Đề tài Hoàn thiện và phát triển hoạt động kinh doanh thẻ Flexicard của ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu Petrolimex (PG Bank)

MỤC LỤC Lời nói đầu Chương 1 : Cơ sở lý luận về thẻ thanh toán của ngân hàng thương mại 3 1.1 Những vấn đề chung về thẻ thanh toán của ngân hàng thương mại 3 1.1.1 Hoạt động thanh toán và thẻ thanh toán 3 1.1.1.1 Hoạt động thanh toán 3 1.1.1.2 Thẻ thanh toán 5 1.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của thẻ 6 1.1.3 Vai trò của thẻ thanh toán 7 1.1.3.1 Đối với người sử dụng thẻ 7 1.1.3.2 Đối với cơ sở chấp nhận thẻ 8 1.1.3.3 Đối với ngân hàng 9 1.1.3.4 Đối với nền kinh tế và xã hội 10 1.1.4 Các loại thẻ thanh toán của ngân hàng thương mại 11 1.1.4.1 Theo đặc tính kĩ thuật 11 1.1.4.2 Theo tiêu thức chủ thể phát hành 11 1.1.4.3 Theo tính chất thanh toán 11 1.1.4.4 Theo hạn mức tín dụng 12 1.1.4.5 Theo phạm vi sử dụng 12 1.2 Hoạt động kinh doanh thẻ tại ngân hàng thương mại 12 1.2.1 Các chủ thể tham gia 12 1.2.1.1 Ngân hàng phát hành 12 1.2.1.2 Ngân hàng thanh toán 12 1.2.1.3 Chủ thẻ 12 1.2.1.4 Cơ sở chấp nhận thẻ 13 1.2.1.5 Tổ chức thẻ quốc tế 13 1.2.2 Nghiệp vụ phát hành thẻ 13 1.2.3 Nghiệp vụ thanh toán thẻ 14 1.2.4 Rủi ro trong kinh doanh thẻ của ngân hàng thương mại 15 1.2.5 Thẻ thanh toán ở Việt Nam hiện nay 17 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng để phát triển hoạt động kinh doanh thẻ tại ngân hàng thương mại 19 1.3.1 Các chỉ tiêu phản ánh hoạt động kinh doanh thẻ 19 1.3.1.1 Số lượng thẻ phát hành 19 1.3.1.2 Thu nhập từ hoạt động phát hành thẻ 19 1.3.1.3 Doanh số thanh toán thẻ 19 1.3.1.4 Thu nhập từ thanh toán thẻ 19 1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển hoạt động kinh doanh thẻ 20 1.3.2.1 Nhân tố khách quan 20 1.3.2.3 Nhân tố chủ quan 21 Chương 2 : Thực trạng hoạt động kinh doanh thẻ Flexicard của ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu Petrolimex (PG Bank) 22 2.1 Một vài nét cơ bản về ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu Petrolimex 22 2.1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu Petrolimex 22 2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu Petrolimex trong những năm gần đây 23 2.1.2.1 Tình hình nguồn vốn 23 2.1.2.2 Tình hình tài sản 28 2.1.2.3 Các hoạt động dịch vụ ngân hàng khác 31 2.2 Hoạt động kinh doanh thẻ Flexicard 32 2.2.1 Giới thiệu chung về hoạt động kinh doanh thẻ tại PG Bank 32 2.2.2 Giới thiệu về thẻ Flexicard 32 2.2.3 Quy trình phát hành và thanh toán thẻ Flexicard 33 2.2.3.1 Quy trình phát hành thẻ 33 2.2.3.2 Quy trình thanh toán thẻ 35 2.2.4 Thực trạng kinh doanh thẻ Flexicard 36 2.2.4.1 Số lượng thẻ phát hành 36 2.2.4.2 Thu nhập từ hoạt động phát hành thẻ 38 2.2.4.3 Thu nhập từ hoạt động sử dụng thẻ 39 2.3 Đánh giá về hoạt động kinh doanh thẻ tại PG Bank 40 2.3.1 Những kết quả đạt được 41 2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 42 Chương 3 : Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh thẻ Flexicard 46 3.1 Triển vọng thị trường thẻ tại Việt Nam 46 3.2 Chiến lược kinh doanh thẻ của PG Bank 48 3.2.1 Khó khăn 48 3.2.2 Thuận lợi 51 3.2.3 Chiến lược kinh doanh thẻ của PG Bank 52 3.3 Các giải pháp nhằm mở rộng kinh doanh thẻ Flexicard 52 3.3.1 Hoàn thiện và đơn giản hóa quy trình phát hành 52 3.3.2 Xây dựng một chiến dịch quảng cáo rộng rãi 53 3.3.3 Đưa ra một chi phí sử dụng thẻ hợp lý 54 3.3.4 Nâng cao trình độ đội ngũ nhân viên ngân hàng cũng như ở các đơn vị chấp nhận thẻ của PG Bank. 54 3.3.5 Mở rộng mạng lưới của các đơn vị chấp nhận thẻ 55 3.4 Một số kiến nghị nhằm phát triển hoạt động phát hành và thanh toán thẻ Flexicard 56 3.4.1 Với ngân hàng Nhà Nước 56 3.4.1.1 Đưa ra những chiến lược phát triển chung của toàn hệ thống ngân hàng thương mại 56 3.4.1.2 Đưa ra các chính sách khuyến khích việc mở rộng hoạt động kinh doanh thẻ. 57 3.4.2 Với chính phủ 58 3.4.2.1 Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về thẻ thanh toán 58 3.4.2.2 Tạo môi trường kinh tế xã hội ổn định 59 3.4.2.3 Tăng cường đầu tư cho giáo dục 59 3.4.2.4 Tích cực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng 61 Kết luận 62 Tài liệu tham khảo 64

doc70 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2638 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện và phát triển hoạt động kinh doanh thẻ Flexicard của ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu Petrolimex (PG Bank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng. PG Bank đang dần dần từng bước cải thiện để nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ kinh doanh thẻ, đưa Flexicard trở thành một thói quen tiêu dùng của người dân. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ FLEXICARD 3.1 Triển vọng thị trường thẻ tại Việt Nam Nền kinh tế Việt nam là nền kinh tế đang phát triển khá ổn định, hệ thống ngân hàng thương mại cũng đang dần dần thay đổi cho phù hợp với xu thế hiện tại, đặc biệt là việc thanh toán ngân hàng,đưa những phương thức thanh toán hiện đại của thế giới tiếp cận với thị trường Việt Nam. Trong bối cảnh đó chắc chắn sẽ có nhiều nhân tố tích cực cho việc phát triển thẻ thanh toán của các ngân hàng thương mại. Trước hết, công nghệ tin học đang có điều kiện phát triển và ứng dụng rộng rãi ở Việt Nam. Đây là một cơ sở tốt để tạo ra sự phát triển của dịch vụ thẻ thanh toán. Nhận thức cũng như kiến thức của xã hội về công nghệ cũng sẽ thay đổi theo hướng tích cực hơn. Tuy vẫn là nước có mức thu nhập bình quân thấp, khoảng cách về thu nhập giữa các nhóm dân cư vẫn còn lớn nhưng chắc chắn bộ phận dân cư có mức thu nhập cao sẽ ngày càng tăng lên. Thêm vào đó, ngoài việc kiến thức xã hội về công nghệ được phát triển một cách tự nhiên cùng với quá trình hội nhập và bước tiến của khoa học cũng có nhiều thay đổi tiến bộ theo hướng thuận lợi cho ứng dụng sản phẩm mang tính công nghệ như dịch vụ thẻ thanh toán. Hiện nay, dân cư các đô thị Việt Nam chiếm khoảng 25 - 30% dân số trong cả nước, trong đó có một tỷ lệ cao những người đang học tập và công tác ở độ tuổi dưới 45 có những kiến thức cơ bản về tin học và khả năng tiếp nhận dịch vụ mới dựa trên nền tảng công nghệ. Như vậy, sau 5 - 7 năm nữa, đối tượng có khả năng tiếp nhận sản phẩm mới sẽ được mở rộng ra lứa tuổi dưới 50 - 52 tuổi và chiếm tỷ trọng lớn trong những người trong độ tuổi lao động ở thành thị. Cùng với thu nhập tăng, quỹ chi tiêu thường ngày của người dân cũng tăng tạo điều kiện cho họ dễ dàng chấp nhận sử dụng những dịch vụ ngân hàng và phương tiện thanh toán mới. Việc ra đời phương thức thanh toán điện tử là nhằm giảm áp lực việc lưu thông tiền mặt trên thị trường. Với phương thức thanh toán điện tử, các giao dịch được giải quyết qua hệ thống ngân hàng thông qua hình thức chuyển khoản qua đó giúp mọi người tiết kiệm được về thời gian, chi phí đi lại. Đến nay, số đông người dân sống ở các thành phố lớn đã quen dần với việc sử dụng ATM để cất giữ khoản tiền thu nhập hàng tháng. Với