Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác đánh giá cán bộ

Nếu nói cán bộ là một trong những khâu quan trọng quyết định thành công hay thất bại của công tác, thì đánh giá là khâu rất quan trọng trong việc sử dụng cán bộ. Đánh giá cán bộ chính xác là cơ sở cho việc bố trí, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy, mỗi lần xem xét lại nhân lực, một mặt thì tìm thấy những nhân tài mới, mặt khác sẽ tìm ra những cán bộ thiếu năng lực và tư cách . Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã xác định: "Trách nhiệm đánh giá cán bộ thuộc về cấp ủy, tổ chức đảng nơi cán bộ sinh hoạt, cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của cán bộ và bản thân cán bộ tự đánh giá". Đồng thời, Nghị quyết cũng yêu cầu "Cán bộ được thông báo ý kiến nhận xét của cơ quan có thẩm quyền về bản thân mình, được trình bày ý kiến, có quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp trên, nhưng phải chấp hành ý kiến kết luận của cơ quan có thẩm quyền". Thời gian qua, chúng ta đã triển khai tương đối đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ như đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ. Qua sơ kết, tổng kết công tác cán bộ của các địa phương, ban, ngành và trong cả nước thời gian qua cho thấy, công tác này có những chuyển biến trong nhận thức, trong quan điểm về đánh giá cán bộ. Đánh giá cán bộ không đơn thuần chỉ căn cứ vào thành tích cũ, quá trình công tác, trình độ học lực, thành phần lý lịch, mà đã chú trọng hơn về tiêu chuẩn cán bộ, nhất là về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, kiến thức, lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, chức trách được giao trong điều kiện công tác cụ thể làm thước đo chủ yếu. Công tác đánh giá cán bộ đã có sự phối hợp chặt chẽ hơn với các cấp ủy và đã thực hiện tốt hơn nguyên tắc tập thể, dân chủ, công khai tự phê bình và phê bình; cá nhân được đánh giá đã nghiêm túc tự đánh giá, quần chúng bước đầu tham gia đánh giá cán bộ, đánh giá cán bộ có văn bản; một số nơi cán bộ được thông báo ý kiến nhận xét của cơ quan có thẩm quyền . Song nhiều nơi đều thừa nhận công tác đánh giá cán bộ là một khâu rất khó và còn nhiều yếu kém. Đại hội X của Đảng cũng nêu rõ: "Nhiều khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm được khắc phục . Chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ". Vì khó và yếu nên nhiều nơi nhận xét, đánh giá cán bộ chưa thật sự khách quan, đầy đủ, chính xác. Quan điểm và phương pháp đánh giá cán bộ một số nơi chưa đổi mới. Trong nhận xét, đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý theo nhiệm kỳ hằng năm và cuối nhiệm kỳ, hay trước khi bổ nhiệm, một số nơi chưa căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, năng lực thực tế, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ, phẩm chất đạo đức, chưa đúng quy trình, có nơi chưa thành nền nếp, còn biểu hiện hình thức, chủ quan, tình cảm, nể nang, nhất là chưa phát huy được nguyên tắc tập trung dân chủ. Có những nơi cấp ủy, tổ chức đảng nơi cán bộ sinh hoạt, thậm chí là người lãnh đạo, quản lý trực tiếp và cơ quan quản lý cấp trên chưa sâu sát, chưa nắm chắc, chưa quản lý chặt chẽ, thiếu thông tin và chưa thực sự hiểu biết toàn diện, sâu sắc về cán bộ. Có những nơi, những người có trách nhiệm đánh giá cán bộ, nhưng chưa thật sự công tâm, khách quan, vì động cơ cá nhân, hoặc định kiến, chấp nhặt đối với cán bộ, nên đánh giá cán bộ nhiều lúc, nhiều nơi vẫn nặng về ý chí, chủ quan, cảm tính của người đứng đầu. Do vậy, đánh giá không thể đúng đắn, chính xác về cán bộ, không ít trường hợp đánh giá hoàn toàn không đúng về cán bộ.

doc16 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3050 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác đánh giá cán bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được hay không, các đồng chí cũng không biết đến”. Và Bác nhấn mạnh hậu quả tai hại của căn bệnh này: “Cái lối làm việc như vậy rất có hại. Nó làm cho chúng ta không đi sát phong trào, không hiểu rõ được tình hình bên dưới cho nên phần nhiều chủ trương của chúng ta không thi hành được đến nơi, đến chốn”. “Phải thật thà nhúng tay vào việc”.  Người làm dân vận phải thật thà “nhúng” tay vào việc, tức là làm việc một cách thật sự, phải cùng lao động, cùng chiến đấu, lăn vào cuộc sống hàng ngày của quần chúng để thực hiện mục đích của công tác dân vận. Nếu “chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh” thì làm sao hiểu được dân, làm sao “vận” được dân, làm sao để dân có tự do, hạnh phúc thật sự.  Thực hiện đường lối của Đảng và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhiều năm qua công tác dân vận của cả hệ thống chính trị được triển khai với nhiều nội dung, hình thức phong phú, đạt kết quả tốt.  Tư tưởng Hồ CHí Minh về xây dựng một nền giáo dục mở  Vị trí, vai trò của giáo dục từng được Hồ Chí Minh khẳng định là quốc sách hàng đầu, được thể hiện xuyên suốt và nhất quán trong tất cả các phát biểu, quan điểm, tư tưởng của Người, kể từ những ngày đầu đất nước mới giành được độc lập cho đến lúc Người đi xa. Trong thư gửi học sinh nhân ngày tựu trường đầu tiên dưới chính thế Việt Nam dân chủ cộng hoà, người gửi gắm niềm tin: “…Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, đất nước Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ phần lớn ở công học tập của các em…” Mù chữ và sự dốt nát được Hồ Chủ tịch xem như là một thứ giặc, một quốc nạn: “Giặc đói, giặc dốt là bạn đồng minh của giặc ngoại xâm”. Trong bức thư gửi anh chị em giáo viên bình dân học vụ (tháng 5 năm 1946), Người viết: “…Chương trình của Chính phủ là làm thế nào cho toàn quốc đồng bào ai cũng có ăn, có mặc, có học hành. Vậy khẩu hiệu của chúng ta là: Tăng gia sản xuất, chống nạn mù chữ ”. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, và dù khó khăn, gian khổ đến mấy của cuộc kháng chiến chống thực dân, Hồ Chủ tịch vẫn luôn dành một sự quan tâm sâu sắc cho sự nghiệp giáo dục. Một ngày sau khi đọc bản “Tuyên ngôn độc lập'” (ngày 3-9-1945), Người đã chủ trì phiên họp của Chính phủ và đã nêu ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết; trong đó có nhiệm vụ mở chiến dịch chống nạn mù chữ, chống giặc dốt. Người coi giáo dục là quốc sách, là vấn đề trọng tâm thường xuyên cần phải chăm lo. Bởi suy cho cùng, niềm hạnh phúc lớn lao nhất mà Đảng và Chính phủ có thể đem lại cho mọi người, chính là giúp họ tự giải phóng họ khỏi nghèo nàn, áp bức bằng con đường lao động sáng tạo, lao động có hiệu quả, và chỉ có thông qua giáo dục. Vì vậy, không ai khác, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng xây dựng nền giáo dục mở và chỉ ra phương cách thực hiện chính sách mở trong giáo dục, thông qua con đường xã hội hóa giáo dục. Phát biểu tại Đại hội sơ kết công tác bình dân học vụ 6 tháng đầu năm 1956, ngày 16-7-1956, Người nói: “Những người biết chữ hãy dạy cho những người không biết chữ, người biết chữ nhiều dạy người biết chữ ít, mỗi xóm cử một người đi học, học mấy hôm về dạy mấy hôm, hết chữ rồi trở lại học, thầy vừa dạy vừa học”. Hay trong bài “Chống nạn thất học” (đăng trên báo Cứu Quốc, số 58, ngày 4-10-1945), Người hướng dẫn tỉ mỉ: “Các người giàu có thì mở lớp học ở tư gia dạy cho người không biết chữ ở hàng xóm láng giềng, các chủ ấp, chủ đồn điền, chủ hầm mỏ, nhà máy thì mở lớp học cho những tá điền, những người làm của mình”. Và mục đích, động cơ của việc học là để hiểu biết, học để làm việc, làm giàu, tóm lại là để mỗi người hoàn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Trong một bài viết đăng trên báo Nhân dân (số 183, ngày 9 -11/5/1954), Người căn dặn:.“… Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân giàu nước mạnh, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới có thể tham gia vào công việc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ” và: “ … có đồng chí nói: Nông thôn bận việc nhiều, khó học tập. Chính vì công việc nhiều mà càng cần phải học tập để làm cho đảng viên và cốt cán tư tưởng thông, lập trường vững, làm đúng chính sách của Đảng và Chính phủ, đi dúng đường lối quần chúng. Học càng khá thì giải quyết các vấn đề càng dễ dàng, công việc trôi chảy…”. Trên báo Nhân dân số ra ngày 16-10-1968, về mục tiêu của giáo dục và đào tạo, Người cho rằng là để “đào tạo những con người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và Nhân dân ta”. Người cũng chỉ rõ rằng, giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý “Lý luận gắn chặt với thực hành, học tập ở nhà trường gắn liền với xã hội với gia đình…”. Nói chuyện với lớp Nghiên cứu Chính trị khóa I, trường đại học Nhân dân (ngày 21-7- 1956), Người khẳng định: “… Học là một việc phải tiếp tục suốt đời, suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế”. Người cũng đã chỉ ra phương châm giáo dục hết sức khoa học là: Giáo dục phải gắn liền với sản xuất và đời sống nhân đân. Học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế. Trong việc giáo dục và học tập phải chú trọng đủ các mặt, đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động sản xuất... Về phương pháp giáo dục, trên báo Nhân Dân (số 183, ngày 11-5-1954), Hồ Chủ tịch chỉ rõ: “… Dạy dần dần từ ít đến nhiều, từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, không tham nhiều, không nhồi sọ”; “ Dạy một cách thiết thực, lý luận gắn chặt với thực hành ”. Hồ Chủ tịch còn chỉ ra hiệu quả của việc phát huy mối liên hệ mật thiết giữa nhà trường - gia đình và xã hội trong giáo dục chăm lo, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Điều này được thể hiện trong bài nói của người tại Hội nghị cán bộ Đảng ngành Giáo dục (ngày 3 đến 8 tháng 6-1957, tại Hà Nội): “Giáo dục trong nhà trường dù có tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không thu được hoàn toàn”. Điều này thật thấm thía. Bởi vì, giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình, của các lực lượng xã hội. Nên chỉ có kết hợp chặt chẽ các yếu tố này mới tạo thành sức mạnh tổng hợp để đưa sự nghiệp “trồng người” đi đến thắng lợi. Cuối cùng, sự nghiệp giáo dục - theo quan điểm của Hồ Chí Minh - là sự nghiệp của toàn Đảng, của nhà nước và của nhân dân. Trong “Thư gửi cán bộ, thầy giáo, cô giáo, học sinh nhân dịp khai giảng năm học mới”, người khẳng định: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó. Giáo dục nhằm đào tạo con người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta. Do đó các ngành, các cấp Đảng và chính quyền địa phương phải thật sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước phát triển mới ”. Thực hiện di huấn của Người, trong hơn 30 năm qua, sự nghiệp giáo dục và khoa học luôn được Đảng ta thật sự coi là quốc sách hàng đầu nhằm đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở đó, Đảng và nhà nước ta đã tiến hành nhiều cuộc cải cách, xây dựng và nỗ lực triển khai thực hiện nhiều chương trình, kế hoạch nhằm đẩy mạnh phát triển sự nghiệp giáo dục. Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng về đổi mới giáo dục, năm 1978, Hội nghị ngành Giáo dục đại học tại Nha Trang đã đưa ra ba chương trình hành động, với nội dung chủ yếu là: 1. Đổi mới mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo trong các trường đại học theo hướng cơ bản nhất, hiện đại và phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. 2. Tăng cường công tác khoa học - kỹ thuật, hợp tác quốc tế, đầu tư cơ sở vật tư - kỹ thuật cho các cơ sở giáo dục đại học, bảo đảm tốt những điều kiện cần thiết để nâng cao chất lượng đào tạo. 3. Đa dạng hóa hệ thống trường, lớp theo hướng xã hội hóa giáo dục. Từ chủ trương đổi mới của ngành Giáo dục, từ năm 1990, chúng ta đã hình thành viện Đào tạo Mở (nay là đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh và đại học Mở Hà Nội). Riêng đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh hoạt động theo cơ chế ngoài công lập và là trường đại học mở tự hạch toán đầu tiên (không sử dụng ngân sách nhà nước từ thuế của dân), với hai thử nghiệm: thực hiện chính sách mở trong giáo dục và xây dựng cơ chế tài chính của một đại học tự hạch toán, không sử dụng ngân sách của nhà nước. Qua 3 năm thử nghiệm (từ tháng 6 -1990 đến tháng 7- 1993), mô hình viện Đào tạo Mở thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận và được sự đồng tình cao của xã hội. Bằng chứng là đã có hơn 20.000 sinh viên theo học hình thức này. Mô hình đào tạo mở đã từng bước được củng cố và mở rộng, trong đó, đào tạo từ xa là phương thức quan trọng để thể hiện chính sách mở trong giáo dục của Đảng, đã thu hút hàng vạn học viên ở mọi miền đất nước theo học. Các hoạt động của nhà trường, từ cơ sở vật chất phục vụ dạy và học, đến kinh phí chi trả lương cho đội ngũ gióa viên, cán bộ, công nhân viên và các hoạt động khác, nhà trường đều tự trang trải. Trên cơ sở thành công của mô hình đào tạo mở, Chính phủ sau đó đã công nhận thông qua quyết định cho phép viện Đào tạo Mở thành phố Hồ Chí Minh chuyển thành đại học Mở - Bán công thành phố Hồ Chí Minh ngày 26 -7-1993. Từ đây, hàng loạt trường đại học ngoài công lập đã lần lượt ra đời, đến nay đã hình thành một hệ thống rộng khắp với số lượng hàng trăm trường, bao gồm các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập. Hơn 20 năm qua, kinh tế Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế hoạch định sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, hòa nhập vào nền kinh tế mở. Để hòa nhập thành công vào nền kinh tế mới đó, một trong những điều kiện tiên quyết đối với các nước đang phát triển là phải xây dựng cho được