Đầu tư 2005 ra đời thay thế cho Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước với ý nghĩa đặc biệt quan trọng là kể từ thời điểm Luật này có hiệu lực, Việt Nam đã thống nhất điều chỉnh các quan hệ đầu tư. Về cơ bản, các quyền, nghĩa vụ chủ yếu của các nhà đầu tư đều giống nhau một khi họ tiến hành các hoạt động đầu tư ở Việt Nam. 1.2. Xây dựng một hệ thống các quy phạm pháp luật về đầu tư hoàn thiện Thứ nhất, về hình thức đầu tư, pháp luật về đầu tư ngày càng mở rộng các hình thức. Nếu thời điểm năm 1996, Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam được coi là khá hoàn thiện khi quy định ba hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài thì đến Luật Đầu tư 2005 đã thực sự tạo nên một bước đột phá trong quy định về hình thức đầu tư, bởi hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ đơn giản có ba hình thức như trên mà bao gồm hầu hết các hình thức tồn tại của hoạt động đầu tư nói chung ở Việt Nam. Trong mối quan hệ thống nhất với Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Đầu tư cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn một cách rộng rãi trong các hình thức doanh nghiệp, hợp đồng có trong nền kinh tế Việt Nam để làm hình thức hoạt động cho dự án của riêng mình. Kể từ thời điểm 01/07/2006- thời điểm Luật Đầu tư 2005 và Luật Doanh nghiệp 2005 có hiệu lực – các nhà đầu tư nước ngoài, khi tiến hành đầu tư trực tiếp vào Việt Nam có quyền được lựa chọn một trong các hình thức sau để tiến hành dự án đầu tư của mình: - Các hình thức hợp đồng như: hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng xây dựng, kinh doanh chuyển giao. - Các hình thức doanh nghiệp bao gồm: doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, các công ty, doanh nghiệp tư nhân. Thứ hai, về đảm bảo đầu tư và khuyến khích đầu tư, pháp luật Việt Nam rất chú trọng tới nội dung này. Theo quy định của pháp luật Việt Nam các biện pháp bảo đảm đầu tư bao gồm: bảo đảm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của nhà đầu tư; bảo đảm đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư; bảo đảm cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư; bảo đảm việc chuyển lợi nhuận và thu nhập hợp pháp khác của nhà đầu tư ra nước ngoài; bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư khi có những thay đổi bất thường của chính sách, pháp luật. Bên cạnh các biện pháp bảo đảm đầu tư kể trên, còn có một số biện pháp bảo đảm đầu tư khác do pháp luật quy định. Ngoài ra, với tư cách là thành viên chính thức của diễn đàn hợp tác kinh tế mở APEC, Việt Nam cũng cam kết thực hiện các quy tắc đối sử quốc gia với các thành viên khác trong diễn đàn liên quan đến vấn đề đảm bảo và khuyến khích đầu tư. Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam lấy tiêu chí lĩnh vực đầu tư và địa bàn đầu tư làm những tiêu chí cơ bản để áp dụng các biện pháp khuyến khích đầu tư. Trên cơ sở xác định lĩnh vực và địa bàn đầu tư của từng dự án mà xác định các ưu đãi cũng như hỗ trợ đầu tư cụ thể. Các biện pháp khuyến khích đầu tư chủ yếu bao gồm: các biện pháp khuyến khích về thuế ( các trường hợp miễn, giảm thuế hoặc áp dụng một cách tính thuế hợp lý hơn); các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ về thủ tục để tiến hành một dự án đầu tư (thời gian, chi phí cho việc đăng ký đầu tư hoặc thành lập các doanh nghiệp); các biện pháp hỗ trợ phát triển trong quá trình đầu tư (hỗ trợ về đào tạo; khuyến khích phát triển); các biện pháp khuyến khích liên quan đến các chính sách sử dụng đất, mặt nước, mặt biển và các nguồn tài nguyên khác (miễn giảm tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển, thuế tài nguyên; ưu đãi liên quan đến thời gian thuê); một số biện pháp khuyến khích khác như việc mở rộng ngành nghề đầu tư hoặc chính sách cởi mở trong vấn đề sử dụng lao động v.v… Thứ ba, việc nhất thể hóa pháp luật đầu tư ở Việt Nam không chỉ dừng lại ở chỗ không phân biệt giữa