thẻ ATM mọi người đã có thể dễ dàng thực hiện việc rút tiền, gửi tiền cho người khác ngay trên máy ATM. Nhưng cùng với sự phát triển của công nghệ thì dừng lại ở thẻ ATM là chưa đủ. Xu hướng của các nước trên thế giới là việc áp dụng một loại thẻ đa tiện ích, nhiều chức năng trong cùng một tấm thẻ. Điều này sẽ làm tăng uy tín của ngân hàng, cạnh tranh được trên thị trường và bắt kịp với xu hướng chung của thời đại. Nó đáp ứng được nhu cầu trao đổi hàng hóa giống như bất kỳ hình thức nào trước đây. Nhờ có sự phát triển của hệ thống ngân hàng trong bối cảnh toàn cầu hóa, thẻ thanh toán có thể được chấp nhận một cách rộng rãi. Bên cạnh đó, việc cầm một tấm thẻ thanh toán hình chữ nhật nhỏ gọn và thuận tiện hơn nhiều so với việc chúng ta sử dụng hóa tệ như trước đây. Về bản chất, thẻ thanh toán cũng giống tín tệ ở chỗ bản thân nó không có giá trị nhưng nó mang giá trị của hàng hóa mà nó có thể đại diện. Giá trị của hàng hóa mà nó đại diện nằm trong những con số thể hiện trong tài khoản điện tử. Nhưng chúng ta phải công nhận rằng thẻ thanh toan nhỏ gọn hơn cả tín tệ mà chúng ta vẫn đang sử dụng. Nếu giá trị giao dịch nhỏ, lượng tín tệ chúng ta mạng theo không đáng để quan tâm nhưng nếu với giá trị giao dịch lớn thì lượng tiền mặt mà chúng ta phải mang theo thực sự là một vấn đề đáng để bận tâm.Tính nhỏ gọn của thẻ thanh toán được thừa kế từ bút tệ, cũng là một hình thức tiền tệ giao dịch thông qua tài khoản ngân hàng. Tuy nhiên, việc sử dụng bút tệ đòi hỏi một khối lượng sổ sách cực lớn để quản lý tài khoản của người sử dụng. Nếu bạn viết một tấm Séc, bạn cũng phải cần thời gian để chờ ngân hàng kiểm tra sau đó mới thực hiện giao dịch của bạn được, công việc này mất khoảng vài ngày, và điều này trở thành nhược điểm của bút tệ nếu bạn cần thanh toán gấp cho một món hàng hóa có giá trị lớn mà bạn không mang theo đủ tiền mặt. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuât và công nghệ ngân hàng, thẻ thanh toán ra đời cũng là để khắc phục nhược điểm trên của bút tệ. Các giao dịch của bạn được quản lý bởi hệ thống tài khoản điện tử giúp vấn đề quản lý tài khoản nhanh chóng và gọn gàng giúp cho quá trình thanh toán được diễn ra nhanh chóng. Tại Việt Nam, sự đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của các ngân hàng trong thời gian qua đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển của dịch vụ thẻ ngân hàng. Theo Chỉ thị 58/CT-TW của Bộ chính trị, các ngân hàng đã tích cực đổi mới hệ thống công nghệ, triển khai chuẩn hoá các hệ thống core-banking, phát triển các sản phẩm và ứng dụng những công nghệ mới đạt tiêu chuẩn quốc tế vào hoạt động kinh doanh ngân hàng. Theo đó, sản phẩm thẻ của các ngân hàng Việt Nam đã có những bước tiến nhảy vọt. Nếu năm 2001 trên toàn Việt Nam mới chỉ có khoảng 15.000 thẻ quốc tế, 3.000 thẻ nội địa và khoảng 20 máy ATM, thì đến thời điểm cuối 2003 các ngân hàng đã phát hành được 84.000 thẻ quốc tế và hơn 280.000 thẻ nội địa, triển khai trên 300 máy ATM tại gần 30 tỉnh thành cả nước. Doanh số sử dụng của tất cả các loại thẻ đạt mức hơn 4.000 tỷ VNĐ, doanh số thanh toán thẻ quốc tế đạt hơn 270 triệu USD. Dịch vụ thẻ ngân hàng là một dịch vụ được phát triển dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế của các ngân hàng. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, không phải ngân hàng nào cũng có đầy đủ điều kiện về hệ thống kỹ thuật, nghiệp vụ và nhân sự để triển khai dịch vụ thẻ. Chính vì vậy, sự hợp tác giữa các ngân hàng với phương châm “hợp tác vì sự phát triển của thị trường” chắc chắn sẽ giúp nhiều ngân hàng đưa dịch vụ thẻ đến với khách hàng, từng bước xã hội hoá dịch vụ thẻ, giúp người dân làm quen với thanh toán không dùng tiền mặt, đặt nền móng xây dựng một nền “văn minh thanh toán” tại Việt Nam. Môi trường thương mại cũng sẽ thay đổi tích cực hơn với sự ra đời của các trung tâm thương mại, dịch vụ, siêu thị, các cửa hàng tự chọn sẽ làm thay đổi tập quán người tiêu dùng, tạo điều kiện để ứng dụng các cộng cụ thanh toán không dùng tiền mặt. Hơn nữa về mặt pháp lý, môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi, chính phủ đang rất khuyến khích việc thanh toán không dùng tiền mặt nên thẻ thanh toán đang là đối tượng dễ dàng phát triển hơn trong thời gian tới. 3.2 Chiến lược kinh doanh thẻ của PG Bank Như trên đã phân tích thì thị trường thẻ tại Việt Nam có tiềm năng phát triển rất lớn. Tuy vậy để khai thác thị trường từ tiềm năng đến thực tế là việc không hề dễ dàng. Với PG Bank cũng không phải ngoại lệ.Khi bước chân vào thị trường thẻ, PG Bank có rất nhiều thuận lợi cũng như phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. 3.2.1 Khó khăn Ngay từ những năm đầu đổi mới hoạt động ngân hàng, các ngân hàng trong nước đã tiếp cận với các nghiệp vụ về thẻ tín dụng quốc tế. Việc tiếp nhận công nghệ mới và hiện đại này phù hợp với chủ trương đổi mới hoạt động của ngành và phù hợp với xu hướng của thế giới.Các ngân hàng lớn ở Việt Nam như Vietcombank, BIDV, Vietinbank,… đã bắt đầu tham gia vào thị trường thẻ từ những năm 1993 – 1995. Trong khi đó sản phẩm thẻ Flexicard của PG Bank mới xuất hiện từ năm 2009, thời điểm mà thị phần thẻ của các ngân hàng lớn đã tương đối ổn định. Để có được thị trường tiêu thụ cho Flexicard, PG Bank sẽ phải nỗ lực rất nhiều. Hơn nữa uy tín ngân hàng là điều vô cùng quan trọng. PG Bank là ngân hàng đang trong quá trình khẳng định tên tuổi, trong khi các ngân hàng lớn tại Việt Nam không những thị trường ổn định mà còn có uy tín từ lâu. Do đó để cạnh tranh được là điều không đơn giản. Thói quen tiêu dùng của người dân Việt Nam vẫn là thích dùng tiền mặt để thanh toán hàng hóa dịch vụ nên việc chuyển sang thanh toán qua thẻ sẽ phải mất một thời gian dài. Đại bộ phận dân cư của ta vẫn còn quá lạ lẫm với những tài khoản cá nhân, thẻ tín dụng mà họ đã quen sử dụng tiền mặt (trên 80% cư dân không có tài khoản thanh toán). Thậm chí trong một số giao dịch cũng được ghi chú "trả bằng tiền mặt" đã vô hình trung tạo hình thức thanh toán này nắm vị trí "độc tôn".Theo ông Phùng Đắc Lộc - Tổng Thư ký Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam thì: "Dịch vụ sử dụng các loại giao dịch không bằng tiền mặt quá phiền phức, tốn kém nên người ta phải dùng đến cách thức là thanh toán bằng tiền mặt".