nền giáo dục mở cho mọi người. Vì vậy, ngay cả các quốc gia phát triển cũng đã thay đổi quan điểm về giáo dục. Đó là từ một nền giáo dục khép kín, chất lượng cao và chỉ dành cho một số đối tượng, chuyển sang nền giáo dục mở mang tính đại chúng, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tiếp cận kiến thức đại học. Theo đó, khái niệm “mở” trong giáo dục được hiểu ít nhất trên bốn phương diện: mở rộng quy mô đào tạo; mở rộng đa dạng hóa hình thức đào tạo (tập trung chính quy, đào tạo không chính quy, đào tạo lại, vừa làm vừa học, đào tạo từ xa thông qua công nghệ truyền thông, cầu truyền hình, mạng in-tơ-net, học toàn thời gian, bán thời gian v.v…); mở rộng đối tượng đào tạo (không phân biệt tuổi tác, giưới tính, tôn giáo, giai cấp…); và mở rộng phạm vi giáo dục (địa phương, trung ương, quốc tế hóa giáo dục). Đặc biệt, trong giáo dục đại học, việc phân tầng mục tiêu chương trình đào tạo đã trở thành một xu thế, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực đa dạng trong nền kinh tế mở - kinh tế thị trường; bên cạnh mở rộng phương thức đầu tư phát triển giáo dục theo hướng xã hội hóa. Có thể nói, những cải cách giáo dục trong hơn 30 năm qua đã tháo gỡ được những khó khăn trầm kha, đưa ngành giáo dục phát triển nhanh, mạnh và đã thu được những thành quả đáng kể, xét cả về quy mô đào tạo, phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật, cả về hệ thống cơ sở giáo dục, mà điển hình là trong giáo dục đại học trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, khách quan mà đánh giá, hệ thống giáo dục của chúng ta vẫn còn nhiều bất cập. Cả trong nhận thức và hành động, chúng ta chưa đáp ứng được nhu cầu và yêu cầu đặt ra là nhằm đưa nước ta “…trở nên tươi đẹp…bước tới đài vinh quang để sánh vai với cường quốc năm Châu” như Hồ Chủ tịch mong muốn. Đất nước và nhân dân ta đang thật sự cần có một chính sách căn cơ về giáo dục và phải được xây dựng trên nền tảng kế thừa tinh hoa của thế giới và dân tộc, đặc biệt là dựa trên tư tưởng của Hồ Chủ tịch về giáo dục. Để thực hiện ý nguyện của Hồ Chủ tịch: “…Sửa đổi chế độ giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh của nhân dân…”, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập hiện nay, thiết nghĩ, ngành Giáo dục Việt Nam cần quan tâm triển khai thực hiện một số giải pháp sau đây. Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh học tập, nghiên cứu thấu đáo tư tưởng của Hồ Chủ tịch về xây dựng một nền giáo dục thật sự của mọi người, vì mọi người, cho mọi người; mọi người được quyền bình đẳng hưởng thụ thành quả của nền giáo dục và có nghĩa vụ đóng góp xây dựng và phát triển giáo dục. Làm sao để mọi người đều thấu suốt quan điểm sự nghiệp “trồng người” là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị, của gia đình và các bậc phụ huynh như Hồ Chủ tịch căn dặn, nhằm đưa đất nước phát triển và sánh vai với các cường quốc năm châu. Trên cơ sở đó, từng bước hình thành chiến lược phát triển giáo dục với đầy đủ quan điểm, triết lý, khái niệm về giáo dục toàn diện, đồng bộ và nhất quán. Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện Luật Giáo dục, bảo đảm phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong điều kiện hội nhập. Để Luật Giáo dục phù hợp và bảo đảm đáp ứng tốt nhu cầu phát triển giáo dục, Quốc hội cần thay đổi phương pháp làm luật, trong đó nên hình thành bộ phận tổ chức xây dựng luật đi từ cơ sở đang hoạt động trực tiếp về giáo dục, thay vì ngành chủ quản đứng ra xây dựng luật như hiện nay. Thứ ba, vấn đề đặt ra cho sự nghiệp “trồng người” hiện nay là trên cơ sở thấm sâu và vận dụng sáng tạo tư tường của Hồ Chủ tịch, xây dựng cho được một đội ngũ người thầy ngang tầm. Trong đó, mỗi người thầy phải hội đủ hai phẩm chất cơ bản là vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Thứ tư, Nhà nước cần có chính sách cụ thể hơn về đất đai và thuế doanh nghiệp cho các cơ sở ngoài công lập - một loại hình giáo dục - đào tạo đang trở thành một xu hướng, không riêng một khu vực hay một quốc gia. Lý do là, hoạt động giáo dục có những đặc thù riêng, trong đó, sản phẩm của giáo dục lại rất đặc biệt, chính là đào tạo con người. Vì vậy, không nên xem trường ngoài công lập là một doanh nghiệp để tính thuế, đánh thuế cơ sở giáo dục - mà thực chất là đánh thuế vào người học. Thứ năm, bộ Giáo dục và Đào tạo cần nghiên cứu để có sự điều chỉnh, thậm chí kiên quyết huỷ bỏ những quy định không còn phù hợp trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo; nhất là tạo điều kiện cho các trường mở rộng mối quan hệ liên kết đào tạo các chương trình quốc tế, thay vì vẫn còn nặng về cơ chế “xin - cho” như hiện nay. Đi kèm theo đó là có một hệ thống cơ chế, chính sách thỏa đáng và phù hợp trong việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đồng bộ, đầy đủ để bảo đảm đào tạo ngang tầm. Cuối cùng là một cơ chế quản lý và phương pháp giáo dục luôn luôn phải đổi mới./. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội  Suốt 24 năm ở cương vị đứng đầu Nhà nước (1945 - 1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một mẫu mực tuyệt vời của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, chú trọng giáo dục đạo đức đi đôi với không ngừng tăng cường vai trò, sức mạnh của luật pháp. Đây chính là một nét đặc sắc trong tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh về Nhà nước, pháp luật và về quản lý xã hội.  Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao tư cách người cách mạng. Người đã dày công đào luyện đội ngũ cán bộ vừa biết trọn đời hy sinh cho lý tưởng cao đẹp, vừa biết gắn bó máu thịt với nhân dân và hòa mình vào cuộc đấu tranh vì nhân loại tiến bộ; đồng thời biết sống một cuộc sống giản dị và trong sạch. Khi giành được chính quyền về tay nhân dân sau Cách mạng Tháng Tám (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhanh chóng xác lập được địa vị pháp lý hợp hiến của chính quyền dân chủ nhân dân, từng bước xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, và vì dân; đưa những giá trị đạo đức, nhân văn hòa quyện trong pháp luật Việt Nam, và làm cho nó có hiệu lực trong thực tế.  1 - Tư tưởng và tấm gương mẫu mực về sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội  Đạo đức và pháp luật đều là hai hình thái ý thức xã hội, thuộc hai lĩnh vực khác nhau. Trong lịch sử trị quốc, bình thiên hạ; hay hiểu theo cách nói ngày nay là quản lý nhà nước, quản lý xã hội cũng đã có những người, những trường phái, những chủ thuyết tìm cách tuyệt đối hóa địa vị độc tôn của từng yếu tố riêng lẻ. Chẳng hạn, thuyết "nhân trị" của Khổng Tử khác với thuyết "pháp trị" của Tuân Tử, Lý Tư, Hàn Phi Tử... Nhưng, nói chung những đấng minh quân được coi là thành công trong sự nghiệp trị nước đều là những người vừa tôn Nho vừa trọng Pháp, vừa biết kết hợp giáo dục đạo đức với tăng cường pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người như thế ở tính kế thừa những tinh hoa quản lý đất nước của loài người, và hơn thế ở tính sáng tạo độc đáo, riêng có của Người. Người là mẫu mực của sự chú trọng giáo dục đạo đức và cũng không ngừng tăng cường vai trò của pháp luật.  