Trình bày nguồn gốc quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong lịch sử của các dân tộc thường có những bậc vĩ nhân mà cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng và hành động gắn liền với cả một giai đoạn lịch sử sôi động, đầy biến cố của dân tộc và thời đại mình, phản ánh ý chí nguyện vọng của các dân tộc và bằng ý chí hoạt động của mình đã góp phần vào sự nghiệp phát triển của thời đại như: Mác, Ănghen, và Lê Nin là những con người như vậy. Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học tên là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động lấy tên là Nguyễn Ai Quốc và nhiều bí danh khác. Người sinh ngày 9 tháng 5 năm 1890 ỏ xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Cả cuộc đời của Người đã cống hiến cho nền độc lập của dân tộc cho sự tự do của đất nước. Tư tưởng của Người là một bộ phận cấu thành nên nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và của nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc vượt qua muôn trùng khó khăn để đi đến những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại và có ý nghĩa lịch sử sâu sắc. Đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sảnViệt Nam đã nêu rõ: “Tư tưởng của Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vân dụng và sáng tạo của chủ nghĩa Mác- Lê Nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu nền văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, gắn liền với giải phóng xã hội, kêt hợp sức mạnh giải phóng dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân với sức mạnh, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của dân do dân và vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ tranh nhân dân, về phát triển kinh tế văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân" Tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin. Tư tưởng của Người không chỉ là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin mà còn là sự phát triển, làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác- Lê Nin. Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ là linh hồn tất thắng của cách mạng Viêt Nam. Chính vì tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh mà việc tìm hiểu về nguồn gốc của cơ sở tư tưởng là không thể thiếu. Việc xác định các nguồn gốc góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa quan trọng để hiểu bản chất chủ nghĩa Hồ Chí Minh , mối quan hệ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác- Lênin và các học thuyết chính trị xã hội khác. Trải qua một quá trình thảo luận lâu dài, đến nay nói chung đã có sự nhất trí về 3 nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ sở tư tưởng đó là: Những truyền thống yêu nước tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại, Chủ nghĩa Mác – Lê nin. Về cơ sở tư thực tiễn: Thực tiến đất nước, thực tiễn thế giới.Bên cạnh đó còn có cơ sở về nhân tố chủ quan. Như vậy nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành dựa trên 3 cơ sở cơ bản đó là: Cơ sở tơ tưởng, cơ sở thực tiễn và yếu tố khách quan. 1. Cơ sở tư tưởng Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam là một quốc gia được hình thành từ rất sớm (khoảng 2700 năm). Trãi qua các thời kì dựng nước và giữa nước, đất nước Việt đã trở thành tổ quốc thiêng liêng của mỗi người dân Viêt Nam, tinh thần yêu nước đã trở thành đạo lý sống, niềm tự hào và là một nhân tố đứng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “ Dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn, đó là một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó chìm cả lũ bán nước và lũ cướp nước Chúng ta có truyền thống tự hào về lịch sử vẻ vang của thời kỳ Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung Chúng ta phải nhớ công lao của các vị anh hùng ấy, vì các vị ấy tiêu biểu của cả một dân tộc anh hùng” Lòng yêu nước là điểm tương đồng lớn của mọi người Việt Nam, công nhân yêu nước là cốt lõi cao nhất, là chuẩn mực nhất, đứng đầu bảng văn hoá giá trị thông tin ngưòi việt Nam. Đó cũng là sợi dây bền nhất gắn chặt mỗi người và cả dân tộc Việt Nam. Kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam Hồ Chí Minh trở thành nhà ái quốc vĩ đại . Người luôn khẳng định truyền thống yêu nước là vốn quý. Bên cạnh đó tinh thần đoàn kết dân tộc cũng là truyền thống quý báu của dân tộc. Truyền thống này được hình thành cùng lúc với sự hình thành dân tộc. Từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại sâm.

doc21 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 20838 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Trình bày nguồn gốc quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA LƯU TRỮ HỌC VÀ QUẢN TRỊ VĂN PHÒNG BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ Bộ môn: Khoa học chính trị Đề bài: Trình bày nguồn gốc quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh Sinh viên: Lê Thi Nhung Lớp: K48 – Lưu trữ và Quản trị văn phòng Năm học: 2005 – 2006 Đề bài: Trình bày nguồn gốc quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh Bài làm Trong lịch sử của các dân tộc thường có những bậc vĩ nhân mà cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng và hành động gắn liền với cả một giai đoạn lịch sử sôi động, đầy biến cố của dân tộc và thời đại mình, phản ánh ý chí nguyện vọng của các dân tộc và bằng ý chí hoạt động của mình đã góp phần vào sự nghiệp phát triển của thời đại như: Mác, Ănghen, và Lê Nin là những con người như vậy. Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học tên là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động lấy tên là Nguyễn Ai Quốc và nhiều bí danh khác. Người sinh ngày 9 tháng 5 năm 1890 ỏ xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Cả cuộc đời của Người đã cống hiến cho nền độc lập của dân tộc cho sự tự do của đất nước. Tư tưởng của Người là một bộ phận cấu thành nên nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và của nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc vượt qua muôn trùng khó khăn để đi đến những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại và có ý nghĩa lịch sử sâu sắc. Đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sảnViệt Nam đã nêu rõ: “Tư tưởng của Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vân dụng và sáng tạo của chủ nghĩa Mác- Lê Nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu nền văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, gắn liền với giải phóng xã hội, kêt hợp sức mạnh giải phóng dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân với sức mạnh, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của dân do dân và vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ tranh nhân dân, về phát triển kinh tế văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân…” Tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin. Tư tưởng của Người không chỉ là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin mà còn là sự phát triển, làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác- Lê Nin. Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ là linh hồn tất thắng của cách mạng Viêt Nam. Chính vì tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh mà việc tìm hiểu về nguồn gốc của cơ sở tư tưởng là không thể thiếu. Việc xác định các nguồn gốc góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa quan trọng để hiểu bản chất chủ nghĩa Hồ Chí Minh , mối quan hệ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác- Lênin và các học thuyết chính trị xã hội khác. Trải qua một quá trình thảo luận lâu dài, đến nay nói chung đã có sự nhất trí về 3 nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ sở tư tưởng đó là: Những truyền thống yêu nước tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại, Chủ nghĩa Mác – Lê nin. Về cơ sở tư thực tiễn: Thực tiến đất nước, thực tiễn thế giới.Bên cạnh đó còn có cơ sở về nhân tố chủ quan. Như vậy nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành dựa trên 3 cơ sở cơ bản đó là: Cơ sở tơ tưởng, cơ sở thực tiễn và yếu tố khách quan. 1. Cơ sở tư tưởng ¨Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam là một quốc gia được hình thành từ rất sớm (khoảng 2700 năm). Trãi qua các thời kì dựng nước và giữa nước, đất nước Việt đã trở thành tổ quốc thiêng liêng của mỗi người dân Viêt Nam, tinh thần yêu nước đã trở thành đạo lý sống, niềm tự hào và là một nhân tố đứng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “ Dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn, đó là một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó chìm cả lũ bán nước và lũ cướp nước…Chúng ta có truyền thống tự hào về lịch sử vẻ vang của thời kỳ Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung…Chúng ta phải nhớ công lao của các vị anh hùng ấy, vì các vị ấy tiêu biểu của cả một dân tộc anh hùng” Lòng yêu nước là điểm tương đồng lớn của mọi người Việt Nam, công nhân yêu nước là cốt lõi cao nhất, là chuẩn mực nhất, đứng đầu bảng văn hoá giá trị thông tin ngưòi việt Nam. Đó cũng là sợi dây bền nhất gắn chặt mỗi người và cả dân tộc Việt Nam. Kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam Hồ Chí Minh trở thành nhà ái quốc vĩ đại . Người luôn khẳng định truyền thống yêu nước là vốn quý. Bên cạnh đó tinh thần đoàn kết dân tộc cũng là truyền thống quý báu của dân tộc. Truyền thống này được hình thành cùng lúc với sự hình thành dân tộc. Từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại sâm. Ngoài các truyền thống căn bản trên, dân tộc Việt Nam còn có những truyền thống như cần cù, thông minh, dũng cảm yêu lao động, ham học hỏi, lạc quan, yêu đời trong suốt cuộc đời hoạt động của người Bác đã rút ra một kết luận quý báu đó là “Các dân tộc thuộc địa muốn giải phóng đế quốc thì phải vùng lên tự giải phóng chính mình chứ không nên chông chờ vào sự giúp đỡ của một thế lực khác. Song nhân dân các nước thuộc địa cũng nên tận dụng những thuận lợi trên thế giới và trong nước để giải phóng dân tộc mình…Người luôn trân trọng kế thừa và phát huy những tinh thần quý báu ấy của dân tộc. Vì vậy, có thể nói truyền thống văn hoá Việt Nam, nổi bật là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân ái cố kết dân tộc là một trong những nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đúng như Người đã từng nêu: “ Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lê Nin, tin theo Quốc tế III” ¨ Tinh hoa văn hoá của nhân loại: Hồ chí Minh tiếp cận với truyền thống văn hoá nhân loại khi đã được thừa hưởng những giá trị truyền thống văn hoá của dân tộc mình bằng các tiếp thu văn hoá của dân tộc mình. Bác đã từng dẫn lời của