Đó cũng là một nguyên nhân gây ra thói quen tiêu dùng kém tích cực này. Ngoài ra, thu nhập cũng là yếu tố tác động lớn đến thói quen này. Khi thu nhập ở mức độ cao thì người ta sẽ quan tâm đến việc tiêu dùng thẻ bởi sự tiện nghi, nhanh chóng và nhỏ gọn của nó. Tuy nhiên nếu thu nhập ở mức độ đủ dùng thì mọi người thích chi tiêu “tiền ngay thóc thật” hơn là việc dùng thẻ thanh toán. Bởi nó tạo ra sự rườm rà cho người sử dụng. Về tên tuổi cũng như kinh nghiệm trong thị trường ngân hàng chưa cao nên người tiêu dùng còn khá dè dặt với các sản phẩm của PG Bank. Do cẩn trọng, nhiều người vẫn thích sử dụng các dịch vụ của những ngân hàng quen thuộc, tên tuổi lớn trên thị trường. Chính thức tham gia vào thị trường với tư cách là một ngân hàng đô thị mới được 5 năm. Đó chưa phải là quãng thời gian quá dài để PG Bank khẳng định thương hiệu của mình. Ngân hàng đã đạt được một số thành công nhất định như 2 năm liền, năm 2008 và 2009 PG Bank đều đạt giải thưởng "Thương mại dịch vụ Việt Nam - Top Trade Services”. Đây là giải thưởng có uy tín do Bộ Công thương tổ chức hàng năm nhằm vinh danh những thương hiệu hoạt động trong lĩnh vực Dịch vụ Tài chính. Song ngân hàng sẽ còn phải mất một thời gian dài nữa để dần dần thu hút được khách hàng. Thẻ Flexicard là một công cụ thẻ nhiều tiện ích và hiện đại, PG Bank sẽ phải đầu tư một lượng lớn trang thiết bị cũng như đào tạo các cán bộ để sử dụng thành thạo máy móc. Việc này sẽ tốn một nguồn vốn khá lớn. So với các ngân hàng trong hệ thống thì PG Bank là một trong số các ngân hàng khá khiêm tốn về vốn điều lệ. Cụ thể có bảng so sánh sau: Bảng tổng kết vốn điều lệ một số ngân hàng ở Việt Nam tính đến tháng 12/2009 Đơn vị : tỷ đồng STT Ngân hàng Vốn điều lệ 1 TMCP Xăng Dầu Petrolimex (PG Bank) 1000 2 TMCP Sài Gòn thương tín (Sacombank) 6700 3 TMCP Á Châu (ACB) 7705 4 TMCP Quân Đội (MB) 2400 5 TMCP An Bình (Anbinh Bank) 2705 6 TMCP Dầu khí toàn cầu (GP Bank) 1000 7 TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Eximbank) 7219 8 TMCP Hàng Hải(The Maritime Bank) 2240 9 TMCP Gia Định (Giadinh Bank) 1000 10 TMCP Kĩ Thương Việt Nam (Teachcombank) 3642 11 TMCP Liên Việt (Lienviet Bank) 3300 12 TMCP Miền Tây (Western Bank) 1000 13 TMCP Ngoài quốc doanh (VP Bank) 2117 14 TMCP Bảo Việt (Baoviet bank) 1500 15 TMCP nhà Hà Nội (Habubank) 2800 16 TMCP Việt Á (Vietabank) 1359 17 TMCP Đông Nam Á (Seabank) 4068 18 TMCP Tiên Phong (Tienphong Bank) 1000 (Nguồn Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam www.sbv.gov.vn ) Biểu đồ vốn điều lệ một số ngân hàng TMCP Việt Nam tính đến 12/2009 Qua sự so sánh ở trên, trong hệ thống các ngân hàng thương mại cổ phần hiện nay, PG Bank đang đứng vào nhóm ngân hàng có số vốn thấp nhất trong hệ thống. Trong năm 2009 ngân hàng buộc phải tăng vốn điều lệ lên 3000 tỷ đồng để đáp ứng được quy định của ngân hàng Nhà nước. Do vậy vị thế của PG Bank vẫn chưa cao trên thị trường cũng là điều không khó giải thích. Cuối cùng, một khó khăn nữa với PG Bank là cung cấp thẻ đa tiện ích mặc dù là xu thế. Tuy vậy các ngân hàng khác cũng đang cố gắng chạy đua vào lĩnh vực này. Như đã nêu, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Jetstar Pacific cũng đã thành công trong việc ứng dụng tiện ích thanh toán tiền vé máy bay thông qua hệ thống gần 1.000 máy ATM của BIDV. Đây là ngân hàng thứ hai cùng với Jetstar Pacific ứng dụng thành công công nghệ này, giúp hành triệu hành khách thanh toán mua vé máy bay rất dễ dàng qua các dịch vụ thẻ. Trong khi đó, ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế (VIB) cùng với công ty Mobivi và công ty du lịch Viettravel triển khai hình thức thanh toán tour trực tuyến bằng Ví điện tử Mobivi. Ngoài Viettravel, VIB đã ký với gần 20 doanh nghiệp khác để triển khai loại hình này. Như vậy, điều dễ nhận thấy là sau một thời gian tập trung phát triển tài khoản và thẻ thanh toán cá nhân về số lượng, hiện các ngân hàng Việt Nam đã chú ý nhiều hơn đến việc tăng cường các ứng dụng tiện ích thực tế trên thẻ. Ban đầu là những dịch vụ đơn giản như thanh toán thẻ điện thoại, tiền điện nước… rồi đến trả lương, nộp thuế qua ngân hàng; các ngân hàng còn tích hợp các sản phẩm tài chính để biến một chiếc thẻ và tài khoản của nhà đầu tư không chỉ dùng để thanh toán mà nhiều hoạt động đầu tư tài chính…Với các ứng dụng này, chiếc thẻ ATM đã dần thoát khỏi nhiệm vụ duy nhất là rút tiền như từ trước đến nay. Nhưng đó lại là dấu hiệu cho một cuộc chạy đua mới của ngành ngân hàng. 3.2.2 Thuận lợi Khó khăn là rất lớn. Tuy vậy, bên cạnh những khó khăn đó thì việc phát triển thẻ Flexicard cũng có rất nhiều thuận lợi. Thẻ Flexicard là một loại thẻ đặc biệt, tích hợp nhiều tính năng hiện đại, đem lại thuận tiện cho người sử dụng, chưa có ở trên thị trường thẻ Việt Nam nên sẽ tạo ra sự khác biệt hơn hẳn so với các loại thẻ khác. Thẻ Flexicard với hai tính năng kết hợp trên cùng một tấm thẻ (ghi nợ và thẻ trả trước) mang đến nhiều tiện ích và linh hoạt khi sử dụng.Với Flexicard khách hàng có thể lựa chọn tính năng trả trước hoặc ghi nợ để thanh toán cho các loại chi phí, dịch vụ của mình mà không cần quan tâm tới các hình thức gian lận thẻ, bởi Flexicard ứng dụng công nghệ thẻ hiện đại nhất hiện nay - công nghệ thẻ Chip không tiếp xúc, có thể giảm thiểu tối đa việc ăn cắp và sao chép dữ liệu, mang lại độ bảo mật, an toàn cao khi sử dụng cùng các chương trình khuyến mại, chương trình tích lũy điểm thưởng đổi quà tặng của ngân hàng và của đối tác. Hiện nay trên thị trường Việt Nam, sản phẩm thẻ Flexicard là loại thẻ duy nhất dùng để thanh toán tiền xăng dầu. Cổ đông lớn của PG Bank là Petrolimex đã tận dụng tối đa những thế mạnh của mình – là một đơn vị nhập khẩu xăng dầu lớn nhất cả nước, chiếm hơn 60 % thị phần để giúp đỡ cho thẻ Flexicard đến tay người tiêu dùng dễ dàng hơn. Là doanh nghiệp nhà nước trọng yếu, được xếp hạng đặc biệt, có quy mô toàn quốc, bảo đảm 60% thị phần xăng dầu cả nước, Petrolimex luôn phát huy vai trò chủ lực, chủ đạo bình ổn và phát triển thị trường xăng dầu, các sản phẩm hoá dầu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.Một đầu mối nhập khẩu xăng dầu lớn, mạng lưới rộng khắp, phủ kín tất cả các tỉnh thành trên cả nước với hơn 1800 cửa hàng xăng dầu, đây là lợi thế lớn khi PG bank phát hành thẻ Flexicard. Có thể nói rằng lợi thế này không một ngân hàng nào của Việt nam có thể có được. Là ngân hàng đi sau trong lĩnh vực kinh doanh thẻ tại Việt Nam, PG bank có thể học hỏi được những kinh nghiệm của các ngân hàng đi trước. người đi sau bao giờ cũng có được những kinh nghiệm trước đó. Những bài học lớn khi phát triển dịch vụ thẻ tại Việt Nam luôn được ngân hàng tham khảo.Ví như sự cố thẻ ATM hết tiền vẫn rút được tiền tỷ của Eximbank, các máy ATM của Vietcombank đồng loạt bị dừng hoạt động sau tết năm 2008, hay như việc giải quyết các khiếu nại liên quan đến thẻ thanh toán của các ngân hàng khác,… Tất cả đều là những kinh nghiệm quý bấu giúp cho sản phẩm thẻ của PG bank hoàn thiện hơn. Việc thanh toán không dùng tiền mặt đang là một xu hướng được chính phủ hết sức khuyến khích, việc này sẽ tạo điều kiện về mặt pháp lý cho thẻ Flexicard phát triển. Đó là nghị định số 91/CP của Chính phủ ra ngày 25/11/1993, đây có thể coi như nghị định đầu tiên về vấn đề thanh toán không dùng tiền mặt. Tiếp nữa là quyết định của Thủ tướng chính phủ phê duyệt đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2020 tại Việt Nam ngày 29/12/2006. Đó là những nền tảng cơ bản của việc thanh toán không dùng tiền mặt. 3.2.3 Chiến lược kinh doanh thẻ của PG Bank Trước rất nhiều thuận