Tinh thần và phương pháp xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý nhà nước, quản lý xã hội là sự kết hợp hài hòa đạo đức và pháp luật. Giữa đạo đức và pháp luật có mối quan hệ khăng khít với nhau. Pháp luật bao giờ cũng là một biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức nào đó nhằm biến nó thành thói quen, nếp sống. Chuẩn mực càng khó bao nhiêu, càng rộng, thậm chí trừu tượng, khó định lượng bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Có lẽ, cũng do vậy, pháp luật được coi là đạo đức tối thiểu, còn đạo đức được coi là pháp luật tối đa. Vì có những vi phạm đạo đức mà pháp luật không thể xét xử nhưng con người vẫn không thoát khỏi sự trừng phạt của lương tâm, dư luận.  Tìm được những điểm tương giao trong mối quan hệ qua lại giữa đạo đức và pháp luật để kết hợp và xử lý vấn đề; đó cũng là nét rất tinh tế, độc đáo ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người ta còn nhớ xung quanh vụ "xìcăngđan" mang hàng buôn lậu của Chu Bá Phượng, Bộ trưởng Kinh tế Chính phủ liên hiệp kháng chiến nhân chuyến đi Phông-ten-nơ-blô (Pháp, năm1946), dư luận xì xào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tỏ thái độ kiên quyết ngay từ ngày 3-10-1946 trong Kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa đầu tiên. Người nói: Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong Chính phủ, từ Hồ Chí Minh cho đến những người làm việc ở các ủy ban làng đông lắm và phức tạp lắm. Dù sao, Chính phủ đã hết sức làm gương. Và nếu làm gương không xong, thì sẽ dùng pháp luật mà trị(1). Người thường căn dặn cán bộ các cấp: "Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh."(2). Biết rõ khi có Nhà nước, cần phải đề phòng những khuyết tật nảy sinh như là một thuộc tính của nó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hướng sự quan tâm, giáo dục của Người vào những cán bộ có chức, có quyền mắc những căn bệnh như trái phép, cậy thế, hủ hóa, chia rẽ, tư túng, tham ô, lãng phí... Người đòi hỏi cán bộ phải: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, và ghi sâu những chữ "công bình, chính trực" vào lòng. Người biểu dương những cán bộ tốt và cũng tỏ thái độ rất nghiêm khắc với những tệ nạn như: trái phép, cậy thế, hủ hóa, chia rẽ, tư túng, tham ô, lãng phí. Người nhấn mạnh: "Ai đã phạm những lỗi lầm trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung"(3). Và vụ án Trần Dụ Châu là một minh chứng cho điều ấy.  Có thể khẳng định một lần nữa rằng, mặc dù luôn đề cao giáo dục đạo đức nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không ngừng tăng cường sức mạnh pháp luật. Theo Người, nếu chỉ đơn thuần giáo dục đạo đức thì không thể giải quyết được tệ nạn xã hội. Ví như tệ tham nhũng - một căn bệnh vốn xuất hiện từ rất sớm cùng với sự xuất hiện của Nhà nước và tầng lớp cầm quyền; nếu chỉ đơn thuần kêu gọi đạo đức thì không thể giải quyết được tệ nạn này. Hồ Chí Minh yêu cầu: Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Mỗi người phải nhận rằng, tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với nước, với dân; phải nghiêm trị. Người viết nhiều bài trên báo Cứu quốc với bút danh Chiến Thắng, thường xuyên phê bình, nhắc nhở cán bộ phải nhớ rằng mình là đầy tớ dân chứ không phải những ông quan cách mạng, phải chống chuyên quyền, độc đoán, dĩ công, dinh tư. Chính Người đã đề ra, công bố và duy trì lịch tiếp dân. Bản thân Người gương mẫu thực hiện. Người cũng công khai viết bài tự phê bình vạch rõ những thành công và khuyết điểm của Chính phủ do Người đứng đầu.  Chủ tịch Hồ Chí Minh ý thức sâu sắc rằng, trong việc xây dựng Nhà nước kiểu mới, tấm gương đạo đức của các bậc lãnh đạo, của các nhà cầm quyền có ý nghĩa vô cùng to lớn. Nhân dân sẽ noi theo gương đó mà hành động, ứng xử. Vì vậy, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ phải chăm lo giữ gìn đạo đức trong cuộc sống và công tác. Người thường nói: đời sống của dân ta còn khổ, người cách mạng không thể có cuộc sống khác. Nhớ ngày ở Bắc Bộ phủ, những người giúp việc dọn mâm cơm để Người ăn riêng, Người không đồng ý mà yêu cầu được ngồi cùng ăn với anh em bảo vệ, cấp dưỡng, lái xe. Bữa ăn thường đạm bạc, phần nhiều là rau muống với đậu phụ kho, thỉnh thoảng có ít thịt. Đang ăn, nếu có cán bộ đến báo cáo công việc, Người kéo vào cùng ăn, vừa ăn vừa tranh thủ nghe báo cáo tình hình. Là một vị lãnh tụ của quần chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không bỏ lỡ một dịp nào có thể gặp gỡ được nhân dân, trò truyện với quần chúng để tìm hiểu, lắng nghe, kiểm chứng hay đưa ra những lời khuyên bảo, góp ý, hoặc nhắc nhở thân tình. Dẫu bận trăm công nghìn việc, Người vẫn dành thời gian đi một số địa phương, thăm hỏi mỗi nhà, tặng quà các cụ già, ân cần trìu mến đàn cháu nhỏ... Với những nơi xa, Người thường viết thư để hướng dẫn, động viên, hay khích lệ mọi người tham gia vào các công việc ích nước, lợi dân.  Nhờ sự tận tình chỉ bảo và tấm gương cao đẹp của của Người, cán bộ, công chức các cấp đã nhanh chóng khắc phục được những sai sót buổi đầu, trưởng thành dần trong công tác, từng bước góp phần khẳng định bản chất tốt đẹp của chính quyền; được toàn dân thừa nhận là Nhà nước của dân, tổ chức toàn dân đấu tranh bảo vệ, xây dựng và phát triển vì nền độc lập tự do của Tổ quốc, cơm áo, hạnh phúc của nhân dân, ở đâu cũng được nhân dân chở che và ủng hộ.  2 - Tăng cường giáo dục đạo đức, nâng cao hiệu lực pháp luật trong quản lý xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh  Thời cuộc hiện nay đã có những đổi thay, con thuyền Việt Nam cần ra biển lớn; diện mạo đất nước, xã hội và con người đang từng ngày đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp. Xã hội chúng ta chưa đạt tới một trình độ xã hội công nghiệp hiện đại. Tâm lý, nếp sống của người sản xuất nhỏ vẫn còn khá phổ biến. Đây đó, dấu ấn phong kiến vẫn còn" phép vua thua lệ làng", nặng về hình, nhẹ về luật nên ý thức tôn trọng luật và sống theo luật cũng chưa trở thành thói quen, nền nếp. Vì thế, "nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt" (4). Đặc biệt, "Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn đang diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả"(5). Trong khi đó, việc xây dựng và thực hiện pháp luật tuy phần nào đã đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển nhưng cũng có tình hình vừa thừa vừa thiếu. Luật ban hành nhiều nhưng chưa đủ, thiếu đồng bộ, chưa bao quát được mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nội dung luật pháp còn chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn, chất lượng thấp. Đặc biệt việc tổ chức thực hiện pháp luật kém, thi hành luật không nghiêm, có nhiều sai phạm cả cố ý và vô ý; hoặc trong một số trường hợp có luật nhưng không được thực thi (chẳng hạn Luật An toàn giao thông). Pháp luật nước ta chưa làm tròn chức năng răn đe, ngăn ngừa, "phòng bệnh" mà phần lớn chỉ sử dụng như một công cụ để xử lý vi phạm.  