Lênin: “ Chỉ có những người cách mạng chân chính thì mới thấu hiểu được những điều tốt đẹp do người trước để lại” và khi nghiên cứu các học thuyết trên thế giới Bác đã từng nói học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức, chúa Zêsu có lòng nhân ái, chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm chính sách của nó phù hợp với đặc điểm cách mạng nước ta. Khổng Tử, Zêsu, Mac, Tôn Dật Tiên chẳng phải điều đó có một điểm chung hay sao? Họ đều có mưu cầu hạnh phúc cho mọi người phúc lợi cho xã hội, nếu bây giờ họ còn sống trên đời này họ sẽ chung sống với nhau rất hoàn mĩ và sẽ trở thành những người bạn thân thiết. Thật vậy Hồ Chí Minh đã biết làm giàu vốn văn hoá của mình bằng cách học hỏi, tiếp thu tư tưởng vă hoá phương Đông và phương Tây. * Về tư tưởng văn hoá Phương Đông: Hồ Chí Minh đã bị ảnh hưởng sâu sắc nhất và đậm nét nhất là Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo trong đó đậm nét nhất là Phật giáo. Vì phật giáo là tôn giáo lớn trên thế giới, nó được du nhập vào Việt Nam qua hai con đường từ ấn Độ sang và từ Trung Quốc xuống. Trong suốt nhiều thế kỉ phật giáo ảnh hưởng sâu rộng đến tinh thần ngưòi Việt Nam. Tuy nhiên là một tôn giáo lớn nên Phật giáo cũng có những hạn chế của nó như ở tôn giáo ru ngủ con người cam chịu trước số phận không thúc giục con người vùng lên đấu tranh trước sự áp bức bóc lột, những bất công của xã hội. Mặt khác một số giáo lý của Phật giáo mang tính chất uỷ mị không tưởng. Bên cạnh đó Phật giáo cũng có những ưu điểm như: không phân biệt đẳng cấp, đề cao lao động “ Luật chấp tác”, tinh thần bình đẳng. Những mặt tích cực của Phật giáo đã để lại sâu sắc trong tư duy trong hoạt động sâu sắc của người Việt Nam . Tích cực với chủ nghĩa yêu nước, tinh thần bất khuất chống giặc ngoại sâm của dân tộc ta. Thiền phái trúc lâm Việt Nam là một trong những điển hình chủ trương không xa rời thực tế mà sống gắn bó với nhân dân, với đất nước, với cuộc sống đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù của dân tộc. Những tinh hoa văn hoá của nhân loại đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng của Hồ Chí Minh . - Các tư tưởng của Lão Tử, Mạnh tử, Mặc tử, Quản Tử …Trong triết học cổ Trung Quốc đã được thể hiện rõ nét trong các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh. - Hồ Chí Minh đã tìm thấy ỏ chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn có những yếu tố thích hợp với điều kiện thực tế cách mạng nước ta, để từ đó Người đã vận dụng vào thực tế hoàn cảnh đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Về Nho Giáo: Nho giáo: Được truyền bá vào nước ta từ thế kỉ II trước công nguyên với sự sâm lược của nhà tần. Đến thế kỉ 15 trải qua các triều đại đô hộ của phong kiến phương Bắc của nho giáo được xem như một Quốc giáo. Nó đã để lại nhiều dấu ấn đối với người Việt Nam. Ngay từ nhỏ Hồ Chí Minh đã nhiều năm theo học nho giáo nên đã có nhiều kiến thức nhất định về Nho học. Trong các tác phẩm của mình Người sử dụng khá nhiều luận điểm của Nho giáo, đồng thời đưa vào đó những nội dung vào ý nghĩa mới. Người đã khai thác các lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ cho phong trào cách mạng như: Triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp trời, lý tưởng về một xã hội bình trị, triết lý nhân sinh, đề cao văn hoá, lễ giáo, truyền thống hiếu học. Mặt khác Người cũng đã phê phán, bác bỏ yếu tố duy tâm, lạc hậu của Nho giáo như: Tinh thần đẳng cấp, hạ thấp lao động chân tay, xem thường phụ nữ… Những tư tưởng văn hoá phương Đông đã được Hồ Chí Minh khai thác những yếu tố tích cực để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. * Tư Tưởng văn hoá Phương Tây: Văn hoá phương Tây là một bộ phận của văn hoá nhân loại. Chính quá trình đi tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh đã học hỏi được những kiến thức về văn hoá phương Tây. Chính Hồ Chí Minh là người minh chứng cho sự kết hợp giữa văn hoá phương Đông và văn hoá phương Tây làm phong phú thêm vốn kiến thức văn hoá của mình. Bước chân ra đi Bác chọn điểm đến đầu tiên của mình là nước Pháp đó là chiếc nôi của nền văn hoá phương Tây. Tại đây Bác đã học hỏi được rất nhiều vốn văn hoá của các nước phương Tây. Sau đó Bác sang Mĩ để có điều kiện tiếp xúc với nền văn hoá dân chủ. Bác rất ngưỡng mộ những nhà cách mạng Mĩ, tinh thần đấu tranh giải phóng dân tộc của người Mĩ. Khi nghiên cứu cách mạng Mĩ, Bác đã chỉ rõ quyền tự do bình đẳng, quyền nhân dân kiểm soát Chính Phủ do đó ngay trong bản tuyên ngôn độc lập đọc trước quốc dân đồng bào Viêt Nam, Bác đã chỉ rõ vấn đề này “Ngay trong bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền….” nhưng Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ cuộc cách mạng Mĩ là cách mạng chưa tới nơi. Năm 1913 – 1914 Hồ Chí Minh sang Anh, chứng kiến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Anh, Bác rất đồng tình với những cuộc bãi công, biểu tình của nhân dân Anh. Năm 1914 – 1917 Hồ Chí Minh quay trở lại Pháp, Hồ Chí Minh tiếp thu một nền văn hoá dân chủ qua những thành phố nổi thiếng của Montecquie “Khế ước xã hội”. Qua những tác phẩm này Bác đã tiếp thu tinh thần tự do, dân chủ, bình đẳng, bác ái của Pháp và Bác đã nhận ra rằng sự bình đẳng, tự do, bác ái của Pháp khác hẳn với những gì thực dân Pháp đã rêu