lợi và khó khăn trên, PG Bank đã vạch ra cho mình những chiến lược lâu dài, những cách thức kinh doanh thẻ để phát triển thẻ Flexicard một cách rộng rãi. Cụ thể như sau : Tạo ra sự khác biệt cho thẻ Flexicard không chỉ về mặt tiện ích mà còn cả về chất lượng phục vụ. Yếu tố cạnh tranh về chất lượng đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thu hút khách hàng. Thiết lập các mối quan hệ mới cũng như củng cố các mối quan hệ đã có, đặc biệt là tận dụng mối quan hệ của các cổ đông chính là Petrolimex và SSI để tìm kiếm các hợp đồng cung cấp dịch vụ thẻ mới. Đào tạo một đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, sử dụng thành thạo các máy móc cũng như xử lý công việc nhanh nhất để đem lại sự hài lòng cho khách hàng. Hướng tới trong tương lai sẽ phát hành thẻ công ty để tiếp cận với một thị trường tiêu dùng mới đa dạng hơn. Trên đây là những chiến lược mà ban lãnh đạo PG bank đã đặt ra khi đưa thẻ Flexicard ra thị trường. Để thực hiện tốt những chiến lược nêu trên, ngân hàng cần nhiều thời gian hơn nữa để tự khẳng định tên tuổi cũng như phát huy tối đa thế mạnh của mình. Mặt khác khi thực sự bắt tay vào việc kinh doanh thẻ sẽ nảy sinh nhiều vấn đề bất cập cần phải giải quyết. Dưới đây là một số giải pháp của riêng cá nhân tôi, sau quá trình tìm hiểu về thực trạng kinh doanh thẻ của PG Bank. 3.3 Các giải pháp nhằm mở rộng kinh doanh thẻ Flexicard 3.3.1 Hoàn thiện và đơn giản hóa quy trình phát hành Việc phát hành thẻ Flexicard trả trước vô danh và định danh thủ tục khá đơn giản, khách hàng có thể mua thẻ ngay tại các đơn vị chấp nhận thẻ hoặc tại các đại lý bán thẻ của PG bank. Nhưng để có một tấm thẻ Flexicard với đầy đủ tính năng thì quá trình thẩm định hồ sơ khách hàng còn chậm. Nếu rút gọn được quá trình này, có thể cấp thẻ cho khách hàng trong thời gian 3 ngày làm việc thay vì 5-10 ngày như hiện nay sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng. Ngoài ra, những bất cập trong phát hành thẻ cũng cần được nhìn nhận và phải khắc phục những thủ tục phiền hà trong phát hành thẻ tại chi nhánh phát hành như thủ tục tiếp nhận hồ sơ, trong đó có cả đơn xin phát hành có sự phê duyệt của giám đốc chi nhánh, thủ tục lưu giữ hồ sơ… Quá trình này cần sửa đổi, đơn giản hoá để dễ dàng thuận lợi cho khách hàng nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn, hiệu quả của quá trình thẩm định. 3.3.2 Xây dựng một chiến dịch quảng cáo rộng rãi Hiện nay thẻ có kết hợp nhiều tính năng còn là một phương tiện thanh toán tương đối mới ở Việt Nam. Vì vậy, rất cần quảng cáo, tiếp thị cho sản phẩm thẻ đến mọi đối tượng khách hàng hàng khác nhau. Trong khi đó, khâu marketing thẻ của PG Bank còn chưa hiệu quả. Mặc dù ngân hàng cũng đã đưa ra 4 đợt mua xăng dầu với giá khuyến mại bằng thẻ Flexicard, cũng như chương trình khách hàng thân thiết có giá trị giải thưởng lớn. Tuy nhiên chiến dịch quảng cao chưa thực sự mạnh mẽ. Cần phải có những đợt quảng cáo rầm rộ hơn nữa để đưa sản phẩm gần gũi hơn với người tiêu dùng. Hơn nữa đại đa số người tiêu dùng và phần lớn người cung cấp dịch vụ, tiện ích trong nước đều chưa quen loại hình thanh toán bằng thẻ thay cho tiền mặt. Thẻ mới chỉ phổ biến trong một số ít dân cư, chủ yếu là cán bộ ngân hàng, quan chức chính phủ, những người có người thân sinh sống, học tập và làm việcở nước ngoài, và một số ít trí thức. Vì vậy, muốn cho thẻ được sử dụng rộng rãi thì rất cần có một chiến lược marketing thẻ với các chính sách tiếp thị, quảng cáo, khuyến mại mạnh mẽ… đến mọi tầng lớp dân cư. Đầu tư cho quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, đài phát thanh, truyền hình…) hay các panô quảng cáo trên đường phố. Làm các chương trình tìm hiểu cũng như giải đáp thắc mắc về thẻ trên truyền hình, phổ biến kiến thức về thẻ cho mọi đối tượng dân cư. Đồng thời, PG Bank cũng nên thực hiện các hoạt động tài trợ cho các cuộc thi kiến thức, trò chơi kinh tế…để nhân đó truyền bá về thẻ cũng như các dịch vụ khác của ngân hàng. Ngoài ra, công nghệ thông tin phát triển, Internet cũng là một phương tiện hữu hiệu để quảng cáo cho sản phẩm thẻ. PG Bank cũng nên tăng cường việc tiếp cận, khuyến mại để quảng cáo về sử dụng thẻ cho những đối tượng khách hàng tiềm năng như các công ty lớn, công ty liên doanh, các văn phòng đại diện nước ngoài ở Việt Nam…, phối hợp với họ để phát hành một số lượng thẻ lớn cho nhân viên của họ với các điều kiện ưu đãi hơn như việc kí hợp đồng với tập đoàn Mai Linh vừa qua. Tuy vậy, quảng cáo cũng cần có những chiến lược cụ thể. Có thể khẳng định trong trường hợp ngân hàng thương mại hiện nay đang cố gắng xây dựng thương hiệu của mình thông qua các hoạt động truyền thông, tiếp thị ồ ạt. Ít nhất là trong giai đoạn khẳng định tên tuổi để nâng cao giá trị cổ phiếu chẳng hạn. Có chăng vung tiền nhiều thì sẽ thu lợi nhiều? Câu trả lời đôi khi không phải vậy. Tuy nhiên, cũng sẽ thật kiên cưỡng khi nhà quảng cáo mà không biết tạo cho mình một chỗ đứng “trong tâm trí người tiêu dùng”. Vì thế PG Bank nên quảng cáo sao cho sản phẩm của mình có một nét đặc biệt riêng, dễ nhớ, dễ nhận biết, tránh quảng cáo nhiều mà lại không đọng lại gì trong tâm trí người tiêu dùng. PG Bank cũng cần tham gia tích cực vào các hoạt động từ thiện cùng với các chương trình từ thiện của Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam Petrolimex, hàng năm các cán bộ nhân viên nên đóng góp vào quỹ xã hội từ thiện của ngân hàng để thực hiện các hoạt động xã hội, cử cán bộ đến địa phương để thăm hỏi động viên, hỗ trợ và ủng hộ tiền, vật phẩm, quần áo đối với đồng bào có hoàn cảnh khó khăn cần giúp đỡ, tích cực tham gia ủng hộ đồng bào bị thiên tai.. Bên cạnh đó, chi nhánh PG Bank tại các địa phương cũng nên tổ chức các chương trình từ thiện giúp đỡ các trường hợp khó khăn, tổ chức khám chữa bệnh, tặng thuốc miễn phí cho nhân dân tại nơi chi nhánh đóng trụ sở. Như vậy uy tín của PG bank sẽ được khẳng định hơn, thương hiệu PG Bank sẽ trở nên gần gũi hơn với người tiêu dùng. 3.3.3 Đưa ra một chi phí sử dụng thẻ hợp lý Hiện nay thẻ Flexicard còn phải chịu khá nhiều loại phí khác nhau, ngân hàng nên đưa ra một mức chi phí cũng như lãi suất hợp lý để tăng thêm khả năng cạnh tranh của loại thẻ này trên thị trường. PG Bank cũng nên tham khảo mức phí áp dụng hiện nay ở các ngân hàng khác để có được một mức phí hợp lý mà vẫn cạnh tranh. Việc áp dụng phí làm thêm thu nhập cho ngân hàng nhưng cũng có thể làm cho việc tiêu dùng thẻ trở nên đắt hơn so với việc dùng tiền mặt, người dân sẽ đắn đo hơn và khó có thể hình thành thói quen dùng thẻ trong thanh toán. Đề xuất “nhỏ” của Hội thẻ về việc thu phí giao dịch qua thẻ ATM (vào năm 2011 thay vì năm 2010 này) vẫn khiến dư luận ồn ào lên tiếng. Bởi lâu nay dù thẻ ATM đã hiện hữu trong ví của nhiều người dân thuộc nhiều tầng lớp trong xã hội nhưng dịch vụ ATM vẫn chưa đủ khiến người dân cảm thấy cần nó đến mức không thể thiếu. Khi một số ngân hàng trong nước có ý