Trong khi nhu cầu về luật và đời sống pháp luật còn nhiều bức xúc; dường như con người ta ai cũng luôn đòi hỏi có quy định đi sát mình mỗi khi đụng chạm đến vấn đề cần giải quyết. Không chỉ dừng lại ở mặt trận chống tội phạm và hình phạt, ở các quan hệ lợi ích, tài sản, quốc tịch, bang giao mà luật pháp thời nay đã vươn rộng ra đến tận cánh đồng với các quy định chặt chẽ về giống cây trồng, thuốc bảo vệ thực vật, vật nuôi hoặc xa hơn cùng các ngư dân đánh bắt xa bờ. Và con thuyền Việt Nam ra trùng khơi cũng cần phải có ra-đa định vị. Trước thực trạng ấy, chúng ta tìm thấy trong tư tưởng Hồ Chí Minh những giá trị hàm chứa ở tinh thần, phương pháp, nguyên tắc (xây dựng), ở những hạt nhân hợp lý trong rất nhiều nội dung vừa cơ bản vừa cụ thể và nóng hổi tính thời sự. Phải kế thừa và phát triển sáng tạo những di sản tư tưởng quý giá đó của Người. Thiết nghĩ, cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu như sau:  Thứ nhất, cần nâng cao hơn nữa nhận thức về vai trò của đạo đức, pháp luật và sự kết hợp giữa chúng trong quản lý xã hội  Trước những biến động của xã hội và thị trường, giữ gìn và rộng mở, kế thừa và tiếp biến.., thì đạo đức cũng vận động theo nhiều chiều cạnh: tích cực, tiêu cực hoặc trung dung; đồng thời pháp luật đòi hỏi ngày càng cao vừa ở tầm phổ quát, ở khung khổ định hướng vừa điều chỉnh những hành động cụ thể của đời sống con người. Mặc dù không phải lúc nào yếu tố đạo đức của người thực hành pháp luật cũng có thể nhận biết được, song sự hiện hữu của nó trong từng hành vi, từng quan hệ pháp luật, kể cả trong vùng ý thức, tư duy, tư tưởng và triết lý luật pháp là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, trong thời buổi kinh tế thị trường và cạnh tranh gay gắt, nếu chỉ hô hào chung chung về lương tâm, đạo đức mà không gắn với giáo dục và thực thi pháp luật, hoặc chỉ dùng sức mạnh cưỡng chế lạnh lùng của luật pháp với bản chất đúng nghĩa của nó là có giới hạn thì sẽ không thể điều chỉnh, kiểm soát được mọi hành vi của con người.  Mong muốn của chúng ta là làm cho cái tốt đẹp đè bẹp cái xấu xa, cái thiện đẩy lùi cái ác, cái chính chiến thắng cái tà, nghĩa là làm cho các giá trị đạo đức - "cái thực sự người" ngày càng phổ biến. Đây không phải là câu chuyện ngẫu nhiên, bẩm sinh mà là cả quá trình giáo dưỡng và rèn luyện. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: "Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên"(6). Phát huy vai trò của đạo đức gắn kết với pháp luật chính là một trong những phương cách tốt nhất để tăng thêm sức mạnh, khắc phục những điểm yếu, những hạn chế nội tại, nhân thân của đạo đức và pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Điều quan trọng và có ích chính là ở chỗ, con người không chỉ nuôi lớn những khát vọng mà còn cần cảm nhận thực tế và có động lực để thực hành một nền pháp luật trong một Nhà nước pháp quyền đích thực của dân, do dân và vì dân - nền pháp luật của đạo đức. Nói theo tinh thần của Hồ Chí Minh: Nhà nước ấy phải làm sao giáo dục cho nhân dân biết sử dụng các quyền của mình, dám nói, dám làm... trong khuôn khổ pháp luật.  Thứ hai, đưa các chuẩn mực đạo đức cơ bản vào nội dung các văn bản pháp luật.  Trong thực tế cuộc sống, nếu ở đâu thiếu luật, hoặc luật không đủ bao quát mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì ở đó, lấy đạo đức, lấy dư luận xã hội để điều chỉnh. Điều ấy tuy có tác dụng nhất định, nhưng quả thực thiếu "độ" mạnh, thiếu tính răn đe cần thiết, đặc biệt là đối với những bộ phận tiêu cực trong một cơ chế: "Tìm lợi nhuận, nhiều hơn tận tâm". Vì vậy, một mặt đề cao đạo đức sẽ góp phần đắc lực hạn chế những khiếm khuyết của pháp luật; mặt khác, phải đưa những chuẩn mực đạo đức mới vào pháp luật, luật hóa những chuẩn mực đạo đức đó để pháp luật thực sự là một công cụ hữu hiệu bảo vệ và phát triển đạo đức. Nói một cách khác, trong sự kết hợp thống nhất biện chứng giữa đạo đức và pháp luật thì đạo đức với sự giáo dục, thuyết phục sẽ tăng sức lan tỏa lâu bền, pháp luật với sức mạnh cưỡng chế sẽ tạo nên xung lực mới. Lúc này hơn lúc nào hết là phát huy cao độ những phẩm chất đạo đức mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu bằng việc tập trung luật hóa cho được những phẩm chất cụ thể sau đây:  - Trung với nước, với Đảng, hiếu với dân; hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.  - Yêu thương con người, sống có tình nghĩa, có tinh thần quốc tế trong sáng.  - Cần, kiệm, liêm, chính; chí công, vô tư.  Có thể coi, ba phẩm chất nêu trên cũng là ba chuẩn mực hết sức cơ bản để xây dựng nền đạo đức mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều cần thiết và không giản đơn là phải vận dụng nó như thế nào trong thực tế hiện nay?. Người ta không thể không nghĩ ngay đến vấn đề đối tượng điều chỉnh của cả đạo đức và pháp luật. Đây chính là điểm chung, điểm "đồng", điểm giao nhau giữa hai lĩnh vực, hai hình thái ý thức (mà ta đề cập). Ba chuẩn mực đó về cơ bản là tiêu chí đạo đức chung, nền tảng cần được luật hóa rõ hơn nữa trong các đạo luật cơ bản, trong Hiến pháp: (phần về Nghĩa vụ công dân). Nghĩa vụ đó, trước hết phải nói đến lý tưởng và đạo đức - (trung với nước, trung với Đảng, với lý tưởng cao đẹp của Đảng), đó là cái gốc của con người mới, của người công dân mới. Bởi vì nếu thiếu nền tảng đó, con người sẽ không đủ ý chí, nghị lực, sức mạnh vượt qua những thách thức và biến động khó lường để hoàn thành nhiệm vụ.  Con người mới, người công dân mới phải là con người nhân ái sống có tình, có nghĩa, yêu thương ông bà, cha mẹ, anh chị em, có tình làng nghĩa xóm. Như Bác Hồ đã khẳng định: "Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu, bốn biển một nhà"(7). Tuy nhiên, cũng trong các tiêu chí ấy, có những nội dung, được điều chỉnh bởi những luật, văn bản luật, pháp lệnh với mỗi đối tượng cụ thể. Chẳng hạn, "hết lòng hết sức phục vụ nhân dân" trong Luật Công chức, Luật Quốc phòng, Luật Công an, An ninh nhân dân. "Sống có tình nghĩa" trong Luật Hôn nhân và gia đình. Đặc biệt, trong đời sống sinh hoạt thường ngày, từ trước đến nay những giải thích của Chủ tịch Hồ Chí Minh về "cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư" đã là rất rõ ràng và đầy đủ; nhưng cần nhìn nhận và vận dụng bằng tư duy biện chứng phù hợp với hoàn cảnh hiện nay. Không thể chỉ giơ tay hô hào hay khuyến nghị chung chung, cứng nhắc trước thực trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, thanh niên và quần chúng xuống cấp về đạo đức, thiếu cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Sự thực là họ đã và đang đi ngược lại với ý nghĩa của các khái niệm này. Đó chính là họ đã mắc phải các bệnh lười biếng (đối nghịch với cần), xa hoa lãng phí (đối nghịch với kiệm), quan liêu tham nhũng, cơ hội (mà Hồ Chí Minh gọi là hoạt đầu, hiếu danh, kiêu ngạo, óc lãnh tụ, cục bộ bè phái, cận thị, hẹp hòi, chia rẽ đoàn kết, khuất tất thiếu minh bạch v.v. và v.v. - đối nghịch với liêm, chính, chí công, vô tư).  