các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài mà còn không phân biệt đầu tư trực tiếp hay gián tiếp, có yếu tố Nhà nước hay không, đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam hay ngoài lãnh thổ Việt Nam đều được thống nhất điều chỉnh bởi Luật Đầu tư 2005. Luật này đã ghi nhận và điều chỉnh một số hoạt động đầu tư trước đây vốn vẫn được điều chỉnh bằng các văn bản pháp luật riêng. Như vậy, với một hệ thống các quy định ngày càng hoàn thiện, pháp luật về đầu tư của Việt Nam đang tiến gần hơn tới mức tiêu chuẩn của sự phù hợp với xu hướng hội nhập. 2. Một số yêu cầu đắt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật Đầu tư của Là trong thời gian tới CHDCND Lào có hệ thống pháp luật đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (cùng với một số nước Việt Nam, Trung Quốc, CuBa). Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường là một quá trình phức tạp lâu dài mà trong đó pháp luật và các luật gia đóng vai trò quan trọng. Pháp luật sẽ là công cụ đắc lực tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hoạt động của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Một khó khăn lớn đối với hệ thống pháp luật của các nước XHCN thể hiện ở chỗ các hệ thống pháp luật này hoàn toàn thiếu các quy định điều chỉnh các lĩnh vực của nền kinh tế thị trường như luật công ty, luật cạnh tranh, luật phá sản, luật về thị trường tài chính…Một mặt cần ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh các lĩnh vực này, mặt khác phải loại bỏ các quy định pháp luật tạo thành rào cản trực tiếp đối với nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, phải củng cố một số lĩnh vực pháp luật đã tồn tại nhưng còn yếu kém chẳng hạn như luật về sở hữu trí tuệ, đầu tư… CHDCND Lào là một trong những nước kém phát triển nhất trên thế giới, nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp, công nghiệp trong nước ở trình độ thấp, kỹ thuật lạc hậu, nguyên liệu đáp ứng cho công nghiệp phần lớn phụ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy, mà mục tiêu quan trọng của Chính phủ Lào là việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài. Việc huy động vốn đầu tư không chỉ đem lại lợi ích cho nền kinh tế mà nó còn góp phần tăng nguồn thu ngân sách, tạo việc làm cho người lao động, chính sách dành cho người nghèo được quan tâm nhiều hơn, vấn đề trật tự an toàn xã hôi được đảm bảo hơn. Với ý nghĩa đó huy động vốn trong đó có huy động vốn đầu tư nước ngoài và huy động vốn trong nước là một trong những chính sách phát triển chiến lược của mọi quốc gia, nhất là đối với CHDCND Lào. CHDCND Lào đang trong quá trình chuẩn bị mọi điều kiện để có thể gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2010. Vì vậy, cũng như Việt Nam, trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, CHDCND Lào đã ký kết nhiều hiệp định song phương và đa phương liên quan đến hoạt động đầu tư trong đó là thực hiện về cơ bản cam kết quốc tế như Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, tích cực đàm phán gia nhập WTO…. Do đó, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật phục vụ cho hội nhập quốc tế trong đó có Luật Đầu tư là yêu cầu cấp thiết. Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư của Lào (qua tham khảo kinh nghiệm của Việt Nam) chủ yếu tập trung vào một số vấn đề sau: 1- CHDCND Lào cần phải có một Luật Đầu tư chung thống nhất để đảm bảo hệ thống pháp luật về đầu tư phù hợp với cam kết quốc tế, phản ánh thông điệp quan trọng về chính sách đổi mới và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của CHDCND Lào. Việc Lào có rất nhiều lợi thế khi gia nhập WTO là điều không phải bàn cãi, nhưng để là thành viên của tổ chức này Lào cần có được sự ủng hộ hơn nữa từ nhiều phía. Uỷ ban Châu Âu (EU) cũng hỗ trợ Lào trong việc “ trở thành thành viên của WTO trong năm 2010 và đồng thời EU sẽ tăng nguồn ngân sách cho Lào 10% của kế hoạch phát triển đất nước giai đoạn 2007-2013” (trích