định thu phí sử dụng ATM đã vấp phải một sự phản đối rất gay gắt từ phía người dân. Cũng từ những dịch vụ này mà ngày Quốc tế người tiêu dùng năm 2010 đã có chủ đề “dịch vụ tài chính” với khẩu hiệu “Tiền của chúng ta, Quyền của chúng ta”, trong đó vấn đề sử dụng thẻ ATM được bàn đến khá nhiều. Hai vấn đề đáng nói là sự hiểu biết của người tiêu dùng về dịch vụ này và những bất cập do dịch vụ của ngân hàng. Ông Đỗ Gia Phan, Phó Chủ tịch Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ Người tiêu dùng Việt Nam cho rằng: “ Với chủ trương trả lương qua thẻ ATM đã giúp nhiều người dân trong xã hội được biết đến dịch vụ dùng thẻ này hơn nhưng sự cố về thẻ xảy ra rất nhiều như giao dịch không thành công dẫn đến mất tiền, bị đánh cắp số PIN gây mất tiền trong tài khoản, bị “nuốt” thẻ, máy ATM bị quá tải, không phục vụ kịp thời khách hàng trong thời gian cao điểm và đặc biệt là người giao dịch phải trả phí cho ngân hàng…là những bất cập khiến người tiêu dùng chưa mặn mà với thẻ ATM…”. (theo báo điện tử www.bsc.com.vn). Do vậy PG Bank cần cạnh tranh về phí giao dịch, sao cho người tiêu dùng thấy việc nộp phí là điều hợp lý. Theo ý kiến cá nhân, giảm thu phí, mức phí đưa ra đủ hợp lý, cùng với công tác nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ thẻ cung ứng. Khi khách hàng được hưởng những tiện ích tối đa từ thẻ thì việc mất phí sẽ không phải là vấn đề khó để giải quyết. 3.3.4 Nâng cao trình độ đội ngũ nhân viên ngân hàng cũng như ở các đơn vị chấp nhận thẻ của PG Bank. Sau một thời gian khi mà thẻ Flexicard được phát hành, khá nhiều phản hồi của khách hàng cho rằng hoạt động thanh toán bằng thẻ phiền phức hơn nhiều so với việc đưa tiền mặt. Phần lớn là vì nhân viên tại các đơn vị chấp nhận thanh toán mà chủ yếu là tại các cửa hàng xăng dầu chưa quen với việc sử dụng máy móc trong thanh toán nên làm cho quá trình thanh toán bị chậm đi, gây ảnh hưởng không tốt cho quá trình phát triển kinh doanh thẻ. Để khắc phục được tình trạng này thì PG Bank nên mở các lớp đào tạo ngắn cho đội ngũ nhân viên tại các cửa hàng xăng dầu để họ làm quen hơn với việc sử dụng máy POS. Với đội ngũ nhân sự của ngân hàng cũng cần có một chính sách đào tạo hợp lý. Tính đến 31/12/2009, tổng số cán bộ nhân viên của PG Bank là 867 người, trong số đó trình độ trên đại học là 6%, trình độ đại học chiếm 70%.Chất lượng nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển lâu dài và bền vững của ngân hàng. Do đó PG Bank cần : Tổ chức nhiều khóa đào tạo cho nhân viên, đồng thời cử nhân viên tham gia các khóa đào tạo chuyên ngành tại các trung tâm đào tạo chuyên nghiệp nhằm san bằng khoảng cách giữa năng lực hiện có của nhân viên với năng lực do công việc đòi hỏi, giúp nhân viên thực hiện tốt công việc hiện tại, đồng thời đào tạo các nhân viên có tiềm năng cao chuẩn bị để sẵn sàng cho những chức vụ cao hơn trong tương lai.Trong đó PG Bank cần ưu tiên những khóa đào tạo cho đội ngũ kinh doanh và thực hiện công tác dịch vụ khách hàng. (Hướng dẫn Hội nhập, Đào tạo nghiệp vụ Tài trợ Thương mại và Thanh toán Quốc tế, Đào tạo nghiệp vụ Internet banking, Mobile banking, kỹ thuật thao tác trên Corebanking, kỹ năng “Dịch vụ chăm sóc khách hàng, nghiệp vụ tín dụng, thẩm định, kỹ năng “Bán hàng và tư vấn”,…Đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp và nhiệt tình sẽ là một thế mạnh lớn của ngân hàng trong việc phát triển sản phẩm thẻ. Hiện nay, tất cả cán bộ nhân viên chính thức của PG Bank đều được hưởng các trợ cấp xã hội phù hợp với Luật Lao động. Bên cạnh đó, nhân viên còn nhận được các phụ cấp theo chế độ như phụ cấp độc hại, phụ cấp rủi ro tiền mặt, phụ cấp chuyên môn, tai nạn lao động và những khoản trợ cấp khác. Ngoài ra, PG Bank cũng nên triển khai một số phúc lợi mới cho nhân viên như chế độ bảo hiểm chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ y tế. 3.3.5 Mở rộng mạng lưới chi nhánh và các đơn vị chấp nhận thẻ PG Bank là một ngân hàng nhỏ trong hệ thống, do đó mạng lưới các chi nhánh mới chỉ tập trung ở các thành phố lớn, số lượng chi nhánh còn rất khiêm tốn, vì vậy sẽ tạo ra bất tiện cho người sử dụng thẻ khi thanh toán cũng như giải quyết các sự cố về thẻ. Tính đến nay, PG Bank đã 51 điểm giao dịch trong đó có 14 chi nhánh 37 phòng giao dịch. Năm 2009,trụ sở chính của PG Bank được đặt tại 132-134 Nguyễn Huệ, Phường 2, Thành phố Cao Lãnh, Đồng Tháp.Tháng 3 vừa qua, PG Bank đã chuyển trụ sở chính về Hà Nội. Đó cũng là một trong những bước ngoặt của ngân hàng. Đối với các ngân hàng, nhất là những đơn vị còn non trẻ, việc mở rộng mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch là điều kiện tiên quyết để tăng thị phần trong bối cảnh cạnh tranh trên thị trường tài chính - ngân hàng ngày càng gay gắt. Với mục tiêu tăng vốn điều lệ lên 3000 tỷ đồng trong năm 2010, việc mở rộng mạng lưới hoạt động nên được ưu tiên hàng đầu. Hiện nay, các đơn vị chấp nhận thẻ Flexicard mới chỉ dừng lại ở các cửa hàng xăng dầu của Petrolimex. Cùng với chiến dịch khuếch trương tên tuổi, ngân hàng cũng cần đơn giản hóa các thủ tục làm đơn vị chấp nhận thẻ, và đặt ra những ưu đãi nhiều hơn nữa để mạng lưới chấp nhận thẻ lớn hơn.Sản phẩm thẻ Flexicard bây giờ mới chỉ là độc quyền của Petrolimex. Nếu mua xăng dầu tại các cửa hàng xăng dầu của các công ty khác mà vẫn sử dụng được thẻ thì sẽ tiện lợi hơn rất nhiều. Với số lượng phương tiên cơ giới lớn như nước ta thì mua xăng dầu bằng thẻ sẽ tiết kiệm được một khối lượng tiền mặt lớn trong lưu thông. Hiện nay các ngân hàng tại Việt Nam vẫn tích cực kết hợp các giá trị gia tăng vào thẻ ATM, song hầu hết chỉ là những nỗ lực độc lập của chính ngân hàng đó, chứ chưa có sự liên kết, liên ngân hàng với nhau. Nếu có tài khoản tại ngân hàng khác, không mở được Flexicard. Trong thời gian tới việc tăng cường liên kết với các ngân hàng khác trong hệ thống sẽ giúp cho sản phẩm thẻ Flexicard phát huy tối đa tác dụng của nó. Và chắc chắn sẽ thu hút được số lượng đông đảo khách hàng hơn. Tóm lại, trong thời gian tới ngân hàng nên mở rộng hơn nữa các chi nhánh, phòng giao dịch cũng như tìm kiếm thêm các đơn vị chấp nhận thẻ để mạng lưới hoạt động của thẻ Flexicard được tốt hơn. Trên đây là một số giải pháp theo ý kiến cá nhân tôi về vấn đề phát triển hoạt động kinh doanh thẻ Flexicard của ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu Petrolimex. Ngoài những nỗ lực từ phía ngân hàng, cũng rất cần sự ủng hộ của các cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền. Đó là Ngân hàng Nhà Nước và Chính phủ. Dưới đây là một vài kiến nghị nhằm đưa hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và thẻ Flexicard nói riêng được phát triển hơn. 3.4 Một số kiến nghị nhằm phát triển hoạt động phát hành và thanh toán thẻ Các cơ quan chức năng nhà nước có chức năng quản lý và điều hành hoạt động thanh toán thẻ trên thị trường. Tại nước ta, khi mà việc thanh toán thẻ vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, chức