rao tại Việt Nam. Và đặc biệt trong tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của thực dân Pháp, tư tưởng bình đẳng, tự do, bác ái này đã được Hồ Chí Minh tiếp thu một cách tích cực. Người đã tham gia vào các câu lạc bộ của các tổ chức chống chủ nghĩa đế quốc, Người học được tư tưởng tự do, dân chủ của cách mạng Pháp và khi nghiên cứu cách mạng Pháp, Bác cũng đã có nhận xét cuộc cách mạng Pháp là cuộc cách mạng chưa tới nơi. Từ đó Người kết luận: “ Cách mạng An Nam nên nhớ những điều ấy”. Chính vì không thoả mãn với con đường cách mạng tư sản Người đã tìm đến chủ nghĩa Mác- Lê nin. Tóm lại, tinh hoa văn hoá của nhân loại là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh. ¨ Chủ Nghĩa Mác- LêNin: Nguồn gốc lý luận quyết định bước phảt triển mới về chất của tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác-Lê nin. Như đã trình bày, trên cơ sở truyền thống văn hoá Việt Nam, mà nổi bật là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, Người tiếp thu văn hoá phương Đông và phương Tây và cuối cùng đến với chủ nghĩa Lênin. Đây là bước ngoặc cơ bản trong quá trình tìm đường cứu nướcvà quá trình phát triển tư tưởng của Hồ Chí Minh chủ nghĩa yêu nước đã gắn liền với của chủ nghĩa xã hội , giác ngộ dân tộc phát triển và giác ngộ giai cấp, cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vô sản. Bước ngoặt đánh dấu sự hình thành và khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ giai cấp tư tưởng vô sản. Thế giới quan và phương pháp luận Mác- lê nin đã giúp Hồ Chí Minh nhìn nhận đánh giá, phân tích, tổng kết các học thuyết tư tưởng đương thời cũng như kinh nghiệm hoạt động thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Người đã coi chủ nghĩa Mác- Lên nin không chỉ là cẩm nang thần kì mà con là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng. Trong Đường kách mệnh” khi phân tích học thuyết Người viết: “Bây giờ học thuyết chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, Kách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”Tổng kết kinh nghiệm thắng lợi của cách mạng Việt Nam Người chỉ rõ: Chúng ta giành được thắng lợi là do nhiều nhân tố, nhưng nhấn mạnh rằng… chúng ta giành được thắng lợi đó trước hết là nhờ vũ khí không gì thay thế được đó là chủ nghiã Mác – Lê nin.. Điều đó xứng đáng với vai trò và ý nghĩa quyết định của chủ nghĩa Mác- Lênin đối với sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh . Tuy nhiên tiếp thu vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin là cả một quá trình gắn với hoạt động thực tiễn, trên cơ sở yêu cầu của thực tiễn, kết hợp lý luận với thực tiễn, vừa nghiên cứu chủ nghĩa Mác vừa hoạt động thực tiễn. Như trên đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, nhưng Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo rất xa lạ với những giáo điều, kinh viện. Trong những bài nói bài viết của Hồ Chí Minh rất ít khi trích dẫn nguyên văn Mác- Lênin, những vấn đề phức tạp, sâu sắc của lý luận và thực tiễn của cách mạng thường được Người đề cập một cách rất giản dị dễ hiểu, gắn liền nguyên lý với hành động, lý luận với thực tiễn, gắn nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin với tinh hoa văn hoá của Việt Nam và văn hoá nhân loại Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp truyền thống văn hoá Việt Nam và văn hoá nhân loại cùng chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng tư tưởng lý luận. Do đó có thể khẳng định : Tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng và chủ nghĩa Mác- Lênin là nguồn gốc chủ yếu nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh Cơ Sở Thực Tiễn: Ngoài nguồn gốc lý luận, còn phải đề cập đến cơ sở thực tiễn, tác động thực tiễn, đến sự thành lập và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh bởi vì chính từ hoạt động thực tiễn mà Hồ Chí Minh đã tìm ra quy luật, khái quát nhận thức của mình thành lý luận. ¨ Thực tiễn Việt Nam Thực tiễn thế giới và thực tiễn dân tộc đã tác động rất lớn đến tư tưởng Hồ Chí Minh cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 thực tiễn Việt Nam là một nước thuộc địa, chịu sự kìm kẹp dưới ách thống trị của đế quốc Pháp, đời sống nhân dân vô cùng khổ cực từ đó đã làm cho các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp diễn ra sôi nổi nhưng cuối cùng đều bị thất bại vì thiếu một tính chất cách mạng, thiếu một đường lối cách mạng đúng đắn, sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp bao trùm lên đất nước Việt Nam, và nó diễn ra từng ngày, từng giờ trên quê hương của Người. các phong trào đấu tranh nổ ra quyết liệt chống lại sự thống trị của bọn thực dân xâm lược như các phong trào đấu tranh do các nhà sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám…nổ ra nhưng lần lượt đều bị thất bại. Chính vì vậy đây là yếu tố tác động không nhỏ đến tư tưởng cách mạng của người hướng người tìm đến con đường cứu nước mới. Đây chính là động lực lớn nhất giúp Người ra đi tìm đường cứu nước. Người nói: “ Tôi muốn ra đi xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xét họ làm như thế nào tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta. Nhưng nếu đi một mình thì thật là mạo hiểm, ví như khi đau ốm… anh muốn đi với tôi không?”