Suy cho cùng, căn nguyên sâu xa của các bệnh này chính là cá nhân chủ nghĩa, làm cái gì cũng chỉ nghĩ đến mình, ham muốn vật chất và quá nhiều tham vọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, những người có thói hư tật xấu là do cá nhân chủ nghĩa mà sinh ra. "Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm"(8). Theo Người là phải chống kiên quyết và triệt để, phải tiêu diệt nó. Cần tăng cường mạnh mẽ và cụ thể hơn trong các Luật Phòng chống Tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Hải quan, Bộ Luật Lao động, Bộ Luật Dân sự, Luật Hình sự, các luật và pháp lệnh liên quan, các quy phạm pháp luật.  Có như vậy, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mới thể hiện được tính nhất quán trong vận dụng và kết hợp các nguyên tắc xây dựng đạo đức mới theo tư tưởng và phong cách Hồ Chí Minh: xây đi đôi với chống, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức và tu dưỡng đạo đức suốt đời. Xin nhấn mạnh thêm rằng, cần vận dụng các nguyên tắc này trong hoạt động làm luật và quan trọng hơn là đưa pháp luật vào cuộc sống. Cấp thiết là một số vấn đề đang còn nổi cộm hiện nay như chống tham nhũng, giảm thiểu tai nạn giao thông, cải cách hành chính.  Thứ ba, bắt đầu ngay một lộ trình xây dựng và thực hiện sự kết hợp đạo đức và pháp luật.  Một là, cần chuyên nghiệp hóa hoạt động của cơ quan lập pháp - Quốc hội, để bảo đảm chất lượng của các văn bản luật được ban hành. Muốn vậy, phải có một tỷ lệ cần và đủ đội ngũ những người làm luật hiểu sâu và gương mẫu thực hành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đồng thời tinh thông chuyên môn nghiệp vụ và kỹ thuật làm luật.  Hai là, các văn bản luật nói chung, trong đó có các văn bản xây dựng theo hướng nêu trên; trước khi đưa vào cuộc sống cần thông qua một cuộc trưng cầu dân ý để điều chỉnh, bổ sung những nội dung cần thiết.  Ba là, cần có cơ chế và công nghệ truyền thông, giáo dục pháp luật trong nhân dân để nhân dân hiểu và tự giác thực hiện. Cần có biện pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật vừa phổ thông đại chúng, vừa hấp dẫn, lôi cuốn theo phương châm: ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hành.  Bốn là, cần có cơ chế giám sát, bảo đảm tính nghiêm minh tuyệt đối trong việc chấp hành pháp luật. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.  Năm là, xây dựng lối sống, lao động, học tập và hành xử theo pháp luật - một nền pháp luật thấm đẫm những giá trị của đạo đức theo tư tưởng và tấm gương mẫu mực: Hồ Chí Minh. ] Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, từ bài giảng đầu tiên trong tác phẩm Đường Kách Mệnh[1]đến bản Di chúc cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và việc tu dưỡng đạo đức, coi đạo đức là “cái gốc” của người cách mạng. Vấn đề đạo đức cách mạng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh luôn có sự nhất quán và tính lôgic cao về tinh thần cách mạng cũng như phương pháp tư duy, nhất là phương pháp tư duy khoa học, tư duy biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, trên cơ sở truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, chắt lọc tinh hoa đạo đức của nhân loại, Người còn phát triển và sáng tạo những giá trị tư tưởng đạo đức mới phù hợp với điều kiện Việt Nam. Tầm quan trọng của đạo đức bao giờ cũng được Người đặt ở vị trí hàng đầu. Ngay từ khi Đảng ta chưa ra đời, không phải ngẫu nhiên những bài giảng đầu tiên của Người cho thế hệ thanh niên yêu nước đầu tiên ở nước ta theo con đường cách mạng vô sản là những bài giảng về tư cách của người cách mạng. Trong trang đầu cuốn Đường Kách Mệnh- Người đã ghi 23 nét tư cách của một người cách mạng trong ứng xử với mình, với người, với đời, với việc. Đó là những chuẩn mực: “Tự mình phải: Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cận thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững.  Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất. Bí mật. Đối với người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm.  Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người. Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể”[2]. Trên cơ sở nhận thức về nền tảng của việc hình thành đạo đức mới, vấn đề đạo đức cách mạng được Người nhắc lại nội dung tương tự khi nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa, năm 1947, nhưng cụ thể hơn[3], gồm 5 điểm: một, Mình đối với mình; hai, Đối với đồng chí mình phải thế nào?; ba, Đối với công việc phải thế nào?; bốn, Đối với nhân dân; và năm, Đối với đoàn thể. Với những lời căn dặn này cho thấy, Người đã đặt vấn đề đạo đức cách mạng một cách rất lôgic và có cơ sở khoa học về các quan hệ lợi ích. Hầu như các nguyên tắc đạo đức Người đề ra trước hết cho mình thực hiện, sau đó mới để giáo dục người khác, có thể nêu ra một số chuẩn mực cơ bản về đạo đức cách mạng theo tư tưởng của Người, như sau: 1/ Nếu bài học về đạo đức cách mạng đầu tiên trong cuốn Đường Kách Mệnh, Người chỉ đề ra những nguyên lý chung thể hiện mối quan hệ giữa ba khía cạnh, phản ánh mối quan hệ đạo đức mới, đạo đức cách mạng mà người cách mạng cần quán triệt trước tiên, đồng thời nêu cao việc tu dưỡng đạo đức cách mạng; thì ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người đã đề ra những nguyên tắc về hành vi đạo đức cách mạng đối với người có chức, có quyền trong Chính phủ từ toàn quốc đến các làng, Người đề nghị: “Mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: Cần, kiệm, liêm, chính” để “làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động”. Người coi cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của con người mới, đồng thời là chuẩn mực cơ bản của nền đạo đức mới của dân tộc ta. Đây là phẩm chất được Người đề cập đến nhiều nhất, thường xuyên nhất với một nội dung đạo đức mới rất cách mạng mà vẫn giữ được nền tảng của các khái niệm đạo đức cũ rất quen thuộc với mọi người. Phẩm chất này gắn liền với họat động hàng ngày của mỗi con người và có quan hệ mật thiết với tư tưởng trung với nước, hiếu với dân. Chí công vô tư về thực chất là nối tiếp cần, kiệm, liêm, chính. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư và ngược lại. Người có tinh thần chí công vô tư là người ham làm những việc ích nước, lợi dân, không ham địa vị, công danh, phú quý, không nghĩ đến quyền lợi cá nhân. Người cho rằng những cán bộ, đảng viên có đầy đủ đức tính nêu trên sẽ đứng vững trước mọi thử thách, hơn nữa yêu cầu họ phải thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đối với người, với việc và với chính mình. Người từng nói: “Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì  mình sẽ tiến đến chỗ chí công, vô tư. Mình đã chí công, vô tư thì khuyết điểm sẽ càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng thêm. Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm có 5 điều: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” [4]. Có thể thấy rằng từ các khái niệm đạo đức cũ như: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, Người đã đưa vào đây nội dung đạo đức mới bằng cách giải thích nó theo quan niệm mới, với một nội dung hoàn toàn khác, rất cách mạng, phản ánh các mối quan  hệ một cách rõ ràng, cụ thể và dễ hiểu. 2/ Từ nội dung hẹp của các phạm trù đạo đức cũ, Người mở rộng, đưa vào đây một nội dung rất mới, tiến bộ, cách mạng, vượt qua những hạn chế của tư tưởng  đạo đức truyền thống và nâng lên thành tư tưởng đạo đức mới, mà tiêu biểu nhất là các khái niệm: trung, hiếu, nhân, nghĩa… “Từ trung với vua thành trung với nước; từ hiếu với cha mẹ mình thành hiếu với dân; từ nhân chỉ là nhân ái thành nhân dân, từ cần cho riêng mình thành cần cho cả xã hội; từ kiệm cho riêng mình thành tiết kiệm chung phục vụ cho đất nước; từ liêm nghĩa là liêm khiết, không tham nhũng, nghĩa là chỉ giữ cho bản thân mình trong sạch, Người mở rộng thành vấn đề liêm khiết mang tính xã hội; từ chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đúng đắn, Người chuyển sang vấn đề thiện, ác; làm việc chính, là người thiện; làm việc tà là người ác”[5].  Người nhấn mạnh: “Người cán bộ phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ đạo đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính. Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là:  Nhận rõ phải trái, giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”[6]. Trung vơí nước, hiếu với dân được coi là nội dung cơ bản nhất, bao trùm nhất trong tư tưởng đạo đức cách mạng của Người, thể hiện mối quan hệ giữa con người với Tổ quốc và nhân dân. “Trung với nước” là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, nước ở đây là nước của dân, dân là chủ nhân của đất nước. Người cho rằng bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Xuất phát từ quan niệm như vậy, nên “hiếu” trong tư tưởng của Người chính là “Hiếu với dân”. Hiếu với dân không chỉ là xem người dân như đối tượng dạy dỗ, ban ơn mà là đối tượng phải phục vụ hết lòng. Ở người, lý luận luôn gắn chặt với thực tiễn, lời nói luôn đi đôi với việc làm. Cuộc đời của Người là minh chứng sinh động về tư tưởng tận trung với nước, tận hiếu với dân. 3/ Nếu như trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất của mỗi con người - công dân đối với Tổ quốc, đối với nhân dân, thì yêu thương con người là trách nhiệm của mỗi con người đối với con người. Người cho đây là phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Yêu thương con người trước hết là tình cảm dành cho những người bị áp bức, bóc lột, những người cùng khổ. Yêu thương con người còn được thể hiện trong mối quan hệ hàng ngày với những người đồng chí xung quanh, trong cuộc sống bình thường. Phải luôn nghiêm khắc với bản thân, nhưng rộng rãi độ lượng với ngươì khác. Điều đặc biệt là ở Người, yêu thương con người luôn luôn gắn với niềm tin vào con người, tin vào lương tri, tin vào lòng dũng cảm, tin vào sức sáng tạo của họ trong hành trình con người tự giải phóng lấy mình, để con người làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình. 4/ Người đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cá nhân và giai cấp, giữa dân tộc và quốc tế, giữa truyền thống và hiện đại tạo ra trong quan niệm về đạo đức cách mạng sự hài hòa về các mối quan hệ lợi ích. Theo Người, tinh thần quốc tế trong sáng thực chất là chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Người cho rằng nếu tinh thần yêu nước không chân chính, tinh thần quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn tới tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, hẹp hòi, sô vanh, biệt lập, kỳ thị chủng tộc. Từ rất sớm, Người đã chủ trương quan hệ với các quốc gia dân tộc và các tổ chức trên thế giới để thêm bạn, bớt thù. Quan điểm dân tộc đã được thổi vào thời đại, đã vượt qua biên giới quốc gia, hướng tới  mục tiêu độc lập, dân chủ, hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Cần nhấn mạnh là tuy có những cách định nghiã khác nhau về nội hàm các khái niệm đạo đức cách mạng, nhưng nhìn chung ở Người đều có sự nhất quán về tinh thần cách mạng và phương pháp tư duy. Từ các khái niệm, phạm trù của các tư tưởng đạo đức đã có từ trước như: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, đến cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; từ trung, hiếu, đến thiện, ác... bao giờ Người cũng có cách giải thích riêng về những chuẩn mực đạo đức phù hợp dễ hiểu, dễ chấp nhận với từng đối tượng, với mọi tầng lớp nhân dân: trí thức, quân đội, công an, công nhân, nông dân, phụ nữ, phụ lão, các cháu thiếu niên và nhi đồng... Đề cao đạo đức mới, Người đã thể hiện một tầm nhìn xa trông rộng về nhân cách con người. Những phẩm chất mà Người nêu ra là nhằm hướng con người tới cái thiện, cái tốt, cái cao cả, đồng thời ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện thoái hóa, biến chất có thể xảy ra, đặc biệt là chống khuynh hướng lạm dụng quyền lực để tham nhũng, lãng phí. Ngay cả trước khi qua đời, việc đầu tiên được đề cập đến trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân là nói về Đảng, việc đầu tiên khi đề cập đến Đảng là đạo đức, Người viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[7]. Tóm lại, từ bài viết đầu tiên trong tác phẩm Đường Kách Mệnh đến bản Di chúc cuối cùng, dù ở những thời điểm lịch sử khác nhau nhưng tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng đều có sức thuyết phục rất cao, có sức sống mạnh mẽ và có giá trị lâu bền. Bởi đó là sự thống nhất giữa lời nói, tư tưởng và hành động. Người đặt vấn đề đạo đức cách mạng từ lĩnh vực lý luận sang lĩnh vực thực tiễn, đưa đạo đức cách mạng vào chính sự nghiệp cách mạng, coi đó là một trong những nguyên tắc hoạt động cách mạng, phản ảnh các quan hệ mới về lợi ích tạo ra nền tảng vững chắc của chính quyền cách mạng nói chung và người cách mạng nói riêng./. Vận dụng tư tưởng hồ chí minh vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đảng ta. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết giữa các nền kinh tế, tham gia phân công lao động quốc tế, gia nhập các tổ chức kinh tế đa phương theo những quy định chung. Thông thường, trong điều kiện nền kinh tế không mở cửa hội nhập thì chỉ tăng trưởng với tốc độ tối đa là 4 đến 5% . Nhìn lại lịch sử cận đại của dân tộc, chúng ta thấm thía về cái giá của sự thiển cận mà vua quan triều Nguyễn phải trả đó là sự bế quan toả cảng, khước từ mọi lời tâu sáng suốt mà sứ giả Nguyễn Trường Tộ là một điển hình. Càng thấm thía hơn nhãn quan sắc sảo của Hồ Chủ Tịch . Ngay từ năm 1946, trong lời kêu gọi Liên hiệp quốc, Người đã nêu rõ chính sách đối ngoại của ta trong đó có những quan điểm đến bây giờ vẫn là nền tảng của chính sách đối ngoại của Đảng ta.  Hồ Chủ Tịch nêu, đối với các nước dân chủ, Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực : a. Nước Việt Nam dành sự thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các nghành kỹ nghệ của mình. b. Nước Việt nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế . c. Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hiệp quốc. Kế thừa và phát huy tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, trong công cuộc đổi mới đất nước (từ 1986), Đảng ta đã nhìn nhận sự cần thiết và khả năng hội nhập kinh tế quốc tế( HNKTQT) của Việt Nam. Công tác ngoại giao thời kỳ đổi mới được triển khai giữa lúc trên thế giới xu thế toàn cầu hoá và cùng với nó là xu thế HNKTQT diễn ra ngày càng sâu rộng; khoa học, công nghệ đang không ngừng phát triển, lực lượng sản xuất được quốc tế hoá cao độ. Nhận thức được điều đó, Việt Nam tham gia HNKTQT theo từng bước tuần tự, vững chắc. Các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII và IX đã ngày càng thể hiện rõ chủ trương đó. Đại hội VIII đã xác định nhiệm vụ: “ Phải mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, cũng cố và nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế”. Đến Đại hội IX, chủ trương này được khẳng định rõ hơn: “ Phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả bền vững“. Để cụ thể hoá thêm một bước tháng 11/2001 Bộ Chính trị ra Nghị quyết 07 về Hội nhập kinh tế quốc tế đã đề ra mục tiêu: “Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh CNH- HĐH“. Trên cơ sở đánh giá sâu sắc những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam thời gian tới, Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định: Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương sau khi gia nhập WTO: thực hiện các cam kết với các nước về thương mại tự do song phương với các nước, nhất là các nước lớn, ký các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương và khu vực. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước khu vực châu A - Thái Bình Dương. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng gia tăng, đan xen vì vậy, Đại hội X xác định một mặt, trong quá trình HNKTQT“ phải lấy lợi ích dân tộc làm chuẩn mực, làm thước đo để quyết định chủ trương, xác định chính sách”, mặt khác “không để vì quan hệ với nước này làm ảnh hưởng đến quan hệ giữa nước ta với nước khác”. Đây là bước tiến mới trong tư duy lý luận cũng như hoạch định các bước đi thích hợp của Đảng ta đối với HNKTQT Như vậy, đến Đại hội X chủ trương HNKTQT của Đảng ta đã có bước tiến xa hơn, sâu hơn, rộng hơn theo hướng chủ động, tích cực HNKTQT; hội nhập có định hướng theo lộ trình hợp lý nhằm phục vụ thiết thực cho CNH- HĐH đất nước. Nét mới ở đây là Đảng ta đã rút ra những bài học từ thực tiễn HNKTQT để chủ trương vừa nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ vừa giữ vững và củng cố môi trường hoà bình, hoà hiếu tạo điều kiện quốc tế thuận lợi nhất để phát triển kinh tế đất nước.Với những chủ trương đúng đắn, phù hợp xu thế quốc tế, hơn 20 năm qua kể từ năm 1986 chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế- xã hội. Đặc biệt, quá trình HNKTQT đã đưa lại những thành quả to lớn từ chỗ bị cô lập về chính trị, bao vây cấm vận về kinh tế, Việt Nam đã xác lập được vị thế và nâng cao uy tín của mình tại các diễn đàn quốc tế như Liên hiệp quốc, Phong trào Không liên kết, Hiệp hội các quốc gia Đông nam A( ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu A- Thái bình dương( APEC), Diễn đàn A - Âu (ASEM) ...từng bước đưa Việt Nam HNKTQT khu vực và thế giới. Mặt khác, đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với 169 nước ( đến 2005); có quan hệ buôn bán với 224/255 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ. Khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính lớn như WB, ADB, IMF gia nhập Hiệp hội thương mại thế giới (WTO). HNKTQT đã mở đường cho sự phát triển toàn diện, tăng sức cạnh tranh, góp phần tích cực tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng HNKTQT là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh và cạnh tranh; vừa có nhiều cơ hội nhưng cũng có những thách thức, khó khăn phức tạp. Để chủ động hội nhập đủ sức cạnh tranh trên trường quốc tế, Đảng ta đã tiến hành một loạt các giải pháp :  + Thứ nhất, Xây dựng, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật nhất là các luật, đạo luật liên quan đến kinh tế, thương mại, đầu tư nước ngoài . + Thứ hai, Xây dựng nguồn lực mà trước hết là nguồn lực con người, thực sự xem giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu nhằm đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, doanh nghiệp có kiến thức về kinh tế đối ngoại, kỹ năng và kinh nghiệm quản lý, ngoại ngữ và luật pháp cũng như thông lệ quốc tế nhằm hạn chế rủi ro khi tham gia HNKTQT. + Thứ ba, ổn định chính trị- xã hội, có chính sách đối ngoại linh hoạt, mềm dẽo, năng động tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. + Thứ tư, Xây dựng cơ sở hạ tầng mà trước hết là giao thông, điện, sân bay, bến cảng… để tạo sự hấp dẫn đầu tư đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế đất nước. Vận dụng linh hoạt và sáng tạo sách lược theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” mà Bác Hồ đã dạy, từ khi nước ta giành được độc lập đến nay chủ trương HNKTQT đã phản ánh nhất quán đường lối của Đảng ta là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế song phương cũng như đa phương. Để giảm bớt những thiệt thòi trong quá trình HNKTQT chúng ta cần ổn định về chính trị, tăng cường an sinh xã hội đặc biệt đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế để có thực lực vì không có thực lực hoạt động đối ngoại nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng sẽ gặp nhiều khó khăn, hạn chế trước những biến động khó lường của kinh tế thế giới và khu vực trong giai đoạn hiện nay.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTLKTV1156.doc
Luận văn liên quan