năng quản lý của các cơ quan chức năng nhà nước càng được coi trọng. Các cơ quan này phải thực hiện chức năng quản lý và xác định phương hướng phát triên thẻ thanh toán trên tầm vi mô và vĩ mô. Các cơ quan chức năng nên có những hoạt động cụ thể góp phần phát triển dịch vụ thanh toán thẻ. Dưới đây là một vài kiến nghị. 3.4.1 Với Ngân hàng Nhà Nước 3.4.1.1 Đưa ra những chiến lược phát triển chung của toàn hệ thống ngân hàng thương mại Ngân hàng nhà nước đóng vai trò to lớn trong việc định hướng chiến lược chung cho các ngân hàng thương mại thực hiện dịch vụ thẻ để tạo ra sự thống nhất về quản lý và bình đẳng trong cạnh tranh giữa các ngân hàng phát hành và thanh toán thẻ trong cả nước. Cùng với Ngân hàng nhà nước, Hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ Việt nam ra đời đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển dịch vụ thẻ tại Việt Nam. Hiệp hội các Ngân hàng thanh toán thẻ thường xuyên làm việc với Ngân hàng nhà nước và duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các Tổ chức thẻ quốc tế nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển nghiệp vụ thẻ ở Việt Nam. Hội cũng đã thu hút hầu hết các ngân hàng thực hiện dịch vụ thẻ tại Việt Nam tham gia, thống nhất mức phí, áp dụng các chính sách chung nhằm mục đích đảm bảo lợi nhuận cho tất cả các ngân hàng và thị trường thẻ cạnh tranh lành mạnh. Tuy vậy,các hoạt động thanh toán thẻ vẫn chịu sự quản lý chung của Ngân hàng nhà nước. Trên thực tế, đã có văn bản quy định, hướng dẫn các ngân hàng trong việc cung cấp thẻ và các chủ thẻ trong việc sử dụng thẻ, trong đó có quy định về quyền và nghĩa vụ của các ngân hàng và các chủ thẻ trong hoạt đông thanh toán thẻ nhưng đây chỉ là các quy định hướng dẫn của thủ tướng chính phủ đưa xuống và các ngân hàng thực hiện. Thị trường thẻ là một thị trường tiềm năng, thẻ thanh toán là một phương thức thanh toán tiến bộ, cần phải có một tổ chức chính thức đứng ra nhận trách nhiệm điều hành và quản lý hoạt động này giống như ngân hàng trung ương điều hành hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại. 3.4.1.2 Đưa ra các chính sách khuyến khích việc mở rộng hoạt động kinh doanh thẻ. Ngân hàng nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng không ngại đầu tư mở rộng dịch vụ thẻ bằng việc trợ giúp các ngân hàng trong nước trong việc phát triển nghiệp vụ thẻ để tạo điều kiện cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài đồng thời có biện pháp xử phạt nghiêm khắc đối với những vi phạm quy chế hoạt động thẻ. Ngân hàng nhà nước nên thường xuyên phối hợp với các ngân hàng thương mại tổ chức những khoá học, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về thẻ cho các ngân hàng thương mại cùng tham gia; giới thiệu để các ngân hàng thương mại thu thập thông tin, tài liệu chuyên đề về thẻ; cùng các ngân hàng thương mại trao đổi kinh nghiệm, giải quyết những khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện. Phải xây dựng hành lang pháp lý vững chắc, chặt chẽ cho hoạt động thanh toán thẻ. Tránh để xảy ra việc quyền lợi của chủ thẻ bị xâm phạm mà kêu trời, trời không thấu, kêu đất, đất không hay chẳng hạn như việc chủ thẻ đi rút tiền tại máy ATM nhưng bị xâm pham quyền lợi (rút tiền không được nhưng vẫn bị trừ tiền trong tài khoản nhưng vẫn không có cơ quan nào chịu trách nhiệm), phải có biện pháp chế tài nghiêm khắc như phạt vào tài chính thật nặng đối với các tổ chức không thực hiện các quy định về phát hành và sử dụng thẻ thanh toán. Có hoạt động khuyến khích hoặc bắt buộc các ngân hàng liên kết với nhau để tạo ra thị trường thanh toán rộng. Hiện nay, đã có 4 tổ chức liên kết thẻ, nhưng các tổ chức này chỉ thực hiện liên kết thanh toán thẻ giữa các ngân hàng trong liên minh. Cần phải khuyến khích hoặc bắt buộc 4 liên minh này liên kết với nhau. Phải có hoạt động hỗ trợ cho việc phát triển thẻ. Chúng ta thấy rằng, các ngân hàng không phải không muốn phát triển dịch vụ thẻ thanh toán mà là do phí tổn ban đầu khá cao tạo sức ép cho khiến các ngân hàng vẫn rụt rè trong việc cung cấp dịch vụ này. Các cơ quan chức năng nhà nước nên cung cấp vốn vay cho các ngân hàng đẩy mạnh dịch vụ này với mức lãi suất phù hợp. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngân hàng, ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng chuẩn hóa tiêu chuẩn cán bộ ở các vị trí trong yếu trong hoạt động ngân hàng, trong đó phải chú trong đến tiêu thức cấp độ kiến thức phải đạt được. Ngân hàng Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành. Với vai trò quản lý nhà nước đối với toàn ngành, đang quản lý song trùng hai cơ sở đào tạo đại học và một số phân hiệu đào tạo trung cấp, cao đẳng của ngành, Ngân hàng Nhà Nước cần xây dựng chiến lựợc phát triển nguồn nhân lực trung và dài hạn trên cơ sở chiến lược phát triển của cả hệ thống Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, trong đó có nguồn nhân lực cho ngân hàng. 3.4.2 Với Chính Phủ 3.4.2.1 Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về thẻ thanh toán Hiện nay, số tội phạm có liên quan đến thẻ ngày càng gia tăng. Tình hình tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng trên địa bàn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cũng có nhiều diễn biến phức tạp. Thực tiễn điều tra các vụ án xảy ra trong ngân hàng cho thấy, các đối tượng phạm tội có nhiều phương thức, thủ đoạn rất tinh vi nhằm đối phó với các cơ quan chức năng. Chúng thường là những đối tượng được ngân hàng giao chức trách trực tiếp giao dịch với khách hàng, lợi dụng các kẽ hở trong việc kiểm tra, kiểm soát của ngân hàng để phạm tội, có hành vi diễn ra trong thời gian dài mới bị phát hiện. Điển hình là Lê Hoài Phương, nguyên là trưởng phòng giao dịch Đông Ngạc của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chi nhánh Cầu Giấy đã lợi dụng chức vụ và lòng tin của nhân viên để lấy mật khẩu truy cập và mã giao dịch để vào chương trình quản lý tiền của ngân hàng chiếm đoạt tài sản trong thời gian hơn 6 tháng với số tiền lên đến hơn 27 tỷ đồng. Ở Việt Nam, pháp luật thiếu và còn nhiều sơ hở, trang bị kỹ thuật còn thiếu sẽ là mảnh đất lý tưởng cho bọn tội phạm hoạt động. Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng pháp luật, các văn bản dưới luật về kinh tế, bổ sung các luật hiện hành; bộ luật hình sự nước ta cần sớm đưa ra khung hình phạt cho các tội phạm liên quan đến thẻ như: sản xuất, tiêu thụ thẻ giả, ăn cắp mã số… nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Ngoài ra, các cơ quan chức năng có liên quan như Bộ công an, cảnh sát kinh tế, cảnh sát quốc tế… cũng cần có những biện pháp phối hợp với ngân hàng trong việc phát hiện và xử lý tội phạm trong lĩnh vực này. Lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về thanh tra quản lý thị trường và chức vụ thuộc Công an thành phố và các quận huyện cũng nên tăng cường phổ biến, đề nghị các ngân hàng tự đề cao cảnh giác, có biện pháp tự phòng chống vi phạm trong ngân hàng mình. Đồng thời, chủ động trong hoạt động trinh sát, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vụ án phạm tội trong lĩnh vực ngân hàng, phối hợp với các ngành nội chính nhanh chóng đưa ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật, tạo sự răn đe. Mới đây ngày 23/3/2010, Hội thảo - Triển lãm Quốc gia về An ninh Bảo mật (Security World) đã khai mạc tại Hà Nội. Tại hội thảo, các chuyên gia về an ninh mạng dự báo, năm 2010 Việt Nam sẽ tiếp tục là năm nóng bỏng về an ninh mạng, đặc biệt là lĩnh vực tài chính ngân hàng, bằng việc xuất hiện nhiều biến thể virus mới, tội phạm mạng sẽ chuyên nghiệp, tinh vi hơn, các vụ việc đánh cắp thông tin dữ liệu về người dùng sẽ phức tạp hơn. Song song với các kinh nghiệm triển khai là những tham luận giới thiệu các giải pháp bảo mật mới và hiệu quả từ các tập đoàn công nghệ lớn như SecureMetric, Symantec, Oracle, BKAV, Misoft, M.Tech, NDS...Cuộc hội thảo này rất có ý nghĩa trong việc phòng chống tội phạm ngân hàng. Với trình độ công nghệ ngày càng hiện đại thì việc tổ chức những hội nghị tương tự như vậy cần được làm nhiều hơn nữa. Bởi việc đối phó với bọn tội phạm tinh vi này một mình ngân hàng làm không nổi. 3.4.2.2 Tạo môi trường kinh tế xã hội ổn định Một môi trường kinh tế xã hội ổn định luôn là nền tảng vững chắc cho mọi sự phát triển. Phát triển thẻ cũng không nằm ngoài quy luật đó. Kinh tế xã hội có ổn định và phát triển bền vững thì đời sống của người dân mới được cải thiện, quan hệ quốc tế mới được mở rộng, mới có điều kiện tiếp xúc với các công nghệ thanh toán hiện đại của ngân hàng. Kinh tế xã hội có phát triển thì ngân hàng mới có thể mở rộng được đối tượng phục vụ của mình. Trong những năm vừa qua, tình hình kinh tế xã hội ở nước ta là tương đối ổn định. Song thu nhập chung của người dân là chưa cao. Như trên đã phân tích, để hoạt động dịch vụ thẻ trở thành nhu cầu thiết yếu của người dân thì mức thu nhập cao là yếu tố quyết định khá nhiều. Nâng cao mức sống của dân cư, bảo đảm an sinh xã hội, tạo ra một môi trường phát triển ổn định và bền vững. Đó là tiền đề quan trọng để phát triển hơn nữa việc thanh toán không dùng tiền mặt. 3.4.2.3 Tăng cường đầu tư cho giáo dục Đầu tư cho hệ thống giáo dục là đầu tư phát triển nhân tố con người. Vấn đề này phải nằm trong chiến lược phát triển chung của một quốc gia. Do vậy, muốn có một đội ngũ lao động có trình độ, đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển, đặc biệt trong một ngành áp dụng nhiều công nghệ tiên tiến vào bậc nhất trên thế giới như ngân hàng, thì cần có một đường lối chiến lược, chỉ đạo của nhà nước. Nhà nước cần khuyến khích các trường đại học mở ra những ngành học chuyên môn về thẻ ngân hàng, công nghệ thẻ nằm trong khối ngành kinh tế chung. Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển của mọi nền kinh tế. Chưa lúc nào vấn đề phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề thời sự nóng bỏng ở nước ta như trong giai đoạn hiện nay, khi mà Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực luôn giữ vai trò quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung, của ngành ngân hàng nói riêng. Nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức tín dụng nói chung – ngân hàng thương mại nói riêng đang là vấn đề được xã hội quan tâm. Do hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh tranh giữa các quốc gia, giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Thực trạng này, các tổ chức tài chính – ngân hàng Việt nam vẫn còn nhiều khó khăn về công nghệ, trình độ quản lý, năng lực tài chính và nguồn nhân lực có chất lượng cao. Với chiến lược mở rộng thị trường, các tổ chức tài chính – ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam mang theo rất nhiều cái mới: Tư duy mới; công nghệ mới; sản phẩm, dịch vụ mới và trình độ quản lý hiện đại…Họ muốn sử dụng nguồn nhân lực sẵn có của Việt Nam để triển khai những dịch vụ tài chính, ngân hàng, nhưng nguồn nhân lực của các cơ sở đào tạo( Đại học/ Học viện) cử nhân tài chính – ngân hàng nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu của các ngân hàng cả về số lượng và chất lượng. Có thể chỉ ra một vài hạn chế lớn của các tân cử nhân tài chính – ngân hàng : Khả năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng viết; kỹ năng làm việc theo nhóm; kỹ năng lắng nghe, kỹ năng ứng xử…: Đây là các kỹ năng quan trọng trong quá trình làm việc ở nhiều vị trí trong ngân hàng. Đa số các tân cử nhân vào làm việc trong ngân hàng được bố trí là cán bộ quan hệ khách hàng, các giao dịch viên, những cán bộ này thực hiện nhiệm vụ bán các sản phẩm/ dịch vụ ngân hàng cho khách hàng. Nhưng bán cho ai? Bán như thế nào? Làm thế nào để khách hàng sử dụng sản phẩm/ dịch vụ của ngân hàng mình mà không chạy đến ngân hàng khác…đều là những vấn đề rất bỡ ngỡ với tân cử nhân. Do không được tiếp cận với thực tế, không ít tân cử nhân vào vị trí công việc không biết bắt đầu từ đâu, các thao tác rất lúng túng, hiệu năng công việc không cao, ở một chừng mục nhất định đã hạn chế tính năng động sáng tạo trong công việc được được giao. Tiếng anh. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, yêu cầu nắm bắt thông tin và xử lý thông tin ngày càng bức thiết. Một trong những kênh cung cấp thông tin nhanh và đa dạng chính là Internet. Muốn “lướt” tin trên các trang tin nhanh chóng thì đòi hỏi tiếng anh không chỉ dừng lại ở mức cơ bản, tiếng anh giao tiếp, mà phải có được “vốn” tiếng anh để giúp đọc hiểu tin tức và thu thập thông tin thị trường. Nhưng trên thực tế, không nhiều tân cử nhân đáp ứng được yêu cầu này khi tuyển dụng. Hiện cả nước có khoảng 40 cơ sở đào tạo ngành tài chính – ngân hàng, trong đó có 24 trường đại học với số lượng sinh viên ra trường mỗi năm khoảng 11.000, và khoảng 7.000 sinh viên ra trường mỗi năm của 16 trường cao đẳng. Trong số này, rất ít sinh viên được các ngân hàng tuyển dụng. Một điều tra mới đây của tổ chức chuyên nghiệp cho thấy cứ 25 đến 30 tân cử nhân xin việc, thì có 1 người nhận được việc làm . Ngay cả với tỷ lệ chọn lọc như vậy, nhưng các tân cử nhân này cũng rất ít thích nghi được ngay (nếu có thì mức độ rủi ro rất tác nghiệp cao). Vì thế, các tân cử nhân này vẫn cần ít nhất từ 5 đến 8 tuần đào tạo cho từng vị trí mới có thể bắt tay vào công việc ở một số công đoạn nhất định. Như vậy, chất lượng đào tạo tân cử nhân của các Đại học/ Học viện còn có khoảng cách xa so với yêu cầu thực tế. Do đó vấn đề đặt ra là nên đầu tư hơn nữa cho giáo dục, quan tâm đến chất lượng nhiều hơn số lượng, đặc biệt hơn là khi đào tạo về lĩnh vực ngân hàng cần có sự quan sát, học hỏi thực tế để khi ra trường các sinh viên không khỏi bỡ ngỡ. 3.4.2.4 Tích cực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Việc đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị kỹ thuật để hiện đại hoá công nghệ ngân hàng không là vấn đề của riêng ngành ngân hàng mà của cả nước ta, nằm trong