. Như vậy hoàn cảnh thực tế của Việt Nam lúc bấy giờ đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng tìm một con đường cứu nước mới của dân tộc. ¨ Thực tiễn thế giới: Thực tiễn thế giới những năm cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 cũng diễn ra rất quyết liệt để giải quyết mâu thuẫn giữa bọn đế quốc với đế quốc ( Thực tế qua hai cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai) Và qua hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai lại hình thành lên một nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đó là Liên Xô. Hồ Chí Minh qua những năm hoạt động ở nước ngoài Người đã đi đến nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc ở khắp các châu lục: Âu – A – Mĩ – Phi để xem xét nguyện vọng, hoạt động và đấu tranh của các dân tộc, Người đã sống và lao động thực sự như một công nhân ở các nước tư bản của các nước phát triển để xem xét đời sống kinh tế – chính trị – xã hội của các tầng lớp nhân dân, để nghiên cứu cách thức tổ chức xã hội và quản lý nhà nước ở đó. Bằng những nhận thức về thực tiễn đã giúp Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc hơn về thế giới và dân tộc, từ thực tiễn đó Hồ Chí Minh đã tổng kết, nâng lên và khái quát thành lí luận về vấn đề giải phóng dân tộc và nhân loại. Những truyền thống dân tộc với tinh hoa văn hoá và nhân loại nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin và thông qua thực tiễn Việt Nam và thế giới Hồ chí Minh đã tiết kiệm sáng tạo và phát triển lên thành lí luận về con đường giải phóng dân tộc cho nhân dân ta và nhân loại trên thế giới. Nhân tố chủ quan: Tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, là mặt hoạt động tinh thần, ý thức của con người,do con người sáng tạo trên cơ sở những nhân tố khách quan. Do đó, tư tưởng còn phụ thuộc vào những yếu tố của nhân cách, phẩm chất, tính cách, bản lĩnh, phẩm chất, tư duy Nói đến nhân tố chủ quan là nói đến phẩm chất và nhân cách của Hồ Chí Minh. Nhân cách phẩm chất, tài năng cảu Hồ Chí Minh đã tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một con người sống có hoài bão, và có lý tưởng yêu nước, thương dân, có bản lĩnh kiên định, có lòng tin vào nhân dân, khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi, nhạy bén với cái mới, thông minh, có hiểu biết sâu rộng , có phương phát biện chứng, có đầu óc thực tiễn. Chính vì vậy người đã khám phá về lí luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới, xây dựng được một hệ thống quan điểm hoàn diện, sâu sắc về cách mạng Việt Nam, đã vượt qua mọi thử thách, sóng gió trong hoạt động thực tiễn, kiên trì chân lý, định ra các quyết sách đúng đắn và sáng tạo, biến tư tưởng thành hiện thực cách mạng. Tư chất và phẩm chát ấy được phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động của Người. Nhờ vậy, giữa vô vàn lý thuyết khác nhau, đối lập nhau, đúng và sai, thật và giả đan xen lẫn lộn, trong khi nhiều chí sĩ cách mạng từ Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng đến Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường…không phát hiện được ở đâu là quy luật ở đâu là chân lý,thì Hồ Chí Minh đã tìm ra được mục tiêu, thực hiện lý tưởng ấy. Giữa thực tiễn vô cùng sinh động, phức tạp,với bao nhiêu tình huống khó khăn, bao nhiêu sóng gío thử thách, có khi đe doạ cả cuộc sống và sinh mệnh chính trị của mình, Người vẫn đứng vững, vượt lên, vãn kiên trì chân lý, có những quyết định đúng đắn và sáng suốt, những hoạt động sáng tạo để biến tư tưởng thành hiện thực. Tóm lại tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hoà và phát triển biện chứng tư tưởng văn hoá truyền thống của dân tộc, tinh hoa văn hoá của phương Đông và phương tây với chủ nghĩa Mac – Lênin làm nền tảng, cùng với thực tiễn của dân tộc và thời đại, qua sự tiếp biến và phát triển của Hồ Chí Minh, một con người tư duy sáng tạo, có phương phát biện chứng có nhân cách, có phẩm chất cách mạng cao đẹp tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng Việt Nam hiện đại. Sau khi kết hợp một cách hài hoà và có hệ thống nguồn gốc hình thành nên tư tưởng của người là quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của Hồ Chí Minh Trong gần một thế kỉ đế quốc Pháp đã liên kết với giai cấp phong kiến, địa chủ thống trị đất nước ta một cách vô cùng tàn bạo ,biến nước ta một nước phong kiến độc lập thành một nước thuộc địa nửa phong kiến ,thành nơi cung cấp nguyên liệu ,nhiên liệu ,công nhân rẻ mạt và thị trường tiêu thụ hàng hoá của công nhân tư bản Pháp. Chúng chia cắt đất nước ta vốn là một quốc gia thống nhất, thành ba kì với ba chế độ thống trị khác nhau để dễ cai trị. Ngay từ lúc đế quốc Pháp nổ súng xâm lược nước ta, nhân dân ta đã anh dũng đứng lên chống xâm lược. Các phong trào cứu nước, các cuộc khởi nghĩa Bình Tây ở Lục Tĩnh từ phong trào Cần Xương,Văn Thân, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân của Phan Bội Châu ,Lương Văn Can, Phan Châu Trinh đến cuộc khởi dậy của Hoàng Hoa Thám và các cuộc khởi nghĩa sau đó đều lần lượt bị thất bại và bị đàn áp khốc liệt. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cho đến đầu thế kỉ XX gặp bế tắc về đường lối. Bối cảnh đó đã thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước .Vậy tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cứu nước đã từng bước được hình thành và phát triển như thế nào. Căn cứ vào thực tế sống , lao động và học tập nhận thức của Nguyễn Ai Quốc Hồ Chí Minh, có thể chia quá trình đó thành ba thời kì: Việc phân chia các thời kì lịch sử trong tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ giúp chúng ta năm được những nội dung tư tưởng cơ bản của người trong từng thời kì, phản ánh khách quan hiện thực lịch sử và tài năng chí tuệ của Hồ Chí Minh. Vì vậy tiêu chí cơ bản để phân kì là dựa vào nội dung chuyển biến về mặt tư tưởng của Hồ Chí Minh trong từng thời kì lịch sử cụ thể chứ không phải là dựa vào mốc thời gian hoạt động cuả người. Chúng ta có thể phân chia thành 5 thời kì như sau: · Thời kì hình thành tư tưởng yêu nước thương nòi (trứoc 1911). · Thời kì tìm tòi con đường cứu nước giải phóng dân tộc (1911-1920). · Thời kì hình thành cơ bản về tư tưởng cáhc mạng Việt Nam(1921-1930). · Thời kì thử thách , kiên trì, giữ vững quan điểm, nêu cao quan điểm độc lập, tự do và quền dân tộc cơ bản(1930-1945). · Thời kì tiếp tục phát triển mới về tư tương kháng chiến và kiến quốc(1945 –1969) 1. Thời kì thơ ấu đến lúc ra đi tìm đường cứu nước (1890-1911). a.Trong thời kì này Hồ Chí Minh đã tiếp thu truyền thống yêu nước và lòng nhân ái từ gia đình và quê hương đất nước, trước hết là quê hương Nam Đàn,xứ Nghệ nơi Người sinh ra, sống tuổi ấu thơ (từ 1890-1895 và 1901- 1906 ) và của Thừa Thiên- Huế, nơi Người sống .Cha là cụ Nguyễn Sinh Sắc và theo học trường tiểu học Đông Ba rồi Trường Quốc Học Huế (từ 1895 đến 1901 từ 1906 đến 1909).Tại quê hương, Người được khai tâm học được những chữ Hán, được hấp thu tinh thần yêu nước bất khuất và các phong trào đấu tranh chống Pháp, cách đối nhân, thế nhân nghĩa, khí quái, thuỷ chung của các nhà nho yêu nước. Tại Huế Người được học một số kiến thức về tự nhiên xã hội, bước đầu tiếp xúc với nền văn minh phương Tây, gợi cho Người suy nghĩ về những hướng đi mới, khác với lớp cha anh . Đây cũng là thời kì thực dân Pháp khai thác mạnh mẽ thuộc địa Đông Phương và ra sức đàn áp phong trào yêu nước để củng cố địa vị thống trị của chúng .Sự thât bại của phong trào yêu nước đầu thề kỉ cho Người thấy : muốn cứu nước phải tìm một đường lối mới hữu hiệu hơn. Đây cũng là giai đoạn Người chứng kiến cuộc sống khổ cực, điêu đứng của nhân dân và tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh, từ đó trong tâm thức của Người hình thành hoài bão cứu nước. Trong giai đoạn này, Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống yêu nước và nhân nghĩa của dân tộc ; hấp thụ vốn văn hoá, hán học và bắt đầu tiếp xúc với văn hoá phương Tây. Sự hình thành những tình cảm thương dân, yêu nước được biểu hiện qua các sự kiện gắn với Hồ Chí Minh ở giai đoạn này như tham gia phong trào chống thuế ở Huế năm 1908,dạy học ở trường Dục Thanh (Phan Thiết) trong phong trào Duy Tân ở Nam Kì . Nhờ đó, Ngưòi đã tìm được hướng đi đúng, cách đi đúng để sớm đi tới thành công. Giai đoạn từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống kết hợp với chủ nghĩa cộng sản (từ năm 1911 đến năm 1920). Trong bối cảnh đất nước đang khủng hoảng đường lối cứu nước, Hồ Chí Minh đã sang phương Tây để tìm đường cứu nước. Người chọn đến nước Pháp, một đất nước có truyền thống cách mạng, đồng thời cũng là đất nước bọn thực dân đang thống trị đất nước mình. Để thực hiện hoài bão của mình , Người đã đi và sống ở nhiều nước thuộc địa châu A, châu Phi, châu Mỹ La Tinh , đã tận mắt thấy cuộc sống cùng cực,bị bóc lột, bị đàn áp của các dân tộc thuộc địa và cũng đã trực tiếp tìm hiểu đời sống của các nước tư bản phát triển, tự xưng là văn minh. Đầu tiên, Người đến Pháp năm 1911, tiếp đó Người sống ở Mĩ năm 1912-1913, ở Anh những năm 1913-1917 và lâu nhất là lần thứ hai, người ở Pháp, sống ở thủ đô Pari, một trung tâm chính trị – văn hoá của Pháp và châu Âu, từ 1917 đến 1923. ở Pháp , Người tham gia “Hội những người Việt Nam yêu nước”, vào Đảng xã hội Pháp - Đảng của giai cấp công nhân Pháp lúc bấy giờ Người tiếp xúc và là bạn của nhiều nhà hoạt động chính trị, xã hội, văn hoá nổi tiếng của Pháp và châu Âu. Năm 1919, Người cùng một số nhà yêu nước Việt Nam thảo ra yêu sách 8 điểm kí tên Nguyễn Ai Quốc gửi hội nghị Vecxây đòi quyền tự do dân chủ cho người Việt Nam. Bản yêu sách không được hội nghị xem xét đến nhưng đã gây một tiếng vang lớn trong phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cách mạng Việt Nam. Qua sự kiện này Người càng thấy rõ trò bịp bợm của chủ nghĩa Uynxơn và đi tới kết luận : Các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức của bản thân mình. Mặt khác, qua những chuyến đi Hồ Chí Minh đã có dịp chứng kiến tận mắt của các dân tộc bị áp bức, đồng thời thể hiện sự đồng cảm với nhân dân các dân tộc cùng cảnh ngộ. Nhờ những nhận thức rút ra từ thực tiễn gần mười năm lăn lộn tìm đường cứu nước, nên vào năm 1920 khi đọc luận cương của Lênin về các vấn đền dân tộc và thuộc địa, đăng trên báo L’Humanité, Nguyễn Ai Quốc tìm thấy ở Luận cương những lời giải đáp đầy thuyết phục cho những câu hỏi minh đang nung nấu và tìm tòi. Sau này, nói về cảm tưởng sau khi đọc Luận cương, Người viết:”Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưỏng biết bao! tôi vui mừng đến phát khóc lên.Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quân chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Có thể nói, đến đây Nguyễn Ai Quốc đã tìm được con đường cứu nước :con đưòng giải phóng dân tộc gắn với cách mạng vô sản, đi theo con đường của cách mạng vô sản. Như vậy, trải qua 10 năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Ai Quóc đã đến với chủ nghĩa Lênin, từ một thanh niên Việt Nam yêu nước trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là một bước nhảy vọt lớn trong cuộc hoạt động cách mạng của Người, một sự chuyển biến về chất, kết hợp nhuần nhuyển giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam (1921 – 1930). Hồ Chí Minh đã có thời kì hoạt động thực tiễn là lý luận và lý luận sôi nổi, phong phú trên địa bàn Pháp (1921 – 1923), Liên Xô (1923 - 1924), Trung Quốc (1924 – 1927), Thái Lan (1928 – 1929)… Trong 9 năm này, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam đã hình thành cơ bản. Hồ Chí Minh đã kết hợp nghiên cứu xây dựng lý luận, kết hợp với tuyên truyền tư tưởng giải phóng dân tộc và vận động tổ chức quần chúng đấu tranh, xây dựng tổ chức cách mạng, chuẩn bị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Những công trình Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường Kách Mệnh (1927) và những bài viết của Hồ Chí Minh trong thời kì này đã thể hiện những quan điểm lớn và độc đáo, sáng tạo về con đường cách mạng Việt Nam. Có thể tóm tắt nội dung chính của những quan điểm đó như sau: Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách mạng vô sản. giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân, phải kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Cách mạng thuộc đại và cách mạng vô sản ở chính quốc có quan hệ mật thiết với nhau. Cách mạng thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng chính quốcmà có tính chủ động, độc lập. Cách mạng thuộc địa có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc và giúp cho cách mạng ở chính quốc trong nhiệm vụ giải phóng hòan toàn. Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “Dân tộc Kách mệnh”, đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành lại độc lập tự do. Giải phóng dân tộc là một việc chung của dân chúng, phải tập hợp lực lượng dân tộc thành một sức mạnh lớn để chống đế quốc và tay sai. Phải đoàn kết và liên minh với các lực lượng cách mạng quốc tế, song phải nêu cao tinh thần tự lực tự cường, không được ỷ lại chờ đợi sự giúp đỡ của quốc tế. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, của cả dân tộc đại đoàn kết. Phải tổ chức quần chúng, lãnh đạo và tổ chức đấu tranh bằng các hình thức và khẩu hiệu thích hợp. Phương pháp đấu tranh để giành chính quyền, giành lại độc lập tự do là bằng bạo lực của quần chúng và có thể bằng phương thức khởi nghĩa dân tộc. Cách mạng muốn thành công trước hết phải có Đảng cách mạng lãnh đạo, vận động và tổ chức quần chúng đấu tranh. Đảng có vững cách mạng với thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền với chạy đúng hướng, tới đích. Đảng phải có lý luận làm cốt… Cùng với chủ nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh trong những năm 20 của thế kỉ XX được truyền bá vào Việt Nam, làm cho phong trào dân tộc và giai cấp ở nước ta trở thành một phong trào tự giác, dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam 3-2-1930. Thời kì thử thách, kiên trì giữ vững quan điểm, nêu cao tư tưởng độc lập , tự do và quyền dân tộc cơ bản (1930 – 1945). Trên cơ sở tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản, Hồ Chí Minh đã thành lập được Đảng cộng sản Việt Nam, xây dựng cương lĩnh, định ra đường lối cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới cách mạng xã hội cộng sản, tổ chức quần chúng đấu tranh. T rong mấy năm đầu của những năm 30, Hồ Chí Minh đã kiên trì giữ vững quan điểm cách mạng của mình, vượt qua khuynh hướng “tả” đang chi phối quốc tế cộng sản, chi phối Ban Chấp Hành Trung ương Đảng, phát triển thành chiến lược giải phóng dân tộc, xác lập tư tưởng độc lập, tự do, dẫn đến thắng lợi của cách mạng tháng 8 năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ra đời. Tuyên ngôn độc lập Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Nhà nước của dân, do dân vì dân đã khẳng định về mặt pháp lý quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam. Dây là mốc lịch sử không chỉ đánh dấu kỉ nguyên tự do, độc lập mà còn là bước pháp triển mở rộng tư tưởng dân quyền và nhân quyền của cách mạng tư sản thành quyền tự do, độc lập của các dân tộc trên thế giới. Nhân dân Việt Nam nêu cao ý chí để bảo vệ quyền tự do, độc lập của mình. Đó là: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những qyền ấy, có quyền được sống, quyền được tự dovà quyền mưu cầu hạnh phúc…” “ suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quền tự do”. Thời kì tiếp tục phát triển mới về tư tưởng kháng chiến và kiến quốc(1945 – 1969). Sau khi giành lại được độc lập, nước cộng hoà dân chủ đứng trước những khó khăn chồng chất, vận mệnh đất nước có lúc như “Ngàn cân treo sợi tóc”. Trong nước, nạn đói chưa qua, tình hình kinh tế – tài chính suy sụp, chính quyền cách mạng còn non trẻ, cơ sở Đảng chưa phát triển. Ơ miền Bắc, 20 vạn quân Tưởng dưới danh nghĩa đồng minh vào giả giáp quân đội Nhật theo chân chúng là bọn phản động Việt cách và Việt quốc. Trong Nam, quân Pháp núp bóng quân Anh, đã quay trở lại, nổ súng gây hấn ở Nam Bộ. Trước