phát biểu của ông Ignacio Garcia Bercero- Giám đốc chịu trách nhiệm việc phát triển và quản lý mối quan hệ thương mại của Uỷ ban Châu Âu và các nước ASEAN tại hội thảo ngày 24/07/2006, thủ đô Viêng Chăn). Và khi Lào đã trở thành thành viên chính thức của WTO, Lào sẽ được hưởng những lợi ích trực tiếp và gián tiếp từ mối quan hệ thương mại giữa Lào và EU. Qua đó có thể thấy, để khuyến khích và mở rộng việc đầu tư nước ngoài đến đầu tư tại Lào, để tiếp tục tạo môi trường thuận lợi trong cạnh tranh đầu tư và tạo thuận lợi cho việc hoạt động kinh doanh tại CHDCND Lào 2- Cần phải tiếp tục sửa đổi các quy định và các bước khác của việc cấp giấy phép đầu tư, việc đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế, đặc biệt là việc cấp đăng ký cấp phép các vấn đề liên quan để làm cho các bước tiến hành ngắn, thuận lợi, nhanh chóng, tổ chức có hiệu quả việc dịch vụ qua “một cửa” CHDCND Lào cần phải nhanh chóng ban hành Luật Đầu tư chung để tranh thủ thời cơ thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế. Việc ban hành được tiến hành cụ thể như sau: - Trong quá trình soạn thảo, ban soạn thảo luật phải tiến hành tổng kết tình hình hoạt động đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. - Tổ chức trao đổi, lấy ý kiến các Bộ, Ban, ngành, địa phương; lấy ý kiến của các chuyên gia các nhà khoa học và ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. - Tổng hợp các cam kết quốc tế về đầu tư trong các điều ước quốc tế mà CHDCND Lào đã ký kết hoặc tham gia; tham khảo pháp luật và chính sách đầu tư của các nước đặc biệt là các nước trong khu vực - Tổng kết kết quả nghiên cứu của các đề án có liên quan đến hoạt động đầu tư như quản lý đầu tư vốn Nhà nước, giám sáp đánh giá đầu tư …Các nghiên cứu này góp phần rất quan trọng trong quá trình nghiên cứu soạn thảo dự án luật. Trên cơ sở đó ban soạn thảo tiến hành soạn thảo và chỉnh sửa nhiều lần dự án Luật Đầu tư. Tuy nhiện việc soạn thảo, nghiên cứu, xây dựng Luật Đầu tư chung phải đảm bảo: Nội dung của luật phải thể chế hóa sâu sắc những chủ trương đổi mới của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Đó là tạo bước đột phá về cải cách kinh tế, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng XHCN. Tiếp tục duy trì, mở rộng và phát triển quyền tự do kinh doanh; các nhà đầu tư và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền đầu tư và kinh doanh trong tất cả các ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Coi nhà đầu tư và doanh nghiệp là đối tác là đối tượng phục vụ của cơ quan Nhà nước, thay đổi cơ bản nội dung và phương thức quản lý Nhà nước, chuyển trọng tâm quản lý Nhà nước sang phục vụ là chủ yếu, tạo bước đột phá trong niềm tin và sự an tâm của nhà đầu tư trong việc bỏ vốn đầu tư và kinh doanh. Việc soạn thảo phải thu hút được sự tham gia đóng góp rộng rãi của các bên có liên quan, bao gồm cơ quan Nhà nước có liên quan ở TW và địa phương, các hiệp hội các tổ chức khác của cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước, các nhà nghiên cứu tư vấn có quan tâm , các phương tiện thông tin đại chúng … Nội dung của luật phải phù hợp với nguyên tắc và yêu cầu chủ động hội nhập, nhất là các nguyên tắc cơ bản của WTO và các hiệp định khu vực, song phương về thương mại và đầu tư mà CHDCND Lào đã ký kết hoặc tham gia, đồng thời đón trước xu thế hội nhập. 3- Hoàn chỉnh quy định về hình thức đầu tư, bổ sung các hình thức đầu tư theo hợp đồng (BCC, BTO, BOT, BT). Ban hành các quy chế hoạt động đầu tư vào Khu chế xuất, khu công nghiệp, khu kinh tế… 4- Hoàn chỉnh các quy định về đảm bảo và ưu đãi đầu tư nhằm thu hút đầu tư. Ví dụ: về đảm bảo (không chỉ đảm bảo quyền sở hữu mà còn phải đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư khi có sự thay đổi về chính sách, pháp luật, đảm bảo nguồn ngoại tệ…); về ưu đãi (không chỉ là thuế mà còn ưu đãi về sử dụng đất, về thủ tục hành chính…) KẾT LUẬN Trên lộ trình cải cách tư pháp của