chiến lược phát triển kinh tế của cả nước. Do vậy, nhà nước cần chú ý đầu tư cho lĩnh vực này, nhanh chóng đưa nước ta theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới về công nghệ ngân hàng. Riêng đối với lĩnh vực thẻ, nhà nước cần có chính sách khuyến khích các ngân hàng đầu tư phát triển và trang bị các máy móc thiết bị phục vụ thanh toán, phát hành thẻ mà nếu chỉ có ngành ngân hàng thì không thể đáp ứng nổi. Chính phủ có thể có các chính sách cho vay ưu đãi để ngành ngân hàng tăng cường vào đầu tư trang thiết bị mới. Ngoài ra khi mà Nhà Nước khuyến khích việc liên kết giữa các ngân hàng thì hệ thống thanh toán liên ngân hàng cần phải thực hiện thông suốt. Có như vậy dịch vụ thẻ thanh toán mới có thể áp dụng được cho cả những người không có tài khoản tại PG Bank. Nhờ đó mà thanh toán không dùng tiền mặt cũng phát triển hơn. KẾT LUẬN Ngân hàng thương mại cổ phần Xăng dầu Petrolimex (PG Bank) là ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, hoạt động trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Hiện PG Bank là ngân hàng có quy mô nhỏ trong hệ thống. Mặc dù mới chuyển đổi thành ngân hàng đô thị, nhưng PG Bank đã nhanh chóng khẳng định vị thế của mình trên thị trường. Trải qua hơn 15 năm hoạt động, PG Bank đã trở thành một ngân hàng đô thị với sự phát triển vượt bậc và khẳng định vị trí của mình trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Thương hiệu của PG Bank đã trở nên quen thuộc trên toàn quốc, điều này được khẳng định qua những chỉ tiêu tài chính tính đến 30/09/2009 mà PG Bank đạt được như sau: Tổng tài sản 12.489 tỷ đồng, tổng vốn huy động đạt 10.942 tỷ đồng, trong đó, huy động từ cá nhân và tổ chức kinh tế đạt 5.872 tỷ đồng, và tổng dư nợ cho vay đạt 5.499 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế đạt hơn 140 tỷ đồng, tương đương tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn điều lệ bình quân dự kiến năm 2009 đạt 18,6%. Tổng số nhân viên của hệ thống PG Bank lên tới hơn 800 người với mạng lưới hoạt động kinh doanh gồm hơn 50 điểm giao dịch trên toàn quốc. Thương hiệu PG Bank đã có mặt tại các địa bàn kinh tế lớn của cả nước như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ, Đồng Tháp, Vũng Tàu, Long An, Đồng Nai, Hải Dương… PG Bank cung cấp đa dạng và đồng bộ các sản phẩm dịch vụ cho các đối tượng là khách hàng cá nhân, khách hàng doanh nghiệp và các tổ chức tài chính ngân hàng. Hiện nay, PG Bank đang mở rộng mạng lưới kinh doanh, triển khai áp dụng các chương trình lãi suất hấp dẫn, chính sách khuyến mãi phù hợp cho từng đối tượng khách hàng. Năm 2009 vừa qua, sau 2 năm chuẩn bị, PG Bank đã tung ra thị trường sản phẩm thẻ đầu tiên mang tên thẻ Flexicard. Đây là loại thẻ sử dụng công nghệ hiện đại nhất, công nghệ thẻ chip không tiếp xúc.Thẻ Flexicard là loại thẻ đa tiện ích, ứng dụng nhiều tính năng trong chỉ một chiếc thẻ nhỏ gọn, vừa là thẻ thanh toán tiền xăng dầu, vừa là thẻ ATM, vừa có tính năng ghi nợ lại có cả tính năng trả trước. Với sản phẩm mới này, PG Bank cũng đã bước đầu thu được những thành công đáng kể, tên tuổi của ngân hàng đã gắn liền với thẻ Flexicard. Các cơ quan Nhà Nước cũng như cơ quan thông tin đại chúng đều rất ủng hộ cho loại hình thanh toán mới này. Nhiều hợp đồng có giá trị, nhiều đối tác mới cũng đã bắt tay với PG Bank và Petrolimex trong việc sử dụng thẻ Flexicard.Nhưng tham gia thị trường thẻ muộn hơn so với các ngân hàng khác, lại là ngân hàng tương đối nhỏ trong hệ thống nên PG Bank gặp không ít khó khăn. Từ thói quen tiêu dùng tiền mặt của người dân, chế độ bất hợp lý của một số chính sách, cho tới thương hiệu ngân hàng chưa lớn nên chưa đáp ứng được lòng tin của khách hàng. Cho tới thời điểm này, thẻ Flexicard mới chỉ thực hiện là thẻ mua xăng dầu giống như hình thức nạp tiền điện thoại cho thuê bao trả trước, chứ chưa thực sự phát huy hết các tính năng của mình. Số lượng thẻ Flexicard đầy đủ tính năng cũng chỉ bằng 1/3 so với số thẻ trả trước. vì công nghệ hiện đại nên việc thanh toán thẻ cũng chưa quen thuộc với cả khách hàng lẫn nhân viên thanh toán tại các cửa hàng xăng dầu. Điều này cũng làm giảm giá trị của thẻ. Hơn nữa thẻ Flexicard mới chỉ là liên kết giữa Petrolimex với PG Bank chứ không phải là các cơ sở cung cấp xăng dầu khác. Do đó thiếu đi sự liên kết nhiều ngành. Nếu tăng cường liên kết liên ngân hàng và với các công ty cung cấp xăng dầu khác thì thẻ Flexicard sẽ có một chỗ đứng vững chắc hơn trên thị trường. Thông qua việc phân tích thực trạng sử dụng thẻ, tôi cũng đã đưa ra một vài giải pháp nhằm hoàn thiện hơn việc kinh doanh thẻ tại PG Bank. Cơ hội phát triển dịch vụ thẻ mở ra rất lớn cho các ngân hàng thương mại nói chung và PG Bank nói riêng. Vì vậy PG Bank cần xác định cho mình một chiến lược phát triển lâu dài và mạnh dạn hơn nữa trong việc đầu tư cho loại hình dịch vụ mới thẻ ngân hàng.Cùng với sự nỗ lực của tập thể cán bộ nhân viên PG Bank và những khuyến khích của các cơ quan quản lý Nhà Nước về việc thanh toán không dùng tiền mặt, trong thời gian tới, chắc chắn thẻ Flexicard sẽ còn phát triển hơn nữa. trong tương lai không xa hi vọng thẻ Flexicard có thể trở thành điển hình cho việc thanh toán hàng hóa bằng thẻ ở Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo tài chính ngân hàng thương mại cổ phần Xăng dầu Petrolimex đã qua kiểm toán năm 2006,2007,2008,2009 Đề tài nghiên cứu khoa học :”Khảo sát thực trạng sử dụng và tiềm năng phát triển thẻ thanh toán tại thành phố Hồ Chí Minh” – Khoa kinh tế - Đại học Quốc Gia thành phố Hồ Chí Minh - 2009 Giáo trình : Ngân hàng thương mại – chủ biên PGS.TS Phan Thị Thu Hà – Nhà xuất bản Đại học Kinh Tế Quốc Dân – 2007 Giáo trình : Lý thuyết tài chính tiền tệ - chủ biên PGS.TS Nguyễn Hữu Tài – Nhà xuất bản Đại học Kinh Tế Quốc Dân – 2007 Quản trị ngân hàng Thương mại- Peter S.Rose- Nhà xuất bản Tài Chính - 2001 Tạp chí ngân hàng năm 2009 Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính – Frederic S.Miskin – Nhà xuất bản Khoa học kinh tế - 1994 NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP Họ và tên cán bộ nhận xét :…………………………………………………………. Đơn vị :……………………………………………………………………………... Chức vụ :…………………………………………………………………………… Ý kiến nhận xét : ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………….... ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… Hà Nội, ngày tháng năm 2010 Người nhận xét (Kí tên và đóng dấu) NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN Họ và tên giáo viên hướng dẫn : PGS.TS Đàm Văn Huệ Sinh viên thực tập : Phạm Thu Trang Mã sinh viên : CQ483102 Lớp : Tài chính doanh nghiệp 48A Ý kiến nhận xét: ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… Hà Nội ngày tháng năm 2010 Người nhận xét

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoàn thiện và phát triển hoạt động kinh doanh thẻ Flexicard của ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu Petrolimex (PG Bank).doc
Luận văn liên quan