tình hình đó, Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Trung Ương Đảng ta, một mặt lãnh đạo đồng bào Nam Bộ kháng chiến, mặt khác ra sức củng cố và phát triển Đảng, cũng cố chính quyền non trẻ, gấp rút phát triển lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang nhân dân, kêu gọi nhân dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất để chống giặc đói, phát động phong trào chống nạn mù chữ nhằm giết giặc dốt. Chủ Tịch Hồ Chí Minh chủ trương phải sớm tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội, xây dựng Hiến pháp, lập ra chính phủ chính thức. Người vận động lập “Quỹ độc lập” tổ chức “Tuần lễ vàng”, mở rộng các đoàn thể cứu quốc, động viên phong trào Nam tiến… Các cuộc vận động đó đã trở thành các phong trào cách mạng của quần chúng và đạt được những kết quả rực rỡ trong những ngày đầu của cách mạng. Về đối ngoại, Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã vận dụng sách lược mềm dẻo, khôn khéo, kí hiệp định sơ bộ (6 –3), tạm ước(14 – 9), với những nhân lượng cần thiết để tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng, đi vào cuộc kháng chiến lâu dài. Đó là những chủ trương, biện pháp cực kì đúng đắn, sáng suốt, đã đưa con thuyền cách mạng nước ta vượt qua những ghềnh thác hiểm nghèo. Nhờ vậy mà chính quyền cách mạng trong cả nước được giữ vững và toàn dân ta có thể bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc (tháng 12- 1946) với tư thế sẵn sàng và lòng tin sắt đá: kháng chiến lâu dài nhất định thắng lợi. Từ năm 1945 đến 1954, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Những tư tưởng của Người về kháng chiến đi đôi với kiến quốc, kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, về chiến tranh nhân dân đã trở thành cơ sở cho đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng và Nhà nước ta. Đường lối kháng chiến đúng đắn của Hồ Chí Minh và của Đảng đã dẫn dắt nhân dân Việt Nam tới thắng lợi vĩ đại Điện Biên Phủ, tới hiệp định Giơnevơ và nửa nước được giải phóng, hoà bình ở Đông Dương được lập lại. Từ 1954 – 1969, Chủ Tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo đất nước thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà. Trong hoàn cảnh mới, tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung, phát triển và hoàn thiện trên một loạt những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam như: Xây dựng Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền, về xây dựng nước nhà dân chủ nhân dân… Trước lúc tạ thế, Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân toàn quân ta bản di chúc thiêng liêng. Bản di chúc đã nói lên tình sâu nghĩa nặng của Người với nước, với dân; nói lên niềm tin tất thắng ở sự nghiệp chống Mĩ, cứu nước; đề ra những phương sách mới để xây dựng lại đất nước sau chiến tranh nhằm thực hiện mục tiêu: “Xây dựng một nước Việt Nam hoà bình thống nhất, độc lập,dân chủvà giàu mạnh góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới” Di chúc là một bản tổng kết sâu sắc, nêu lên những nội dụng cơ bản, những tư tưởng, tình cảm lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, bản di chúc là những lời căn dặn cuối cùng đầy tâm huyết, thấm đượm tình người; một di sản vô cùng quý báu của dân tộc và nhân loại Với lòng kính yêu và thương tiếc vô hạn, toàn Đảng, toàn quân va toàn dân ta đã ra sức phấn đấu thực hiện di chúc của Người, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn, tổ quốc thống nhất, Nam Bắc một nhà, cả nước chuyển sang giai đoạn cách mạng mới: Xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Như vậy, từ Hội nghị trung ương lần thứ 8 lịch sử đến cách mạng tháng 8 thành công, tiếp đó là cuộc kháng chiến chống Pháp, rồi đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cuộc kháng chiến chống Mỹ , cứu nước thắng lợi, tư tưởng Hồ Chí Minh đã có những bước phát triển mới, hoàn chỉnh và có hệ thống cả về cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân và từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã khẳng định: “ Thắng lợi to lớn của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước cũng như những trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam ngót nữa thế kỷ nay, mãi mãi gắn liền với tên tuổi của chủ tịch Hồ Chí Minh người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân, thống nhất tổ quốc, cho sự nghiệp của toàn Đảng toàn dân, thống nhất tổ quốc, cho sự nghiệp của Đảng, của dân tộc, làm rạng dở non sông đất nước ta, để lại cho chúng ta và các thế hệ mai sau những di sản bất diệt. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng như các bậc vĩ nhân khác không tránh khỏi những hạn chế nhất định của lịch sử ví dụ như những sai lầm về cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, xây dựng kinh tế. Song những hạn chế đó không làm giảm đi những cống hiến của Người cho dân tộc cho đất nước chúng ta. Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh đã có lịch sử hình thành và phát triển hơn nữa thế kỷ. Tư tưởng Hồ Chí Minh là những sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, là sự kết tinh trí tuệ của dân tộc và thời đại, là sự vận dụng sáng tạo và bước phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTrình bày nguồn gốc quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.doc
Luận văn liên quan