Việt Nam và Lào, một trong những vấn đề quan trọng là việc xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật của mỗi nước. Thời gian gần đây, Việt Nam đã và đang có những bước đột phá trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là kinh tế, điều đó có những cố gắng không nhỏ của việc kiện toàn hệ thống pháp luật để phù hợp với những cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết. Việc có sự tương đồng về nhiều mặt giữa Việt Nam và Lào, tạo điều kiện cho CHDCND Lào có cái nhìn toàn diện, cũng như những bài học kinh nghiệm quý báu trong việc hoạch định các chính sách về kinh tế-xã hội, mà việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là nền tảng cho sự phát triển. Pháp luật đầu tư của Lào đang tạo ra những rào cản vô hình trong việc tạo môi trường pháp lý lành mạnh và tích cực trong đầu tư kinh doanh. Việc ban hành một Luật Đầu tư chung không những thống nhất về đối tượng điều chỉnh và phạm vi áp dụng mà còn tạo ra sự bình đẳng cho các chủ thể tham gia đầu tư. Đây là một xu thế chung về sự thống nhất pháp luật trên cùng một lĩnh vực của hầu hết các nước trong khu vực, và quan trọng hơn đó là việc đón đầu những thời cơ trong tương lai của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tác giả của luận văn không có tham vọng bình luận về hệ thống pháp luật mà chỉ cái nhìn khách quan từ thực tế trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam, để từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đầu tư của CHDCND Lào trong thời gian tới, đặc biệt là việc hệ thống hóa các văn bản pháp luật đầu tư. Từ việc ban hành pháp luật đầu tư đến việc áp dụng vào từng hoàn cảnh điều kiện kinh tế xã hội là cả một quá trình hết sức khó khăn và phức tạp, vì vậy CHDCND Lào kế thừa và phát huy tinh hoa văn minh pháp lý của nhân loại nói chung nhưng không quên gìn giữ và bảo tồn các giá trị pháp lý truyền thống tốt đẹp, phù hợp với các bộ tộc Lào anh em trên nước CHDCND Lào. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Luật Đầu tư năm 2005 của nước CHXHCN Việt Nam. Tờ trình về dự án Luật Đầu tư năm 2005 của Bộ Kế hoạch và đầu tư tình Chính phủ. Tư tưởng chỉ đạo dự án Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư (chung) Luật Đầu tư nước ngoài của CHXHCN Việt Nam các năm 1987, 1990, 1992, 1996, 2000. Luật Khuyến khích đầu tư trong nước của CHXHCN Việt Nam các năm 1994, 1998. Luật Doanh nghiệp của Việt Nam các năm 1999, 2005. Nghị Định 101/ 2006 / NĐ-CP ngày 21/09/2006 về đăng ký lại, chuyển đổi giấy phép đầu tư của Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nghị định 108/ 2006/ NĐ-CP ngày 22/09/2006 về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư. Nghị định 88/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Doanh nghiệp về đăng ký kinh doanh. Giáo trình Luật Thương mại tập 1 - Trường Đại học Luật Hà Nội. Giáo trình Luật Đầu tư - Trường Đại học Luật Hà Nội. Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế – Trường Đại học Luật Hà Nội Pháp luật đầu tư của Việt Nam trong tiến trình hội nhâp – Thạc sĩ luật học Vũ Đặng Hải Yến Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào ngày 18/7/1977 Hiến pháp của nước CHDCND Lào 2003(Sửa đổi và bổ sung Hiến pháp 1991) Luật Khuyến khích và quản lý đầu tư nước ngoài của CHDCND Lào năm 1994 Sắc lệnh của Chủ tịch nước CHDCND Lào về việc ban hành chính sách khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài Luật Khuyến khích đầu tư trong nước của CHDCND Lào năm 2004 Luật Doanh nghiệp của CHDCND Lào năm 2005 Tạp chí TAGET của Lào,tháng 9, năm 2006, trang 16 “EU hỗ trợ Lào để trở thành thành viên của WTO trong năm 2010” Các tạp chí của Uỷ ban tuyên truyền Đảng nhân dân cách mạng Lào các măm 2000, 2003, 2005 về chiến lược phát triển kinh tế xã hội tại CHDCND Lào MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu pháp luật đầu tư của Việt Nam trong sự so sánh với pháp luật đầu tư của Lào.doc
Luận văn liên quan